hương này giúp bạn:
Hiểu rõ các dòng dịch chuyển tài chính.
Nắm được quá trình hoạch định trong hệ thống kế hoạch của doanh nghiệp.
Hiểu được nội dung và mối liên hệ của các loại kế hoạch tài chính.
Nắm vững các phương pháp lập kế hoạch tài chính.
139 trang |
Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 494 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình Quản trị tài chính (Phần 2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vấn để phân tích, chi phí phân tích là 100 triệu đồng và khoản
tiền này được đưa vào khoản chi năm 20X5 cho mục tiêu tính thuế. Khoản chi này có nằm
trong quyết định đầu tư của năm 20X6 hay không? Câu trả lời là không - 100 triệu đồng này
là chi phí chìm và không ảnh hưởng đến dòng ngân quỹ tương lai của công ty cho dù họ có
thành lập chi nhánh mới hay không. Một dự án thường có NPV âm nếu tất cả các chi phí liên
quan được đưa vào xem xét, bao gồm cả chi phí chìm. Tuy nhiên, trên cơ sở tăng thêm, dự án
có thể tốt vì dòng ngân quỹ tăng thêm tương lai đủ lớn để tạo ra một NPV lớn trên cơ sở đầu
tư tăng thêm.
Chi phí cơ hội
Vấn đề thứ hai liên quan đến chi phí cơ hội. Đó chính là nguồn ngân quỹ lẽ ra có thể thu được
từ tài sản của công ty nếu không sử dụng cho dự án hiện tại. Ngân hàng Âu Á có một khu đất
thích hợp cho việc mở chi nhánh. Khi đánh giá chi nhánh này, có nên bỏ qua chi phí của khu
đất hay không vì họ không cần phải chi thêm tiền để mua đất? Câu trả lời là không được bỏ
qua vì có một khoản chi phí được gọi là chi phí cơ hội từ việc sử dụng khu đất này. Trong
trường hợp này, lẽ ra công ty có thể bán khu đất này và thu được khoản ngân quỹ 550 triệu
sau thuế. Việc sử dụng khu đất để mở chi nhánh buộc công ty mất đi dòng tiền vào này, vì thế
550 triệu đồng này phải được tính như là một chi phí cơ hội của dự án. Chú ý là chi phí đất
đai trong ví dụ này phải là giá trị thị trường vì nó vẫn được sử dụng cho dầu công ty đã mua
với giá 500 triệu hay 600 triệu.
Ảnh hưởng của dự án lên các bộ phận khác của công ty
Vấn đề thứ ba liên quan đến ảnh hưởng của dự án lên các bộ phận khác của công ty. Các nhà
kinh tế học gọi hiện tượng này là tác động ngoại vi. Chẳng hạn, một số khách hàng của Ngân
hàng Âu Á, những người giao dịch với ngân hàng chi nhánh là những khách hàng hiện đang
giao dịch với văn phòng của công ty ở Hà Nội. Các khoản vay hay tiền gởi và cũng là lợi
nhuận của công ty thu được từ các khách hàng này tại thành phố Hồ Chí Minh không phải là
khoản thu mới của ngân hàng nữa mà thực chất đó là sự dịch chuyển từ ngân hàng trung tâm
sang ngân hàng chi nhánh. Vì vậy, thu nhập ròng hình thành từ những khách hàng này không
được xem như là khoản thu nhập tăng thêm trong quyết định đầu tư. Mặt khác, việc thành lập
một chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh sẽ giúp ngân hàng Âu Á thu hút được khách hàng
mới đến với văn phòng trụ sở vì một số người muốn có thể giao dịch được cả với ngân hàng ở
thành phố Hồ Chí Minh và và cả ở Hà Nội vốn là hai nơi họ thường xuyên đi lại. Trong
trường hợp này, thu nhập tăng thêm của văn phòng trung tâm được tính vào lợi nhuận của chi
nhánh. Mặc dù việc đánh giá các tác động ngoại vi rất khó khăn nhưng người lập dự án vẫn
phải tìm cách phân tích và tính toán để ước lượng được chính xác giá trị tăng thêm của dự án
mới.
Khi một dự án mới thu hút hoặc làm ảnh hưởng đến doanh số của sản phẩm hiện tại, tình
huống này được gọi là “tình thế chèn ép”. Về bản chất, công ty không muốn dự án mới gây
ảnh hưởng trực tiếp đến sản phẩm hiện tại nhưng nếu họ không thực hiện dự án đó thì vẫn có
một đối tượng khác triển khai dự án này. Lúc này, công ty mất cơ hội và thậm chí có nguy cơ
thiệt hại do sự mở rộng của đối thủ cạnh tranh. Lấy ví dụû, trong nhiều năm, IBM đã từ chối
cung cấp dịch vụ hỗ trợ toàn phần cho máy PC vì họ không muốn mất đi doanh số từ bộ phận
kinh doanh chủ lực lúc đó đang đem lại nhiều lợi nhuận nhất cho công ty. Kết quả là họ đã sai
một bước về chiến lược vì điều này đã tạo cơ hội cho các công ty như Intel, Microsoft,
Campaq và các đối thủ khác trở thành lực lượng dẫn đầu trong ngành công nghiệp máy tính.
Vì thế, khi xem xét các tác động ngoại vi, phải xem xét toàn bộ những ảnh hưởng của dự án
mới.
Một số công ty như Dell Computer đã rất thành công trong hoạt động kinh doanh qua
Internet. Tuy nhiên, đối với nhiều công ty, từ rất lâu, trước khi Internet trở nên phổ biến, họ
đã xây dựng kênh bán lẻ. Do đó, quyết định khởi sự hoạt động bán trực tiếp cho người tiêu
dùng qua Internet đối với họ là một quyết định đơn giản. Chẳng hạn, Nautica Enterprises Inc.
là một công ty quốc tế chuyên về thiết kế, tiêu thụ và phân phối trang phục thể thao. Nautica
bán sản phẩm cho các nhà bán lẻ truyền thống và các công ty này lại bán cho người tiêu dùng
cuối cùng. Nếu Nautica mở cửa hàng trực tuyến riêng thì họ có thể làm tăng lợi nhuận ròng
270
nhờ tránh được đáng kể chi phí cho các nhà bán lẻ. Tuy nhiên, doanh số Internet cũng có thể
làm mất doanh số qua kênh bán lẻ. Thậm chí có thể nguy hại hơn, vì các nhà bán lẻ có thể
phản ứng ngược lại với doanh số từ Internet bằng cách định hướng lại các nỗ lực Marketing
và sử dụng không gian mà họ đã dành cho Nautica cho các nhãn hiệu khác. Nautica và nhiều
nhà quản xuất khác phải xác định xem lợi nhuận mới từ doanh số Internet có bù đắp được
phần mất mát ở kênh hiện tại hay không. Và cuối cùng, Nautica đã quyết định dừng lại ở kênh
bán lẻ truyền thống.
Như vậy, thay vì chỉ chú ý đến dự án mới, các nhà phân tích phải dự đoán các tác động
tiềm ẩn của dự án đối với phần còn lại của công ty. Do vậy, trí tưởng tượng và tư duy sáng tạo
vô cùng quan trọng trong phân tích dự án.
c - Thời gian của dòng ngân quỹ
Thời gian của dòng ngân quỹ phải được tính toán một cách chính xác. Các báo cáo thu nhập
thường là báo cáo của một thời kỳ như năm hay tháng nên không phản ánh chính xác thời
điểm của dòng tiền vào và dòng tiền ra. Vì giá trị thời gian của tiền tệ, dòng ngân quỹ của dự
án đầu tư về mặt lý thuyết phải được phân tích chính xác theo thời điểm xảy ra. Tất nhiên cần
phải có sự cân nhắc giữa tính chính xác và tính khả thi. Về mặt lý thuyết, trục thời gian diễn tả
ngân quỹ hằng ngày là chính xác nhất, nhưng ước lượng dòng ngân quỹ theo ngày như vậy
tốn rất nhiều chi phí, khó sử dụng và có thể không chính xác như ước lượng theo năm. Vì vậy,
trong mọi tình huống, chỉ cần giả thiết đơn giản là toàn bộ ngân quỹ đều xảy ra vào cuối năm.
Tất nhiên, đối với một số dự án, giả thiết dòng ngân quỹ xuất hiện vào giữa năm, giữa quý
hay giữa tháng có thể tốt hơn.
d - Các yếu tố ảnh hưởng đến dòng ngân quỹ
Khấu hao
Các công ty thường áp dụng nhiều phương pháp khấu hao cho các mục đích khác nhau.
Thông thường, phương pháp sử dụng trong báo cáo cho cơ quan thuế khác với phương pháp
trong báo cáo cho người đầu tư. Nhiều công ty sử dụng phương pháp khấu hao theo đường
thẳng trong báo cáo cho cổ đông và phương pháp khấu hao nhanh mà luật thuế cho phép để
tính thuế.
Giá trị thanh lý
Bất cứ khi nào các tài sản đã khấu hao được bán đi thì sẽ xuất hiện những vấn đề tiềm ẩn về
thuế có thể ảnh hưởng đến thu nhập sau thuế. Thuế tạo ra những ảnh hưởng rất quan trọng đến
việc ước lượng giá trị thanh lý sau thuế vào cuối chu kỳ của dự án. Tác động thuế của việc
bán tài sản cũng quan trọng khi xác định đầu tư ròng cần thiết trong các dự án thay thế. Có
bốn trường hợp cần xem xét sau đây:
Trường hợp 1: bán tài sản với giá bằng giá trị sổ sách. Nếu công ty thanh lý một tài sản
với giá chính xác bằng với giá trị sổ sách của tài sản thì họ không nhận được khoản lời hay lỗ
nào từ việc bán tài sản, vì vậy, không có ảnh hưởng của thuế lên việc bán tài sản. Chẳng hạn,
nếu công ty dệt may BT bán một tài sản có giá trị sổ sách là 50 triệu đồng với giá thị trường
50 triệu đồng thì sẽ không có tác động thuế nào ảnh hưởng đến hoạt động bán tài sản này.
Trường hợp 2: bán tài sản với giá thấp hơn giá trị sổ sách. Nếu BT bán tài sản có giá trị sổ
sách 50 triệu đồng với giá 20 triệu đồng, BT phải chịu một khoản lỗ trước thuế 30 triệu đồng.
Giả sử tài sản đã được bán đi thì khoản lỗ này có thể được xem như là một khoản lỗ hoạt
động, do vậy được trừ đi trong thu nhập hoạt động. Chính khoản lỗ từ hoạt động này lại làm
giảm đáng kể mức thuế thu nhập của công ty. Mức giảm thuế đó bằng khoản lỗ nhân với tỷ
suất thuế của công ty. Giả sử thu nhập trước thuế của công ty là 100 triệu đồng. Thuế đánh
vào thu nhập này là 100 triệu đồng nhân với tỷ suất thuế (40%) hay bằng 40 triệu đồng. Vì
khoản lỗ xảy ra do bán tài sản với giá 30 triệu đồng, thu nhập chịu thuế của công ty giảm
xuống còn 70 triệu đồng và thuế giảm xuống 28 triệu đồng (40% x 70 triệu đồng). Khoản
chênh lệch 12 triệu đồng về thuế đúng bằng phần lỗ của tài sản cũ nhân với tỷ suất thuế (30
triệu đồng x 40%). Ngân quỹ ròng từ việc bán tài sản này là 32 triệu đồng (bằng 20 triệu đồng
+ 12 triệu đồng). Như vậy, bán tài sản với giá thấp hơn giá trị sổ sách làm xuất hiện khoản tiết
kiệm thuế trong ngân sách đầu tư.
Tình huống 3: bán tài sản với giá cao hơn giá sổ sách nhưng thấp hơn chi phí ban đầu. Nếu
BT bán tài sản với giá 60 triệu đồng, cao hơn 10 triệu so với giá trị sổ sách hiện tại thì 50 triệu
đồng là dòng nhập quỹ không chịu thuế còn 10 triệu đồng còn lại thì bị đánh thuế thu nhập. Vì
thế, thuế thu nhập của công ty tăng lên 4 triệu đồng, bằng khoản tiền lời từ bán tài sản nhân
với thuế thu nhập (10 triệu đồng x 40%). Như vậy, ngân quỹ ròng từ bán tài sản chỉ là 56 triệu
đồng, bằng 60 triệu trừ 4 triệu.
Tình huống 4: Bán tài sản với giá cao hơn giá mua ban đầu. Tình huống này đặt ra bởi một
số nước có quy định ưu đãi đối với các khoản thu nhập khác nhau. Nếu BT bán tài sản với giá
120 triệu đồng (giả sử giá mua ban đầu là 110 triệu đồng), một phần thu nhập từ bán tài sản
này được xem là thu nhập thông thường và một phần được xem là phần lãi vốn. Phần lợi được
xem là thu nhập thông thường bằng khoản chênh lệch giữa chi phí ban đầu và giá trị sổ sách
hiện tại, bằng 60 triệu đồng (110 triệu đồng - 50 triệu đồng). Phần lãi vốn là khoản tiền vượt
quá chi phí tài sản ban đầu, bằng 10 triệu đồng. Như vậy, ngân quỹ ròng sẽ là 120 triệu - (110
triệu đồng - 50 triệu đồng )x0,4, bằng 96 triệu đồng.
6.2.3 Xác định dòng ngân quỹ tăng thêm
a - Xây dựng dòng ngân quỹ tăng thêm
Bởi vì dòng ngân quỹ của dự án vào những khoảng thời gian khác nhau có một số khác biệt
như:
dòng ngân quỹ vào thời điểm ban đầu được đặc trưng bởi các chi tiêu
dòng ngân quỹ vào thời điểm cuối được đặc trưng bởi các hoạt động thanh lý...
Vì vậy, để dễ dàng khi tính toán, chúng ta phân các dòng ngân quỹ dự án thành ba nhóm
theo thời gian:
1. Dòng xuất quỹ ban đầu: là khoản đầu tư ròng bằng tiền đầu tiên của dự án,
2. Dòng ngân quỹ ròng tăng thêm: là những ngân quỹ phát sinh sau khoản đầu tư ban
đầu nhưng không bao gồm dòng ngân quỹ của thời kỳ cuối,
3. Dòng ngân quỹ ròng tăng thêm vào năm cuối: Dòng ngân quỹ ròng của thời kỳ cuối
cùng.
Dòng xuất quỹ ban đầu. Nhìn chung, dòng xuất quỹ ban đầu của một dự án được xác
định như trong bảng 6.1. Chi phí của tài sản là đối tượng điều chỉnh đến phản ảnh tổng ngân
quỹ liên quan đến việc mua tài sản. Các ngân quỹ này bao gồm chi phí lắp đặt, thay đổi vốn
272
luân chuyển ròng, lợi nhuận thu được từ bán các tài sản thay thế và điều chỉnh thuế.
Bảng 6-1. Xác định khoản xuất quỹ ban đầu của dự án
(a) Chi phí mua tài sản
(b) + Các chi phí đầu tư (chẳng hạn, chi phí lắp đặt, vận chuyển...)*
(c) + (-) Vốn luân chuyển ròng tăng thêm (giảm đi)**
(d) - Lợi nhuận ròng từ bán tài sản cũ trong trường hợp đầu tư thay thế
(e) + (Thuế) tiết kiệm thuế nhờ bán tài sản cũ nếu trường hợp đầu tư thay thế
(f) Xuất quỹ ban đầu
* Chi phí mua tài sản cộng các chi phí khác là cơ sở đế tính khấu hao
** Bất kỳ sự thay đổi nào về vốn luân chuyển ròng cũng cần được xem là ròng của sự thay đổi tự phát
sinh về nợ ngắn hạn xảy ra do thực hiện dự án
Ngân quỹ ròng tăng thêm. Sau khi thực hiện một khoản xuất quỹ ban đầu để thực hiện
dự án, công ty kỳ vọng sẽ có lợi nhuận từ những dòng nhập quỹ tương lai phát sinh từ dự án.
Nói chung, dòng ngân quỹ tương lai này có thể được xác định theo thủ tục trong bảng 6.2.
Bảng 6-2. Xác định ngân quỹ ròng tăng thêm hằng năm
(a) Tăng (giảm) ròng về doanh thu hoạt động trừ (cộng) ròng về chi phí hoạt
động, ngoại trừ khấu hao.
(b) - (+) Tăng (giảm) ròng về chi phí khấu hao
(c) = Thay đổi về lợi nhuận trước thuế
(d) - (+) Tăng (giảm) ròng về thuế
(e) = Thay đổi ròng về lợi nhuận sau thuế
(f) + (-) Tăng (giảm) ròng về chi phí khấu hao
(g) = Ngân quỹ ròng tăng thêm trong kỳ
Lưu ý rằng phải giảm trừ các khoản tăng (cộng lại các khoản giảm) khấu hao tăng thêm
liên quan đến việc chấp nhận dự án (xem bước (b)). Từ đó, xác định thay đổi ròng về lợi
nhuận trước thuế. Tuy nhiên, trong những bước sau, chúng ta lại cộng trở lại khoản tăng (trừ
khoản giảm) khấu hao (xem bước (f)) để xác định ngân quỹ ròng tăng thêm trong kỳ. Vậy
điều gì xảy ra ở đây? Bản thân khấu hao là một khoản chi phí không bằng tiền được trừ khỏi
thu nhập hoạt động và do đó làm giảm thu nhập chịu thuế. Vì thế, cần phải xem xét nó khi xác
định ảnh hưởng tăng thêm do việc chấp nhận dự án lên mức thuế của công ty. Tuy nhiên, cuối
cùng vẫn cần phải cộng trở lại khoản tăng (trừ khoản giảm) khấu hao vào kết quả thay đổi
ròng về thu nhập sau thuế để xác định đúng ảnh hưởng của dự án lên ngân quỹ.
Ngân quỹ ròng tăng thêm năm cuối. Cuối cùng, chúng ta xác định ngân quỹ tăng thêm
của dự án vào năm cuối. Chúng ta áp dụng thủ tục từng bước tương tự cho ngân quỹ của thời
kỳ này theo cách đã làm trong các thời kỳ trước. Hơn nữa, phải lưu ý một số ngân quỹ thường
gắn liền với giai đoạn kết thúc dự án. Các ngân quỹ dự án này bao gồm (1) giá trị thanh lý của
tài sản được bán đi (2) tiết kiệm thuế liên quan đến việc bán tài sản và (3) thay đổi ròng về
vốn luân chuyển liên quan đến việc kết thúc dự án. Nói chung là bất kỳ khoản đầu tư vốn luân
chuyển ban đầu nào bây giờ đều được chuyển thành dòng nhập quỹ tăng thêm. Bảng 6.3 tóm
tắt các bước cần thiết và chỉ rõ các bước đó, đặc biệt dành cho việc kết thúc dự án.
Bảng 6-3. Xác định ngân quỹ ròng tăng thêm năm cuối
(a) Tăng (giảm) ròng về doanh thu hoạt động trừ (cộng) lời (lỗ) ròng về chi
phí hoạt động, trừ khấu hao
(b) - (+) Tăng (giảm) ròng về chi phí khấu hao
(c) = Thay đổi về lợi nhuận trước thuế
(d) - (+) Tăng (giảm) ròng về thuế
(e) = Thay đổi ròng về lợi nhuận sau thuế
(f) + (-) Tăng (giảm) ròng về chi phí khấu hao
(g) = Ngân quỹ tăng thêm cho năm cuối trước khi xem xét các yếu tố khác
(h) + (-) Giá trị thanh lý của tài sản mới
(i) - (+) Thuế (tiết kiệm thuế) do bán tài sản mới
(j) + (-) Giảm (tăng) vốn luân chuyển ròng
(k) = Ngân quỹ ròng tăng thêm năm cuối
Phân tích hai ví dụ về ước lượng dòng ngân quỹ của dự án đầu tư mở rộng và dự án thay
thế như là những trường hợp cụ thể sau đây sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về phương pháp ước
lượng ngân quỹ.
b - Dự án mở rộng
Dự án mở rộng là dự án đầu tư vào các tài sản mới nhằm mục tiêu tăng doanh số. Toàn bộ các
ước lượng cần xem xét dựa vào giá trị tăng thêm. Ở đây, thử xem xét dự án mở rộng của công
ty dược phẩm BR nhằm thực hiện kế hoạch sản xuất loại thiết bị massage toàn thân đa năng
do bộ phận R&D vừa nghiên cứu thành công. Thiết bị này đang rất được ưa chuộng vì tính
năng vượt trội của nó so với các loại máy thông thường, đáp ứng nhiều lựa chọn của khách
hàng.
Phó giám đốc Marketing ước tính doanh số hằng năm sẽ là 15 nghìn chiếc nếu giá bán là 2
triệu đồng một chiếc, vậy tổng doanh số dự đoán là 30 tỷ đồng. Bộ phận kỹ thuật khẳng định
không cần phải tăng thêm diện tích cho việc trữ hàng và sản xuất mà chỉ cần mua hệ thống
máy mới để sản xuất. Thiết bị sẽ được mua và lắp đặt vào cuối năm 20X6, với chi phí 9,5 tỷ
đồng, không kể 500 triệu đồng trả cho việc vận chuyển và lắp đặt. Mặc dù chu kỳ sử dụng dự
đoán là 4 năm nhưng thiết bị này thuộc nhóm thiết bị khấu hao 5 năm theo phương pháp khấu
hao nhanh với tỷ lệ khấu hao trong 4 năm lần lượt là 20%, 32%, 19% và 12%. Đến cuối năm
thứ 5, thiết bị sẽ có giá trị thị trường 2 tỷ đồng và giá trị sổ sách 1,7 tỷ đồng.
Để dự án hoạt động, cần phải đầu tư thêm 4 tỷ đồng vào vốn luân chuyển ròng, chủ yếu là
để mua nguyên vật liệu thô phục vụ cho sản xuất. Bộ phận sản xuất ước tính chi phí biến đổi
chiếm 60% doanh số, chi phí cố định bao gồm cả khấu hao là 5 tỷ đồng mỗi năm, tỷ suất thuế
thu nhập là 40%. Để thuận lợi cho việc hoạch định, giả thiết dòng ngân quỹ xuất hiện vào
274
cuối năm. Vì hoạt động sản xuất thiết bị mới bắt đầu vào ngày 01/01/20X7 nên dòng ngân
quỹ hoạt động tăng thêm bắt đầu xuất hiện vào ngày 31/12/20X7.
Phân tích dòng ngân quỹ
Bước đầu tiên trong phân tích dòng ngân quỹ là tóm tắt các chi phí đầu tư ban đầu cho dự án
(Bảng 6.4, cột năm 20X6). Với dự án của BR, dòng xuất quỹ bao gồm giá mua thiết bị, chi
phí vận chuyển và lắp đặt, đầu tư vào vốn luân chuyển ròng. Chú ý là những dòng ngân quỹ
này không được điều chỉnh trong suốt thời gian từ 20X7 đến 2X10 - chúng chỉ phát sinh vào
năm đầu của dự án. Vì vậy chi phí đầu tư ban đầu là 14 tỷ đồng.
Bảng 6-4. Dòng ngân quỹ ròng dự án mở rộng BR, 20X6 - 2X10 Đvt: triệu đồng
20X6 20X7 20X8 20X9 2X10
I. Chi phí đầu tư ban đầu
Chi phí mua thiết bị mới -9.500
Chi phí vận chuyển và lắp đặt -500
Tăng vốn luân chuyển ròng -400
Đầu tư ban đầu -14.000
II. Dòng ngân quỹ tăng thêm
Doanh thu 30.000 30.000 30.000 30.000
Chi phí biến đổi -18.000 -18.000 -18.000 -18.000
Chi phí cố định -5.000 -5.000 -5.000 -5.000
Khấu hao thiết bị mới -2.000 -3.200 -1.900 -1.200
Thu nhập trước thuế và lãi (EBIT) tăng thêm 5.000 5.480 4.960 4.680
Thuế (40%) -2.000 -1.520 -2.040 -2.320
Thu nhập ròng 3.000 2.280 3.060 3.480
Cộng khấu hao 2.000 3.200 1.900 1.200
Dòng ngân quỹ tăng thêm 5.000 5.480 4.960 4.680
III. Dòng ngân quỹ năm cuối
Vốn luân chuyển ròng 4.000
Giá trị thanh lý ròng 1.880
Dòng ngân quỹ năm cuối 5.880
IV. Dòng ngân quỹ ròng -14.000 5.000 5.480 4.960 10.560
Sau khi ước tính nhu cầu đầu tư ban đầu, chúng ta ước lượng dòng ngân quỹ xuất hiện khi
hoạt động sản xuất bắt đầu, các ước lượng này được trình bày trong các cột từ năm 20X7 đến
2X10. Các ước lượng dòng ngân quỹ hoạt động phản ảnh thông tin từ nhiều bộ phận khác
nhau trong công ty. Có thể thấy rằng dòng ngân quỹ giữa các năm chỉ khác nhau do chi phí
khấu hao - và do đó, tác động đến thuế.
Dòng ngân quỹ năm cuối trong ví dụ này bao gồm hoàn lại 4 tỷ đồng đầu tư vào vốn luân
chuyển. Ngoài ra, cũng phải ước lượng dòng ngân quỹ ròng từ thanh lý thiết bị xuất hiện vào
năm 2X10. Bảng 6.5 biểu diễn các tính toán giá trị thanh lý thiết bị ròng. Dự kiến thiết bị sẽ
được bán với giá cao hơn giá trị sổ sách, có nghĩa là công ty phải trả thuế cho phần thu nhập
tăng thêm từ thanh lý. Về bản chất, thiết bị được khấu hao nhanh nên BR có thể giảm nợ thuế
khá nhiều từ năm 20X7 đến 2X10. Dòng ngân quỹ ròng từ bán thiết bị là 1,88 tỷ đồng trong
tình huống này. Vì thế, dòng ngân quỹ năm cuối là 5,88 tỷ đồng.
Bảng 6-5. Giá trị thanh lý ròng của dự án mở rộng BR, 2X10 Đvt: triệu đồng
I. Giá trị sổ sách của dự án, 2X10
Chi phí mua thiết bị mới, 20X6 9.500
Vận chuyển và lắp đặt 500
Giá trị tài sản tính khấu hao 10.000
Khấu hao = (0,2+0,32+0,19+0,12) x 10.000 -8.300
Giá trị sổ sách, 2X10 1.700
II. Tác động thuế lên việc bán tài sản, 2X10
Giá bán tài sản 2.000
Giá trị sổ sách, 2X10 -1.00
Lời (lỗ) từ bán tài sản 300
Thuế (40%) 120
III. Giá trị thanh lý ròng, dòng ngân quỹ, 2X10
Dòng ngân quỹ từ bán tài sản 2.000
Tác động thuế của việc bán tài sản -120
Dòng ngân quỹ thanh lý ròng 1.880
Lưu ý rằng tổng ngân quỹ ròng của năm 2X10 là tổng ngân quỹ tăng thêm hằng năm và
ngân quỹ năm cuối cùng. Vì thế, trong năm cuối cùng của dự án, công ty có hai nguồn ngân
quỹ, ngân quỹ hoạt động tăng thêm và ngân quỹ kết thúc gắn với năm cuối dự án. Đối với dự
án máy kiểm tra thiết bị mà BR đang xem xét, tổng ngân quỹ ròng dự kiến của năm 2X10 là
10.560 triệu đồng. Có thể biểu diễn các dòng ngân quỹ theo thời gian cho dự án mở rộng của
BR như sau. Các con số ghi theo đơn vị triệu đồng.
20X6 20X7 20X8 20X9 2X10
Ngân quỹ ròng -14.000 5.000 5.480 4.960 10.560
c - Dự án thay thế
Vào một thời điểm nào đó, tất cả các công ty đều phải ra quyết định về thay thế tài sản đang
sử dụng. Việc nghiên cứu dự án thay thế khá phức tạp so với dự án mở rộng vì cùng lúc, phải
xem xét hai phương án loại trừ nhau: giữ lại tài sản cũ hay thay bằng tài sản mới. Điều này
được thực hiện bằng cách xác định khoản chênh lệch ròng giữa dòng ngân quỹ trong dự án
mới với dòng ngân quỹ của dự án cũ.
Mười năm trước đây, BR đã mua một chiếc máy tiện để cắt gọt các đồ nhựa đúc với giá
75 triệu đồng. Chiếc máy này có chu kỳ kinh tế dự kiến là 15 năm vào thời điểm mua. Các
276
nhà quản trị ban đầu đã ước tính giá trị thanh lý sẽ bằng 0 sau 5 năm nữa. Chiếc máy đang
được khấu hao theo phương pháp đường thẳng, vì thế, chi phí khấu hao hằng năm là 5 triệu
đồng và giá trị sổ sách hiện tại là 25 triệu đồng = 75 triệu đồng - 10 x (5 triệu đồng).
Hiện tại, BR đang cân nhắc mua một chiếc máy chuyên dụng để thay thế chiếc máy tiện
này. Chiếc máy mới dự đoán có thể mua với giá 120 triệu đồng bao gồm cả chi phí vận
chuyển và lắp đặt. Chiếc máy giúp làm giảm số lượng lao động và sử dụng nguyên vật liệu
hiệu quả hơn nên ước tính có thể cắt giảm chi phí hoạt động từ 80 triệu xuống còn 45 triệu
đồng, nghĩa là thu nhập hoạt động sau thuế sẽ tăng 35 triệu mỗi năm. Máy mới có chu kỳ kinh
tế 5 năm và dự kiến sẽ bán đi vào cuối năm thứ 5 với giá 20 triệu đồng. Luật thuế hiện hành
quy định tính khấu hao cho loại máy này theo tỷ lệ tương ứng trong bốn năm là 33%, 45%,
15% và 7%. Giá trị thị trường của chiếc máy cũ là 10 triệu đồng, thấp hơn giá trị sổ sách 25
triệu đồng. Nhu cầu vốn luân chuyển ròng sẽ tăng 10 triệu đồng nếu BR thay thế chiếc máy
tiện bằng máy mới và nhu cầu này sẽ nảy sinh đúng vào thời điểm thay thế máy móc.
Bảng 6.6 trình bày các bảng tính BR sử dụng để phân tích dự án thay thế. Để xác định
dòng ngân quỹ cho quyết định thay thế, cần biết rằng dòng ngân quỹ liên quan đến tài sản mới
sẽ thay thế dòng ngân quỹ liên quan đến tài sản cũ. Kết quả là phải tính toán mức tăng hay
giảm ngân quỹ từ việc thay thế thiết bị cũ bằng thiết bị mới.
Phân tích dòng ngân quỹ
Chi phí đầu tư ban đầu là 114 triệu bao gồm dòng ngân quỹ liên quan đến chi phí mua tài sản
mới và thay đổi về vốn luân chuyển ròng, tương tự như trong tính toán đầu tư ban đầu cho
quyết định mở rộng trong ví dụ trước. Tuy nhiên, với quyết định thay thế, dòng ngân quỹ liên
quan đến việc thanh lý tài sản cũ phải được xem xét khi xác định chi phí đầu tư ban đầu của
máy mới vì tài sản được thay thế bị loại ra khỏi các hoạt động. Trong ví dụ này, tài sản cũ có
giá trị sổ sách là 25 triệu đồng nhưng chỉ bán được với giá 10 triệu đồng. Vì thế, BR chịu một
khoản lỗ bằng -15 triệu = 10 triệu - 25 triệu nếu họ thay thế chiếc máy tiện bằng chiếc máy
chuyên dụng mới. Khoản lỗ này ngược lại sẽ giúp công ty tiết kiệm được một khoản thuế
bằng 6 triệu = Lỗ xThuế suất =15 triệu x 0,4. Khoản tiết kiệm là do BR đã không khấu hao
chính xác tài sản cũ để phản ánh đúng giá trị thị trường. Vì thế, bán tài sản cũ sẽ đem lại cho
công ty một ngân quỹ dương bằng 16 triệu gồm 10 triệu tiền thu được từ bán máy và 6 triệu
đồng tiết kiệm thuế. Khoản tiền này làm giảm số tiền mặt cần thiết để mua máy mới và nhờ
đó giảm chi phí đầu tư ban đầu.
Bảng 6-6. Phân tích dự án thay thế Đvt: triệu đồng
20X6 20X7 20X8 20X9 2X10 2X11
I. Chi phí đầu tư bán đầu
Chi phí mua máy mới -120
Thay đổi vốn luân chuyển ròng -10
Dòng ngân quỹ ròng từ bán tài sản cũ 16
Đầu tư ban đầu -114
II. Dòng ngân quỹ tăng thêm
U Chi phí hoạt động 35 35 35 35 35 35
U Khấu hao -34,60 -49 -13 -34 5
U Thu nhập hoạt động trước thuế 0,4 -14 22 31,60 40
U Thuế (40%) -0,16 5,6 -8,8 -12,64 -16
U Thu nhập hoạt động ròng 0,24 -84 13,2 18,96 24
Cộng U khấu hao 34,6 49 13 3,4 -5
Dòng ngân quỹ hoạt động tăng
thêm
34,84 40,60 26,20 22,36 19
III. Dòng ngân quỹ năm cuối
Thu hồi vốn luân chuyển ròng 10
Giá trị thanh lý ròng tài sản mới 12
Ngân quỹ năm cuối 22
IV. Ngân quỹ ròng hằng năm
Tổng ngân quỹ ròng hằng năm -114 34,84 40,6 26,2 22,36 41
Để xác định dòng ngân quỹ hoạt động tăng thêm mỗi năm, chúng ta sử dụng các thủ tục
tương tự như trên: Xác định xem dòng ngân quỹ hoạt động sẽ thay đổi như thế nào nếu BR
mua thiết bị mới để thay thế máy tiện cũ. Theo dự tính, chiếc máy mới kỳ vọng làm lợi nhuận
hoạt động tăng thêm mỗi năm 35 triệu đồng nhờ giảm một phần chi phí cho hoạt động sản
xuất. Nếu việc thay thế này làm thay đổi doanh số hoặc nếu các khoản tiết kiệm hằng năm dự
kiến sẽ thay đổi theo thời gian thì người lập dự án phải tính đến những yếu tố này.
6.3 CÁC PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ DỰ ÁN ĐẦU TƯ
Sau khi đã xác định thông tin ngân quỹ để ra quyết định đầu tư, chúng ta đánh giá tính hấp
dẫn của các phương án. Quyết định đầu tư có thể là chấp nhận hay từ chối dự án. Trong phần
này, chúng ta nghiên cứu các phương pháp đánh giá và lựa chọn dự án. Ngoài ra, chúng ta bàn
đến một số khó khăn tiềm ẩn khi sử dụng các phương pháp này. Ở đây, có
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_quan_tri_tai_chinh_phan_2.pdf