Giáo trình Tài chính doanh nghiệp tên (Phần 1) - Nghề: Kế toán doanh nghiệp

BÀI MỞ ĐẦU

TỔNG QUAN VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

1. Mục tiêu:

- Nhận biết được hoạt động của doanh nghiệp và tài chính;

- Trình bày được các nội dung cơ bản của tài chính doanh nghiệp;

- Trình bày được các nhân tố ảnh hưởng đến tổ chức tài chính doanh nghiệp;

- Phân tích được vai trò của tài chính doanh nghiệp;

- Phân biệt được các loại hình doanh nghiệp theo luật doanh nghiệp;

- Giải thích được bản chất tài chính của doanh nghiệp; nghiêm túc khi nghiên cứu;

- Tuân thủ luật và chế độ quản lý tài chính của nhà nước;

2. Nội dung:

2.1. Tài chính doanh nghiệp

2.1.1. Hoạt động của doanh nghiệp và tài chính

Khái niệm: Tài chính có nghĩa là phương thức huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực

khan hiếm (nguồn lực tài chính) nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của các chủ thể trong phát

triển kinh tế – xã hội.

Chức năng:

 Phân bổ nguồn lực tài chính

– Đối tượng phân bổ của tài chính là tổng thể các nguồn lực tài chính có trong xã hội.

– Các chủ thể tham gia vào phân bổ các nguồn lực tài chính có thể là những người có

khả năng cung ứng vốn, hoặc những chủ thể đóng vai trò quản lí nhà nước, các cơ quan,

tổ chức chuyên môn, các tổ chức xã hội.

– Mỗi chủ thể lại tham gia vào việc phân bổ các nguồn lực với tư cách khác nhau như:

Là người có quyền sở hữu nguồn tài chính , người có quyền sử dụng nguồn tài chính hay

người có quyền lực chính trị trong quản lí kinh tế xã hội.

– Các nguồn lực tài chính, các hoạt động tài chính, với sự tham gia của các chủ thể khác

nhau sẽ được phân phối và phân phối lại dưới các hình thức, phương thức khác nhau để

đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong phát triển kinh tế – xã hội.

– Những phương thức và đặc thù của các hoạt động tài chính, các quan hệ phân phối tài

chính diễn ra trong nội tại các chủ thể như: các hộ gia đình, các doanh nghiệp, Chính

phủ, các tổ chức tài chính trung gian

Chức năng kiểm tra

– Chức năng kiểm tra của tài chính là khả năng khách quan cả tài chính, con người nhận

thức và vận dụng khả năng khách quan này của tài chính để tổ chức công tác kiểm tra tài2

chính trong hoạt động thực tiễn, nhằm sử dụng nó với tư cách là một công cụ kiểm tra,

kiểm soát quá trình phân bổ những nguồn lực tài chính của xã hội.

– Kiểm tra tài chính là kiểm tra quá trình phân bổ các nguồn lực tài chính, nhằm đảm bảo

quá trình đó diễn ra đúng với các yêu cầu của các qui luật kinh tế khách quan.

– Đối tượng của kiểm tra tài chính là quá trình vận động của các nguồn lực tài chính, quá

trình khai thác, huy động và sử dụng các nguồn tài lực nhằm đảm bảo tính mục đích, tính

hợp lí, tính hiệu quả của quá trình phân phối, sử dụng các nguồn lực tài chính khan hiếm.

pdf50 trang | Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 23/05/2022 | Lượt xem: 257 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình Tài chính doanh nghiệp tên (Phần 1) - Nghề: Kế toán doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thế chấp bằng hàng hoá. Các loại hàng hoá và tài sản cũng thường được sử dụng để thế chấp cho những khoản vay ngắn hạn. Giá trị của những khoản vay nhiều hay ít tuỳ thuộc vào giá trị thực của các hàng hoá tài sản. Trong trường hợp thế chấp này ngân hàng phải tính cả đến tính chất chuyển đổi của các hàng hoá thành tiền và tính ổn định về giá cả của các loại hàng hoá đó. Thông thường những hàng hoá dễ dàng vận chuyển đi lại hoặc những hàng hoá mà 31 có giám định chất lượng như xe hơi, máy tính thì độ rủi ro cao hơn, nên ngân hàng cho vay với tỷ lệ thấp so với giá trị của hàng hoá đem thế chấp. * Chiết khấu thương phiếu. Thương phiếu là chứng từ biểu thị một quan hệ tín dụng, một nghĩa vụ trả tiền được lập ra trên cơ sở các giao dịch thương mại. Chiết khấu là nghiệp vụ qua đó ngân hàng dành cho khách hàng được quyền sử dụng cho đến kỳ hạn của thương phiếu một khoản tiền của thương phiếu sau khi đã trừ khoản lãi phải thu, tức tiền chiết khấu và các khoản chi phí chiết khấu. Ký hiệu: C là mệnh giá thương phiếu, là khoản tiền được ghi trên thương phiếu; E là tiền chiết khấu V là giá trị hiện tại Ta có V=C-E Theo loại chiết khấu thương mại thì thì số tiền thu được do đem các thương phiếu đi chiết khấu được tính theo công thức: C × i × n V = C - -------------- 360 Trong đó: r là lãi suất chiết khấu n là số ngày chiết khấu Số tiền chiết khấu thương mại Ec là số tiền lãi thu được trên mệnh giá C của thương phiếu theo công thức: C × i × n Ec = ------------- 360 Trong thực tế ngoài các chiết khấu thương mại người ta còn sử dụng chiết khấu hợp lý. Chiết khấu hợp lý được tính trên giá trị hiện tại hợp lý V' của thương phiếu. số tiền chiết khấu hợp lý Er là số tiền lãi thu được theo công thức: Er = (V '×r × n)/ 360 Và C = V' + Er Theo cách chiết khấu này thì số tiền thu được do đem thương phiếu đi chiết khấu được tính bằng công thức 360 × C V' =------------------ 360 + r × n 32 2.3.3. Tổ chức đảm bảo nhu cầu vốn lưu động thường xuyên cần thiết Để đảm bảo vốn cho nhu cầu tài trợ tài sản phục vụ cho hoạt động SXKD, doanh nghiệp cần phải tổ chức đảm bảo nguồn vốn đáp ứng cho nhu cầu vốn. Tổ chức đảm bảo nguồn VLĐ liên quan tới việc quyết định mô hình tài trợ vốn phù hợp cho DN, cụ thể là nhà quản trị phải tiến hành xem xét, lựa chọn và kết hợp các nguồn vốn để tài trợ, hình thành tài sản lưu động. Để đưa ra quyết định về mô hình tài trợ VLĐ, nhà quản trị cần cân nhắc hai yếu tố cơ bản, đó là: chi phí liên quan tới nguồn vốn huy động (lãi suất phải trả hay tất cả chi phí có liên quan tới việc tiếp cận nguồn vốn), và rủi ro của nguồn vốn (ví dụ như sự biến động về lãi suất của nguồn vốn, khả năng trả nợ đúng hạn của doanh nghiệp, rủi ro của việc mất khả năng thanh toán,). Có thể phân loại tài sản của doanh nghiệp như sau: – Tài sản cố định (TSCĐ): là những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài và tham gia vào nhiều chu kỳ SXKD. – Tài sản lưu động thường xuyên (TSLĐ thường xuyên): là những tài sản mà DN cần phải dự trữ, sử dụng để đáp ứng cho việc duy trì hoạt động SXKD được diễn ra thường xuyên, liên tục. – Tài sản lưu động tạm thời (TSLĐ tạm thời): thường có tính chất tạm thời, không thường xuyên, chỉ phát sinh nhu cầu sử dụng trong một giai đoạn nhất định nào đó chứ không xuất phát từ nhu cầu thường xuyên của DN. Các loại tài sản này được hình thành bởi hai nguồn vốn chủ yếu đó là: nguồn vốn thường xuyên (nguồn vốn dài hạn gồm nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu), nguồn vốn tạm thời (nguồn vốn ngắn hạn ). Để đánh giá cách thức tài trợ VLĐ của DN sử dụng chỉ tiêu nguồn VLĐ thường xuyên. Nguồn VLĐ thường xuyên là nguồn vốn ổn định có tính chất dài hạn để hình thành hay tài trợ cho TSLĐ thường xuyên cần thiết cho hoạt động kinh doanh của DN. Cách xác định nguồn VLĐ thường xuyên (NWC) như sau: NWC = Tài sản ngắn hạn – Nợ ngắn hạn Hoặc NWC = Nguồn vốn dài hạn – Tài sản dài hạn Về lý thuyết, có ba mô hình tài trợ như sau: 33 Mô hình tài trợ thứ nhất: Toàn bộ TSCĐ và TSLĐ thường xuyên được đảm bảo bằng nguồn vốn thường xuyên, toàn bộ TSLĐ tạm thời được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời. Mô hình tài trợ này có ưu điểm và hạn chế sau: Ưu điểm: Giúp DN chủ động, hạn chế được rủi ro trong thanh toán, mức độ an toàn cao hơn; giảm bớt được chi phí trong việc sử dụng vốn. Hạn chế: Chưa tạo ra sự linh hoạt trong tổ chức cơ cấu nguồn vốn của DN Mô hình tài trợ thứ hai: Toàn bộ TSCĐ, TSLĐ thường xuyên, một phần TSLĐ tạm thời được tài trợ bằng nguồn vốn thường xuyên, còn một phần TSLĐ tạm thời được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời Mô hình tài trợ này có ưu điểm và hạn chế sau: Ưu điểm: Sử dụng mô hình này DN giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn vốn ngắn hạn, tăng khả năng thanh toán, giảm được rủi ro, tạo ra độ an toàn cao hơn. Hạn chế: Chi phí sử dụng vốn của mô hình này cao hơn rất nhiều so với mô hình 1 (do nguồn vốn dài hạn thường có chi phí cao hơn nguồn ngắn hạn). Mô hình tài trợ thứ ba: Toàn bộ TSCĐ và một phần TSLĐ thường xuyên được đảm bảo bằng nguồn vốn thường xuyên, còn một phần TSLĐ thường xuyên và TSLĐ tạm thời được đảm bảo bằng nguồn vốn tạm thời. Mô hình tài trợ này có ưu điểm và hạn chế sau: Ưu điểm: Tính linh hoạt trong cơ cấu nguồn vốn cao. Chi phí sử dụng vốn thấp hơn so với hai mô hình trên (do sử dụng nhiều nguồn ngắn hạn, nguồn ngắn hạn thường có chi phí thấp hơn). 34 Hạn chế: Mức độ rủi ro trong tài trợ vốn cao. Do sử dụng nhiều nguồn ngắn hạn nên số lần tái tài trợ sẽ tăng để đáp ứng nhu cầu sử dụng các tài sản lưu động thường xuyên, DN có thể gặp rủi ro thanh toán các khoản nợ đến hạn. Trên thực tế mô hình tài trợ thứ ba thường được các DN lựa chọn vì nguồn tín dụng ngắn hạn cũng được xem như dài hạn vì khoản này có tính chất chu kỳ. Cả ba mô hình tài trợ trên đều cho thấy nguồn VLĐ thường xuyên có giá trị dương, nghĩa là có một bộ phận của TSLĐ được tài trợ bởi nguồn vốn thường xuyên. Tuy nhiên, trong hoạt động tài trợ VLĐ, nếu TSLĐ nhỏ hơn nợ phải trả ngắn hạn thì nguồn VLĐ thường xuyên có giá trị âm. Đây là dấu hiệu đáng lo ngại, DN đã hình thành TSDH bằng nguồn vốn ngắn hạn, ảnh hưởng tới khả năng thanh toán và mang lại những rủi ro về tài chính. Nếu TSLĐ bằng nợ ngắn hạn thì NWC có giá trị bằng 0, nghĩa là TSCĐ được tài trợ bằng nguồn vốn dài hạn, còn TSLĐ được tài trợ bằng nguồn vốn ngắn hạn. Mô hình này vẫn đảm bảo được an toàn tài chính cho DN. Tuy nhiên, không tạo ra được tính ổn định trong hoạt động SXKD, đặc biệt với những ngành có tốc độ quay vòng vốn chậm. Với mỗi DN tại các thời kỳ khác nhau thì cách thức tài trợ VLĐ là khác nhau. Không có công thức nào giúp DN tìm ra sự kết hợp tối ưu giữa các nguồn tài trợ, các DN cần căn cứ vào tình hình thực tế mà quyết định mô hình tài trợ VLĐ hợp lý. Các nhà quản trị cũng cần phải xem xét tình hình doanh thu, dòng tiền và các nhân tố khác khi đưa ra quyết định về nguồn tài trợ VLĐ. Từ đó, giúp DN có những dự định về tổ chức và sử dụng nguồn VLĐ trong tương lai có hiệu quả cao nhất, có thể tối đa hoá giá trị DN. 2.4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động 2.4.1. Tốc độ luân chuyển vốn lưu động Tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động tức là rút ngắn thời gian vốn lưu động nằm trong lĩnh vực dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Từ đó mà giảm bớt lượng vốn lưu động chiếm dùng, tiết kiệm vốn lưu động trong luân chuyển. Tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động Khái niệm: là rút ngắn thời gian vốn lưu động nằm trong lĩnh vực dự trữ sản xuất, sản xuất và lưu thông. Từ đó mà giảm bớt lượng vốn lưu động chiếm dùng, tiết kiêm vốn lưu động trong luân chuyển. Ý nghĩa Tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động là điều kiện rất quan trọng để phát triển sản xuất kinh doanh. Thông qua việc tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động, doanh nghiệp có thể giảm bớt số vốn lưu động chiếm dùng nhưng vẫn đảm bảo được nhiệm vụ sản xuất kinh doanh như 35 cũ, có thể với số vốn như cũ những doanh nghiệp mở rộng đụợc qui mô sản xuất kinh doanh. Tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động còn ảnh hưởng tích cực đến việc hạ giá thành và giảm bớt chi phí lưu thông. Thuật ngữ liên quan - Vốn lưu động là toàn bộ số tiền ứng trước mà doanh nghiệp bỏ ra để đầu tư hình thành nên các tài sản lưu động thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Vốn lưu động thuần hay vốn lưu động thường xuyên là chênh lệch giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn. 2.4.2. Mức tiết kiệm vốn lưu động do tăng tốc độ luân chuyển Phương hướng tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động - Tăng tốc độ luân chuyển vốn trong khâu dự trữ bằng cách chọn điểm cung cấp hợp lí để rút ngắn số ngày hàng đi trên đường, số ngày cung cấp cách nhau; Căn cứ nhu cầu vốn lưu động đã xác định và tình hình cung cấp vật tư thực hiện việc tổ chức hợp lí mua sắm, dự trữ vật tư nhằm rút bớt số lượng dự trữ, luân chuyển hàng ngày. Tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động bằng cách áp dụng công nghệ hiện đại để rút ngắn chu kì sản xuất, tiết kiệm chi phí sản xuất, để hạ giá thành sản phẩm. - Tăng tốc độ luân chuyển vốn trong khâu lưu thông: nâng cao sản phẩm sản xuất, làm tốt công tác tiếp thị để tăng doanh thu tiêu thụ. Đồng thời theo dõi tình hình thanh toán nhằm rút ngắn số ngày xuất vận và thanh toán để thu tiền hàng kịp thời, Tăng tốc độ luân chuyển vốn lưu động ở khâu này. Kịp thời phát hiện và giải quyết những vật tư, hàng hoá ứ đọng trong quá trình sản xuất kinh doanh do nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng vật tư hàng hoá ứ đọng. Vấn đề quan trọng ở đây là làm sao tăng cường kiểm soát để có thể phát hiện được số vật tư, hàng hoá ứ đọng đó, đồng thời có biện pháp nhanh để giải quyết tránh ứ đọng vốn, tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn. 2.4.3. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động Số lần luân chuyển (số vòng quay) của vốn lưu động L = Tổng mức luân chuyển của vốn lưu động / Vốn lưu động bình quân sử dụng trong kỳ Trong đó, tổng mức luân chuyển của vốn lưu động được xác định bằng doanh thu tuần bán hàng của doanh nghiệp trong kỳ. Vốn lưu động bình quân được xác định bằng phương pháp bình quân số học. Kỳ luân chuyển của vốn lưu động 36 Chỉ tiêu này phản ánh số ngày bình quân cần thiết để vốn lưu chuyển thực hiện được một lần luân chuyển hay độ dài thời gian một vòng quay của vốn lưu động ở trong kỳ. K = Số ngày trong kỳ / Số lần luân chuyển của vốn Trong đó, số ngày trong kỳ được tính chẵn 1 năm là 360 ngày, 1 quý là 90 ngày, 1 tháng là 30 ngày Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp về lao động vật tư tiền vốn Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn: Vốn là yếu tố của mọi hoạt động kinh doanh. Vốn là tiền tệ cho sự ra đời của doanh nghiệp, la cơ sở để doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, tao công ăn việc làm cho nguòi lao động. Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Vốn là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh doanh vốn của doanh nghiệp phải sinh lời tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi, đảm bảo vốn của doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển. Quan niệm về hiệu quả sử dụng vốn lưu động là phạm trù kinh tế:  Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực xã hội để đạt được kết quả cao nhất với chi phí nguồn lực thấp nhất. Xuất phát từ những nguyên lý chung như vậy, trong linh vực vốn kinh doanh định ra hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai góc độ: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi quản lý doanh nghiệp người ta chủ yếu quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Do vậy các nguồn lực kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp có tác động rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với các doanh nghiệp.  Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn làm cho đồng vốn sinh lợi tối đa nhằm mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu. 37  Hiệu quả sử dụng vốn lưu động được lượng hoá thông qua hệ thống các chỉ tiêu về khả năng sinh lợi, vòng quay vốn lưu động, tốc độ luân chuyển vốn, vòng quay hàng tồn kho. Nó chính là quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình kinh doanh hay là quan hệ giữa toàn bộ kết quả kinh doanh với toàn bộ chi phí của quá trinh kinh doanh đó được xác định bằng thước đo tiền tệ. Vì vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với quá trinh sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi nó không những đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và người lao động mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và toàn xã hội. Chính vì thế các doanh nghiệp phải luôn tìm ra các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp: Sức sinh lời của vốn lưu động: Trong đó: Chỉ tiêu này cho biết:  Cứ một đồng vốn lưu động tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì tạo ra nhiều đồng lợi nhuận.  Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động: Chỉ tiêu này cho biết:  Cứ một đồng vốn lưu động tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.  Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Số vòng quay của vốn lưu động( Hệ số luân chuyển): 38 Thường lấy thời gian của kỳ phân tích là một năm hay 360 ngày. Chỉ tiêu này cho biết:  Số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng.  Thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển của vốn lưu động càng lớn và làm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay vòng hiệu quả hơn. Số vòng quay của hàng tồn kho: Chỉ tiêu phản ánh số lần mặt hàng tồn kho bình quân luân chuyển trong kỳ. Thời gian một vòng quay hàng tồn kho: Khả năng thanh toán ngắn hạn:  Tình hình tài chính của doanh nghiệp thể hiện rõ nét thông qua khả năng thanh toán, đó là khả năng mà doanh nghiệp trả được các khoản nợ phải trả khi nợ đến hạn thanh toán.  Hệ số cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp là cao hay thấp, nếu chỉ tiêu này xấp xỉ bằng 1 thì doanh nghiệp có dư khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính của doanh nghiệp là bình thường hoặc khả quan. Tỉ suất thanh toán tức thời: 39  Nếu tỉ suất lớn hơn 0.5 thì tình hình thanh toán tương đối khả quan.  Nếu tỉ suất nhỏ hơn 0.5 thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong thanh toán công nợ và do đó có thể phải bán gấp hàng hoá, sản phẩm để trả nợ vì không dư tiền thanh toán. Số vòng quay các khoản phải thu:  Chỉ tiêu cho biết mức hợp lý của số dư các khoản phải thu và hiệu quả của việc đi thu hồi nơ.Nếu các khoản phải thu được thu hồi nhanh thì số vòng luân chuyển của các khoản phải thu sẽ nâng cao và vốn của công ty ít bị chiếm dụng.  Nếu số vòng luân chuyển các khoản phải thu quá cao sẽ không tốt vì có thể ảnh hưởng đến khối lượng hàng tiêu thụ do phương thức thanh toán quá chặt chẽ. Thời gian một vòng quay các khoản thu: - Chỉ tiêu này cho thấy để thu hồi các khoản phải thu cần một thời gian là bao nhiêu. - Nếu số ngày này mà lớn hơn thời gian bán chịu quy định cho khách hàng thì việc thu hồicác khoản phải thu là chậm và ngược lại. Các nhân tố ảnh hưởng: Nhân tố khách quan: - Chính sách kinh tế của Đảng và nhà nước: Các chính sách vĩ mô của nhà nước trong nền kinh tế thị trường là điều tất yếu nhưung chính sách vĩ mô của nhà nước tác động một phần không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Chẳng hạnh như nhà nước tăng thuế thu nhập của doanh nghiệp, điều này làm trực tiếp làm suy giảm lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp, chính sach cho vay đều có thể làm tăng hoặc giảm hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiẹp. Bên cạnh đó các quy định của nhà nước về phương hướng 40 định hướng phát triểncủa các ngành kinh tế đèu ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. - Tác động của thị trường: Kinh tế thị trường là một sự phát triển chung của xã hội nhưng trong nó có những mặt trái tồn tại và khi cơ chế thị trường mới được linh hoạt, nhạy bén bao nhiêu thì mặt trái của nó lài là những thay đổi liên tục đến chóng mặt. Gía cả của các đồng tiền bị mất giá nghiêm trọng, lạm phát lại vẫn thường xuyên xảy ra. Đương nhiên vốn của doanh nghiệp bị mất dần. Chúng ta biết rằng cạnh tranh là quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường. Do vậy, doanh nghiệp không ngừng nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm có như vậy doanh nghiệp mới có thể thắng trong cạnh tranh, mở rộng tiêu thụ sản phẩm. Chúng ta biết rằng thị trường tiêu thụ sản phẩm có rác động rất lớn tới việc hiệu quả sử dụng vốn cua doanh nghiệp. Nếu thị trường ổn định sẽ là tác nhân tích cực thúc đẩy cho doanh nghiệp tái sản xuất mở rộng và mở rộng thị trường. - Tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật: Khi khoa học kỹ thuật phát triển đến tốc độ đỉnh cao trong thời đại văn minh này như một sự kỳ diệu thị trường công nghệ biến động không ngừng và chênh lệch về trình độ công nghệ giữa các nước là rất lớn. Mặt khác nó đặt doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh gay gắt ngày càng khốc liệt. Do đó, để sử dụng vốn có hiệu quả doanh nghiệp phải xem xét đầu tư vào công nghệ nào và phải tính đến hao mòn vô hình do phát triển không ngừng của tiến bộ khoa học kỹ thuật. - Tác động của môi trường tự nhiên: Đó là toàn bộ các yếu tố tự nhiên tác động đến doanh nghiệp như khí hậu, thời tiết, môi trường. Các điều kiện làm việc trong môi trường tự nhiên phù hợp sẽ tăng năng suất lao động và từ đó tăng hiệu quả công việc. Ngoài ra có một số nhân tố mà người ta thường gọi là nhân tố bất khả kháng như thiên tai, dịch hoạ gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn. Những nhân tố chủ quan: - Tác động của chu kỳ sản xuât kinh doanh: Đây là một đặc điểm quan trọng gắn trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Nếu chu kỳ ngắn, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh nhằm tái tạo, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngựơc lại nếu chu kỳ sản xuất dài doanh nghiệp sẽ chịu một gánh nặng ứ đọng vốn và lãi phải trả cho các khoản vay. - Tác động của công nghệ sản phẩm: Sản phẩm của doanh nghiệp là nơi chứa đựng chi phí và việc tiêu thụ sản phẩm mang lại doanh thu cho doanh nghiệp. Vị thế của sản phẩm trên thị trường nghĩa là sản phẩm đó mang tính cạnh tranh hay độc quyền, được người tiêu dùng ưa chuộng hay không sẽ quyết định tới lượng hàng bán ra 41 và giá cả đơn vị sản phẩm. Chính vì ảnh hưởng tới lượng hàng hoá bán ra và giá cả của chúng mà sản phẩm ảnh hưởng lớn tới lợi nhuận và doanh thu. Từ đó làm ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng vốn. Dovậy trước khi quyết định sản phẩm hay ngành nghề kinh doanh, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ nhu cầu của thị trường và chu kỳ sống của sản phẩm. Có như vậy doanh nghiệp mới mong thu được lợi nhuận. - Trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên: Yếu tố con người là yếu tố quyết định nhất trong việc đảm bảo sử dụng vốn có hiệu quả trong doanh nghiệp. Công nhân sản xuất có tay nghề cao, có kinh nghiệm, có khả năng tiếp thu công nghệ mới, phát huy được tính sáng tạo trong công việc, có ý thức giữ gìn và bảo quản tái sản xuất trong quá trình lao động, tiết kiệm trong sản xuất, từ đó tăng hiệu quả sử dụng vốn. Trình độ cán bộ quản lý cũng có ảnh hương không nhỏ tới hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Có quản lý về mặt nhân sự tốt mới đảm bảo có được một đội ngũ lao động có năng lực thực hiện nhiệm vụ, sắp xếp lao động hợp lý thì mới không bị lãng phí lao động. Điều đó giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trình độ quản lý về mặt tài chính là hết sức quan trọng. Trong quá trình hoạt động, việc thu chi phải rõ ràng, tiết kiệm, đúng việc, đúng thời điểm thì mới có thể nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trình độ quản lý còn thể hiện ở quản lý hàng tồn kho, quản lý khâu sản xuất, quản lý khâu tiêu thụ. - Trình độ tổ chức sản xuất kinh doanh: Đây là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Qúa trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải trải qua 3 giai đoạn là cung ứng, sản xuất và tiêu thụ. + Cung ứng là quá trình chuẩn bị các yếu tố đầu vào cho quá trình sản xuất như nguyên vật liệu, lao động, nó bao gồm mua dữ trữ. Để đảm bảo hiệu quả kinh doanh thì chất lượng hàng hoá phải đảm bảo, chi phí mua hình giảm đến mức tối ưu. Còn mục tiêu của dự trữ hàng đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn. + Khâu sản xuất: Trong giai đoạn này phải sắp xếp dây truyền sản xuất cũng như công nhân sao cho sử dụng máy móc thiết bị có hiệu quả nhất, khai thác tối đa công suất, thời gian làm việc của máy móc đảm bảo kế hoạch sản xuất sản phẩm. + Tiêu thụ sản phẩm là khâu quyết định đến hiệu quả kinh doanh. Vì vậy doanh nghiệp phải xác định giá bán tối ưu và có những biện pháp thích hợp để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm nhanh chóng. Khâu nay quyết định đến doanh thu, là cơ sở để tái sản xuất.  Việc xác định cơ cấu vốn và nhu cầu vốn: 42 + Việc xác định cơ cấu vốn: cơ cấu vốn đầu tư mang tính chủ quan có tác động đến hiệu quả sử dụng vốn. Tỉ trọng các khoản vốn đầu tư cho tài sản đang dùng và sử dụng có ích cho hoạt động sản xuất kinh doanh là cao nhất thì mới là cơ cấu vốn tối ưu. . Phải đảm bảo cân đối giữa vốn cố định và vốn lưu độngtrong tổng vốn kinh doanh nghiệp. . Phải đảm bảo tỷ lệ thích hợp giữa vốn cố định tích cực và vốn cố định không tích cực. . Phải đảm bảo tính đồng bộ giữa các công đoạn của quá trình sản xuất để phát huy tối đa hiệu quả công suất về thời gian và số lượng. + Việc xác định nhu cầu vốn: Nhu cầu vốn của một doanh nghiệp tại bất cứ thời điểm nào cũng bằng chính tổng số tài sản mà doanh nghiệp cần phải có để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh. Việc xác định nhu cầu vốn là hết sức quan trọng. Do chất lượng của việc xác định nhu cầu vốn thiếu chính xác hay chính xác cũng ảnh hưởng đến tình trạng thừa hoặc thiếu hoặc đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thừa hay thiếu vốn đều là nguyên nhân hay biểu hiện việc sử dụng vốn kém hiệu quả. Ngược lại, xác định nhu cầu vốn phù hợp thực tế sử dụng vốn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.  Trình độ quản lý và sử dụng các nguồn vốn: là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Công cụ chủ yếu để theo dõi quản lý sử dụng vốn là hệ thống kế toán – tài chính. Công tác kế toán thực hiện tốt sẽ đưa ra các số liệu chính xác giúp cho lãnh đạo nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung cũng như việc sử dụng vốn nói riêng trên cơ sở đó ra quyết định đúng đắn. Mặt khác, đặc điểm hạch toán, kế toán nội bộ doanh nghiệp luôn gắn với tính chất tổ chức sản xuất của doanh nghiệp nên cũng tác động tới việc quản lý vốn. Vì vậy, thông qua công tác kế toán mà thường xuyên kiểm tra tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp, sớm tìm ra những điểm tồn tại để có biện pháp giải quyết.  Lựa chọn các phương án đầu tư: Lựa chọn phương án đầu tư là một trong những nhân tố cơ bản ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Cụ thể, nếu doanh nghiệp biết nắm bắt thị trường, thị hiếu người tiêu dùng để dựa vào đó đưa ra được phương án đầu tư nhằm tạo ra được những sản phẩm cung ứng rộng rãi trên thị trường, được đông đảo người tiêu dùng chấp nhận thì sẽ có doanh thu co, lợi nhuận nhiều, hiệu quả sử dụng vốn vì thế mà tăng lên. Ngược lại nếu phương án đầu tư không tốt sản phẩm làm ra chất lượng kém không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng thì sẽ không tiêu thụ được hàng hoá, vốn bị ứ đọng là thế, vòng quay vốn bị chậm 43 lại, tất yếu, đó là biểu hiện không tốt về hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.  Các mối quan hệ của doanh nghiệp: Đó là quan hệ giữa doanh nghiệp với khách hàng và quan hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp. Các mối quan hệ này rất quan trọng, nó có ảnh hưỏng tới nhịp độ sản xuất, khả năng phân phối sản phẩm, lượng hàng tiêu thụ là những vấn đề trực tiếp tác động tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Nếu các mối quan hệ trên được diễn ra tốt đẹp thì quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới diễn ra thường xuyên liên tục, sản phẩm làm ra mới tiêu thụ được nhanh chóng, khẳng định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Để có được mối quan hệ tốt với khách hàng và nhà cung cấp thì doanh nghiệp phải có kế hoạch cụ thể để vừa duy t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiao_trinh_tai_chinh_doanh_nghiep_ten_phan_1_nghe_ke_toan_do.pdf