Marketing ra đời trong nền sản xuất hàng hoá tư bản chủ nghĩa nhằm giải
quyết mâu thuẫn giữa cung và cầu. Xuất phát từ nước Mỹ, sau đó được truyền bá
dần dần sang các nước khác. Marketing là quá trình tổng kết thực tiễn sản xuất kinh
doanh trong môi trường cạnh tranh và dần dần được khái quát hoá và nâng lên thành
lý luận khoa học. Do quá trình sản xuất hàng hoá phát triển, từ chỗ lao động thủ
công đến lao động cơ giới hoá, sản xuất hàng loạt lớn, lượng hàng hoá cung cấp
ngày càng nhiều dẫn tới vượt nhu cầu của thị trường. Mặt khác, mối quan hệ giữa
người sản xuất và người tiêu dùng ngày càng xa do xuất hiện các trung gian phân
phối khi quy mô sản xuất ngày càng lớn. Do vậy, người sản xuất ngày càng ít có cơ
hội hiểu rõ được mong muốn của khách hàng. Đây là những nguyên nhân căn bản
dẫn tới hàng hoá sản xuất ra không bán được vì không đáp ứng nhu cầu của khách
hàng. Hoàn cảnh này buộc các nhà sản xuất phải tìm tòi các phương pháp khác nhau
để tiêu thụ hàng hoá. Mỗi khi phương pháp cũ không giải quyết được vấn đề đặt ra
thì lại xuất hiện phương pháp mới thay thế. Do vậy, nội dung, phương pháp và tư
duy kinh doanh cũng biến đổi để thích nghi với môi trường kinh doanh mới. Từ tư
duy kinh doanh “Bán những cái mình có sẵn” trong điều kiện cung nhỏ hơn cầu, các
doanh nghiệp phải chuyển dần sang tư duy “Bán cái mà khách hàng cần” khi cung
vượt cầu và cạnh tranh gia tăng. Đó chính là tư duy kinh doanh Marketing. Để thực
hiện được tư duy “Bán cái mà khách hàng cần” thì nhà sản xuất phải hiểu rất rõ
khách hàng của mình qua công tác nghiên cứu thị trường. Do vậy, doanh nghiệp
phải tiến hành hoạt động Marketing ở tất cả các giai đoạn của quá trình sản xuất, từ
khi nghiên cứu thị trường để nắm bắt nhu cầu cho đến cả sau khi bán hàng.
47 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 886 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình marketing căn bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n này thường được chọn khi công
ty mới bước vào thị trường, chưa đủ kinh nghiệm và vốn liếng, nhân lực, uy tín,
tiếng tăm. Ví dụ 1: Công ty Vietel khi mới bước vào thị trường dịch vụ viễn thông
Việt Nam đã chọn dịch vụ VoIP 178 trên đoạn thị trường giữa Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh. Đoạn thị trường này có nhu cầu cao. Dịch vụ VoIP là dịch vụ có giá
cước thấp dễ thu hút khách hàng. Ví dụ 2: Một cửa hàng ăn mới ra đời (ở gần ký túc
xá sinh viên Đại học Vinh) tập trung bán cơm bình dân cho sinh viên.
• Phương án 2: Chuyên môn hoá theo khả năng. Công ty chọn một số đoạn
thị trường phù hợp với khả năng cuả công ty để kinh doanh. Ví dụ: Công ty cung
cấp dịch vụ Internet bán lẻ và điện thoại bán lẻ cho Sinh viên trong Ký túc xá, dịch
vụ Điện thoại bán lẻ cho khu tập thể các giáo viên trường Đại học Vinh.
• Phương án 3: Chuyên môn hoá theo thị trường. Công ty chọn một thị
trường nào đó và cung cấp các sản phẩm của mình. Nói cách khác, công ty cung cấp
tất cả các sản phẩm cho một thị trường được lựa chọn phù hợp.
c, Các chiến lược đáp ứng thị trường
Để đáp ứng nhu cầu của thị trường, công ty có thể chọn các chiến lược khác
nhau. Sau đây là 3 chiến lược Marketing đáp ứng thị trường:
• Marketing không phân biệt
• Marketing phân biệt
• Marketing tập trung
- Chiến lược Marketing không phân biệt
Chiến lược Marketing không phân biệt là chiến lược trong đó công ty tập
trung vào những cái đồng nhất trong nhu cầu, bỏ qua các điểm khác biệt nhỏ của
các phần thị trường khác nhau. Do vậy sản phẩm của công ty cũng như các biến số
Marketing mix nhằm vào nhu cầu của đông đảo khách hàng. Ưu điểm quan trọng
của Marketing không phân biệt là tiết kiệm chi phí sản xuất, chi phí Marketing do
hiệu quả tăng theo quy mô. Điều này giúp cho công ty đặt giá thấp, và như vậy phù
hợp với thị trường nhạy cảm về giá. Nhược điểm của chiến lược Marketing không
phân biệt là:
• Khó khăn khi hoàn cảnh kinh doanh thay đổi bởi vì quy mô thị trường càng
lớn thì càng khó thay đổi.
• Do nhu cầu thị trường đa dạng nên sản phẩm của công ty khó lòng đáp ứng
nhu cầu của đông đảo khách hàng.
• Việc bỏ qua thị trường nhỏ sẽ dẫn tới nguy cơ tiềm ẩn cho các đối thủ cạnh
tranh xâm nhập vào thị trường. Chiến lược Marketing không phân biệt có thể được
áp dụng khi mức độ cạnh tranh trên thị trường chưa gay gắt và thị trường vẫn còn
tăng trưởng.
- Chiến lược Marketing phân biệt
32
Theo chiến lược Marketing phân biệt, công ty tham gia nhiều đoạn thị trường
khác nhau với các chương trình Marketing phân biệt cho từng đoạn thị trường. Như
vậy, với mỗi đoạn thị trường, công ty xây dựng một chiến lược Marketing hỗn hợp
riêng. Chiến lược Marketing phân biệt có khả năng xâm nhập sâu vào các đoạn thị
trường nhờ đáp ứng nhu cầu riêng biệt của khách hàng trên mỗi đoạn, do vậy sẽ
giảm bớt nguy cơ bị các đối thủ mới nhảy vào cạnh tranh. Thị trường càng trạnh
tranh mạnh thì các công ty càng cần thiết sử dụng chiến lược này.
Hiện nay, nhiều công ty thực hiện chiến lược Marketing phân biệt. Trong
lĩnh vực ăn uống công ty có thể mở các cửa hàng cơm bình dân cho khách hàng ít
tiền; các nhà hàng khá cho các khách hàng trung lưu; và các khách sạn, nhà hàng
sang trọng cho các khách hàng lắm tiền. Lĩnh vực xe máy, xe ô tô, máy tính cũng
có tình hình tương tự. Nhược điểm của chiến lược này là chi phí sẽ lớn. Đó là các
chi phí sản xuất, chi phí Marketing do phải sản xuất và bán nhiều loại sản phẩm.
Điều mà các công ty quan tâm là cần phải cân đối được số đoạn thị trường phù hợp
và quy mô của từng đoạn. Nếu công ty chọn quá nhiều đoạn thị trường thì sẽ làm
giảm hiệu quả kinh doanh.
- Chiến lược Marketing tập trung
Chiến lược Marketing tập trung nhằm vào một đoạn thị trường nào đó phù
hợp với khả năng cuả mình. Đây là chiến lược phù hợp với các công ty mới tham
gia thị trường, khả năng tài chính, công nghệ, nhân lực còn hạn chế. Theo chiến
lược này, công ty có thể tập trung được tiềm lực vào đoạn thị trường được chọn, tức
là thực hiện chuyên môn hoá cao độ. Do vậy, công ty nâng cao được chất lượng, hạ
giá bán, đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, nhược điểm của chiến lược
này là độ rủi ro lớn nếu có biến động về nhu cầu thị trường.
d, Các căn cứ để lựa chọn chiến lược
Khi chọn chiến lược chiếm lĩnh thị trường, công ty phải cân nhắc các yếu tố
sau đây:
• Khả năng tài chính của công ty
• Nếu khả năng tài chính có hạn, thì công ty nên chọn một đoạn thị trường
thuận lợi nhất, tức là chọn chiến lược Marketing tập trung.
• Mức độ đồng nhất của sản phẩm.
• Đối với một số mặt hàng có tính đồng nhất cao như thép, hoá chất, xăng
dầu thì phù hợp với chiến lược Marketing không phân biệt. Đối với các mặt hàng
tính đồng nhất thấp như điện thoại di động, quần áo, xe máy thì nên dùng chiến
lược Marketing phân biệt.
• Giai đoạn của chu kỳ sống.
• Khi công ty mới đưa sản phẩm ra thị trường thì chỉ nên chào bán một
phương án sản phẩm mới. Điều đó có nghĩa là công ty sử dụng chiến lược
Marketing không phân biệt hay Marketing tập trung.
• Mức độ đồng nhất của thị trường.
• Nếu thị trường có tính đồng nhất cao, tức là có thị hiếu tương tự nhau thì
công ty nên dùng chiến lược Marketing không phân biệt.
• Chiến lược Marketing của các đối thủ cạnh tranh.
• Chiến lược của công ty còn tuỳ thuộc vào chiến lược của các đối thủ cạnh
tranh. Nếu các đố i thủ áp dụng chiến lược Marketing không phân biệt thì sẽ có cơ
hội cho chúng ta sử dụng chiến lược Marketing phân biệt hoặc Marketing tập trung
33
(thị trường ngách). Nếu các đối thủ áp dụng chiến lược Marketing phân biệt thì
chúng ta cũng buộc phải áp dụng chiến lược Marketing phân biệt, nhưng nhằm vào
các đoạn thị trường mà công ty chúng ta có thế mạnh hơn.
3.3. Định vị thị trường
3.3.1. Khái niệm
Định vị thị trường còn được gọi là xác định vị thế trên thị trường mục tiêu.
Marketing luôn coi định vị thị trường là chiến lược chung nhất, chi phối mọi
chương trình marketing được áp dụng ở thị trường mục tiêu.
Định vị thị trường là thiết kế sản phẩm và hình ảnh của doanh nghiệp nhằm
chiếm được một vị trí đặc biệt và có giá trị trong tâm trí khách hàng mục tiêu. Định
vị thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải quyết định khuyech trương bao nhiêu điểm
khác biệt và những điểm khác biệt nào giành cho khách hàng mục tiêu.
Thực chất của việc triển khai một chiến lược định vị thị trường chính là xác
định cho sản phẩm và doanh nghiệp một vị trí nhất định trên thị trường mục tiêu sao
cho nó có một hình ảnh riêng trong tâm trí khách hàng và có khả năng cạnh tranh
với các đối thủ trên cùng một thị trường mục tiêu.
3.3.2. Các hoạt động trọng tâm trong chiến lược định vị
Để có một chiến lược định vị trở nên sắc bén, người làm marketing cần nỗ
lực tập trung vào một số hoạt động chính sau đây:
a, Tạo được một hình ảnh cụ thể cho sản phẩm, thương hiệu trong tâm trí
khách hàng ở thị trường mục tiêu
Khởi đầu một chiến lược định vị là tạo ra được một hình ảnh cụ thể về sản
phẩm, thương hiệu của doanh nghiệp trong tâm trí khách hàng ở thị trường mục
tiêu.
Hình ảnh trong tâm trí khách hàng là sự kết hợp giữa nhận thức và đánh giá
của khách hàng về doanh nghiệp và các sản phẩm mà doanh nghiệp cung ứng. Nó là
một tập hợp các ấn tượng cảm giác và khái niệm khách hàng có được về sản phẩm
và thương hiệu đó.
Hình ảnh của một doanh nghiệp, sản phẩm và thương hiệu được hình thành
dựa trên: Sự thiết kế và truyền bá những hình ảnh mà doanh nghiệp lựa chọn; Kinh
nghiệm của khách hàng qua tiêu dùng sản phẩm.
b, Lựa chọn vị thế của sản phẩm, của doanh nghiệp trên thị trường mục tiêu
Hình ảnh được khắc họa trong tâm trí khách hàng không chỉ do bản thân sản
phẩm và hoạt động marketing của doanh nghiệp tạo dựng mà còn do tương quan so
sánh với các sản phẩm cạnh tranh. Vì vậy, công việc của một chiến lược định vị
không chỉ dừng lại ở việc tạo dựng được một hình ảnh mà còn phải lựa chọn cho
hình ảnh đó một vị thế trên thị trường mục tiêu.
Vị thế của một sản phẩm trên thị trường ở tầm cỡ nào là do khách hàng nhìn
nhận và hình thành thái độ với sản phẩm ra sao khi khách hàng tiếp cận với sản
phẩm.
c, Tạo được sự khác biệt cho sản phẩm, thương hiệu
Một vị thế trên thị trường mà doanh nghiệp lựa chọn chỉ trở thành hiện thực
nếu nó được hậu thuẫn bởi những đặc tính nổi trội của sản phẩm và các hoạt động
marketing khi khách hàng so sánh với sản phẩm cạnh tranh.
Có bốn nhóm công cụ chính được marketing sử dụng để tạo ra sự khác biệt.
Nhóm 1: Tạo điểm khác biệt cho sản phẩm vật chất
34
Để tạo được điểm khác biệt cho sản phẩm vật chất, các doanh nghiệp cung
ứng có thể sử dụng đơn chiếc hoặc kết hợp những yếu tố chủ yếu như: tính chất,
công dụng, mức độ phù hợp, độ bền Các yếu tố này có khả năng tạo cho sản
phẩm những đặc tính khác biệt.
Nhóm 2: Tạo điểm khác biệt cho dịch vụ
Doanh nghiệp còn có thể tạo ra điểm khác biệt nhờ dịch vụ đi kèm. Tạo điểm
khác biệt cho dịch vụ còn được coi là chìa khóa để cạnh tranh thắng lợi trong trường
hợp khó tạo điểm khác biệt cho sản phẩm vật chất. Những yếu tố chính tạo được
điểm khác biệt cho dịch vụ bao gồm: giao hàng, lắp đặt, huấn luyện khách hàng,
dịch vụ tư vấn, sửa chữa và nhiều dịch vụ khác.
Nhóm 3: Tạo điểm khác biệt về nhân sự
Các doanh nghiệp cũng có thể giành được lợi thế cạnh tranh nhờ vào hoạt
động tuyển chọn và huấn luyện được đội ngũ nhân viên tốt hơn đối thủ cạnh tranh.
Những vấn đề trọng tâm của việc sử dụng nhóm công cụ này được tập trung vào
những hoạt động chủ yếu sau:
Phân loại đội ngũ cán bộ, nhân viên của doanh nghiệp theo đúng nhiệm vụ
và chức năng của họ trong thỏa mãn nhu cầu và ước muốn khách hàng.
Huấn luyện và rèn luyện cho đội ngũ cán bộ, công nhân viên của doanh
nghiệp có ý thức toàn tâm toàn ý với công việc, phục vụ nhiệt tình vì khách hàng.
Nhóm 4: Tạo sự khác biệt về hình ảnh
Khi các sản phẩm cạnh tranh hoàn toàn giống nhau, khách hàng vẫn có phản
ứng khác nhau với hình ảnh của doanh nghiệp hay thương hiệu. Nếu họ nhận thấy
thương hiệu của họ được tiếp xúc đã tạo ra được một hình ảnh nhất định hay những
đặc điểm nhận dạng và một hình ảnh sâu sắc có thể làm khách hàng liên tưởng đến
doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp với một thái độ thiện chí.
Các công cụ để tạo ra hình ảnh và đặc điểm nhận dạng bao gồm: logo, tên
gọi, biểu tượng, bầu không khí, các sự kiện
35
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Thị trường người tiêu dùng mua sản phẩm và dịch vụ cho tiêu dùng cá nhân.
Đó là thị trường cuối cùng của các hoạt động kinh tế. Khi phân tích thị trường
người tiêu dùng, người làm Marketing phải phân tich ảnh hưởng của 4 nhóm nhân
tố chủ yếu: văn hóa, xã hội, cá nhân và tâm lý.
Mô hình hành vi mua của người tiêu dùng được sử dụng để mô tả mối quan
hệ giữa 3 yếu tố: các kích thích, hộp đen ý thức và những phản ứng đáp lại các kích
thích của người tiêu dùng. Trong mô hình hành vi mua của người tiêu dùng vấn đề
thu hút sự quan tâm và cũng là nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho người làm Marketing
là phải hiểu được những gì xảy ra trong hộp đen ý thức khi người tiêu dùng tiếp
nhận các kích thích. Để một giao dịch, người mua phải trải qua một tiến trình bao
gồm 5 giai đoạn: nhận biết nhu cầu, tìm kiếm thông tin, đánh giá các phương án,
quyết định mua, đánh giá sau khi mua. Trong mỗi giai đoạn của quá trình này,
những hành vi cụ thể sẽ được thực hiện để giải quyết những vấn đề cụ thể mà người
mua đảm bảo rằng sự lựa chọn của họ là hợp lý nhất. Nhiệm vụ của người làm
Marketing là hiểu được hành vi của người mua trong từng giai đoạn.
Thị trường người mua là các tổ chức bao gồm: các doanh nghiệp sản xuất,
các doanh nghiệp thương mại và các tổ chức cơ quan Đảng và chính phủ. Khi phân
tích và nghiên cứu các thị trường này, yêu cầu các nhà làm Marketing phải nắm
được các nét đặc trưng của mỗi loại thị trường, những nhân tố chính ảnh hưởng đến
hành vi mua và những người tham gia vào quá trình quyết định mua của mỗi loại thị
trường đó.
Phân đoạn thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu và định vị thị trường
được coi là nội dung quan trọng nhất của lý thuyết Marketing và là khâu không thể
thiếu của tiến trình hoạch định chiến lược Marketing. Phân đoạn thị trường,lựa chọn
thị trường mục tiêu gắn liền với các quan điểm về tiếp cận thị trường: Marketing
không phân biệt, Marketing phân biệt và Marketing tập trung.
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 2
1. Phân tích khái quát mô hình hành vi người tiêu dùng
2. Các yếu tố môi trường như chính trị, kinh tế, văn hoá, công nghệ, dân
sốảnh hưởng như thế nào đến hành vi tiêu dùng? Cho ví dụ minh hoạ.
3. Phân tích khái quát ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về đặc tính của người
mua đến hành vi mua của người tiêu dùng. Cho ví dụ minh hoạ.
4. Phân tích khái quát quá trình thông qua quyết định mua hàng của người tiêu
dùng.
5. Phân tích các đặc tính trưng cơ bản của thị trường các tổ chức.
6. Phân tích quá trình mua của các tổ chức.
7. Địa vị xã hội của người tiêu dùng ảnh hưởng như thế nào đến hành vi mua
của khách hàng điện thoại di động?
36
CHƯƠNG 3
CHÍNH SÁCH SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP
Sau khi nghiên cứu xong chương này sinh viên cần nắm được các vấn đề sau đây:
• Định nghĩa sản phẩm theo quan điểm Marketing
• Các quyết định về nhãn hiệu sản phẩm
• Các quyết định về chủng loại sản phẩm
• Các giai đoạn hình thành sản phẩm mới
• Chu kỳ sống của sản phẩm
• Chiến lược sản phẩm thị trường
1. Những nguyên lý cơ bản về sản phẩm
1.1. Khái niệm và cấu trúc sản phẩm
a, Khái niệm
Trong các môn học cơ sở ngành như Kinh tế chính trị, Kinh tế vi mô thì sản
phẩm được định nghĩa là những hàng hóa mang hai thuộc tính Giá trị và Giá trị sử
dụng. Nhưng theo cách tiếp cận của Marketing thì:
Sản phẩm là bất cứ thứ gì mà có thể được cung ứng chào hàng cho một thị
trường để tạo sự chú ý, mua sắm, sử dụng hay tiêu dùng nhằm thỏa mãn một nhu
cầu hoặc mong muốn nào đó. (Philip Kotler)
Như vậy theo quan điểm này, sản phẩm có thể là vật phẩm, dịch vụ, địa
điểm, tổ chức, ý tưởng, sự kiện, kinh nghiệm hoặc tích hợp tất cả các yếu tố trên.
Nghĩa là sản phẩm bao hàm cả những vật thể hữu hình và vô hình, những yếu tố vật
chất và phi vật chất. Ví dụ: đêm nhạc Trịnh Công Sơn, dịch vụ tư vấn qua điện
thoại,
Trong thực tế, người ta thường xác định sản phẩm thông qua đơn vị sản
phẩm. Đơn vị sản phẩm là một chỉnh thể riêng biệt được đặc trưng bằng đơn vị độ
lớn, giá cả, vẻ bề ngoài và các thuộc tính khác. Ví dụ: sữa tươi là sản phẩm còn hộp
sữa tươi Vinamilk 200ml giá 3700 vnd là một đơn vị sản phẩm.
b, Cấu trúc sản phẩm
Đơn vị sản phẩm vốn là một chỉnh thể hoàn chỉnh chứa đựng những yếu tố,
đặc tính và thông tin khác nhau về sản phẩm. Những yếu tố, đặc tính và thông tin
này có thể có những chức năng Marketing khác nhau. Khi tạo ra một sản phẩm/ sản
phẩm người ta thường sắp xếp các yếu tố đó theo 3 cấp độ như sau:
- Sản phẩm cốt lõi: về thực chất sản phẩm này thỏa mãn những lợi ích cốt
yếu nhất mà khách hàng sẽ theo đuổi - những giá trị mà nhà kinh doanh sẽ bán cho
khách hàng.
Ví dụ: hiện nay, khi khách hàng mua xe máy thì không chỉ mua phương tiện
để đi lại đơn thuần mà còn xem nó như một món đồ trang sức để thể hiện phong
cách, cá tính, địa vị của họ những lợi ích cơ bản tiềm ẩn đó có thể thay đổi tùy
theo yếu tố hoàn cảnh của môi trường và mục tiêu cá nhân của khách hàng.
Nhiệm vụ của các chuyên gia Marketing là phát hiện ra những nhu cầu ẩn
giấu sau mỗi thứ hàng hóa và không phải là bán các thuộc tính hàng hóa mà là
những lợi ích nó mang lại cho khách hàng.
- Sản phẩm hiện thực (hiện hữu): đó là những yếu tố phản ánh sự có mặt trên
thực tế của hàng hóa như: các chỉ tiêu phản ánh chất lượng, các đặc tính, bố cục bề
ngoài, đặc thù, tên nhãn hiệu cụ thể và đặc trưng của bao gói.
37
Nhờ những yếu tố này nhà sản xuất khẳng định sự hiện diện của mình trên
thị trường để người mua tìm đến doanh nghiệp và phân biệt hàng hóa của doanh
nghiệp này với doanh nghiệp khác.
Ví dụ: các hãng xe máy sẽ cung ứng trên thị trường những sản phẩm xe máy
với nhiều nhãn hàng khác nhau, hình dáng, kích thước, màu sắc khác nhau: hãng xe
Vespa có kiểu đặc trưng giống hình con ong (trong tiếng Italia, Vespa nghĩa là con
ong)
- Sản phẩm bổ sung (gia tăng): là những yếu tố như tính tiện lợi trong lắp
đặt, sửa chữa, thay thế; những dịch vụ bổ sung sau bán; điều kiện bảo hành, điều
kiện và hình thức thanh toán
Nhờ những yếu tố này tạo ra sự đánh giá mức độ hoàn chỉnh khác nhau về
sản phẩm hay nhãn hiệu cụ thể trong sự nhận thức của khách hàng. Hiện nay các
yếu tố bổ sung này trở thành vũ khí cạnh tranh của các doanh nghiệp vì họ cho rằng
cạnh tranh theo kiểu mới không phải là cạnh tranh với nhau về cái mà các doanh
nghiệp làm ra tại nhà máy mà về cái mà họ hoàn chỉnh cho sản phẩm của mình dưới
hình thức như bao gói, dịch vụ, quảng cáo, tư vấn, tài trợ
Trên thực tế, 3 cấp độ hay lớp sản phẩm đó được cấu thành từ 4 yếu tố cơ
bản sau:
- Thuộc tính sản phẩm: là đặc điểm công năng, chất lượng, đặc tính nổi trội,
kiểu dáng. Đây là yếu tố tạo nên đặc điểm sản phẩm hữu hình.
- Bao bì: là vỏ bọc bên ngoài cho phép chuyển hàng, trưng bày, bảo quản/lưu
trữ sản phẩm một khi đã được đóng gói (đóng gói nghĩa là đặt sản phẩm trong tình
trạng cần thiết)
- Nhãn hiệu có thể là tên gọi, thuật ngữ, dấu hiệu, biểu tượng, hình vẽ hay
tổng hợp tất cả các yếu tố đó được dùng để xác nhận sản phẩm của một người bán
hay một nhóm người bán và để phân biệt chúng với sản phẩm của đối thủ cạnh
tranh.
- Dịch vụ chào bán kèm với sản phẩm vật chất gồm dịch vụ trước bán (chào
hàng và những lời khuyên về kỹ thuật); dịch vụ sau bán (lời khuyên về dịch vụ sửa
chữa, bảo hành, bảo dưỡng)
38
Sơ đồ 3.1: Kết cấu sản phẩm
1.2. Phân loại sản phẩm
Để có chiến lược Marketing thích hợp và hoạt động Marketing có hiệu quả,
các nhà quản trị Marketing phải biết hàng hóa mà doanh nghiệp mình kinh doanh
thuộc loại nào? Theo cách tiếp cận của Marketing, sản phẩm được chia làm 2 loại
chính:
a, Các dạng của sản phẩm tiêu dùng: loại này lại được chia làm 4 nhóm
chính:
- Sản phẩm tiện lợi: là sản phẩm mà người tiêu dùng thường hay mua, không
cần đắn đo suy nghĩ và ít mất công sức để so sánh chúng với nhau (báo, nước uống,
sữa tươi)
- Sản phẩm lựa chọn: là sản phẩm mà người tiêu dùng trong quá trình lựa
chọn và mua thường so sánh cân nhắc các chỉ tiêu công dụng, chất lượng, giá và cấu
hình bên ngoài (quần áo, đồ đạc)
Vì vậy khi bán những hàng hóa này phải có nhiều chủng loại để thỏa mãn
những thị hiếu cá nhân rất đa dạng, và tuyển chọn những người bán được huấn
luyện tốt, có thể cung cấp cho người tiêu dùng thông tin cần thiết và tư vấn cho họ
trong quá trình lựa chọn sản phẩm.
Lợi ích công
năng cốt lõi
sản phẩm
Chất lượng cảm
nhận được
Mẫu mã/
phong cách
Đặc tính
nổi trội
Bao gói
Tên
nhãn
Điều kiện
thanh toán
và giao
hàng
Lắp đặt, sử dụng
Dịch vụ
sau bán
Bảo hành
Sản phẩm cốt lõi
Sản phẩm hiện hữu
Sản phẩm gia tăng
39
- Sản phẩm chuyên biệt: là sản phẩm có tính chất hết sức đặc biệt hay có đặc
hiệu riêng mà người mua sẵn sàng bỏ thêm sức lực để tìm kiếm (các loại hàng cao
cấp hoặc có thị hiếu mạnh như xe hơi, hàng hiệu, hàng công nghệ cao)
Trong trường hợp này, địa điểm thuận tiện của người kinh doanh không có ý
nghĩa đặc biệt, nhưng nhất thiết phải thông tin cho những người mua tiềm ẩn về địa
điểm của mình.
- Sản phẩm thụ động: là sản phẩm mà người tiêu dùng thường không biết đến
hoặc có biết nhưng thường không nghĩ đến việc mua chúng (bảo hiểm, từ điển)
Do bản chất của loại sản phẩm này, doanh nghiệp phải có những nỗ lực
Marketing đáng kể như quảng cáo, bán hàng cá nhân.
b, Các dạng của sản phẩm công nghiệp: loại này được chia làm 3 nhóm
chính căn cứ vào vai trò và mức độ tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất của
doanh nghiệp và tổ chức đó:
- Vật liệu và cấu kiện: là sản phẩm công nghiệp trở thành một phần trong sản
phẩm của người mua, thông qua gia công thêm nữa hay dưới dạng bộ phận (nguyên
nhiên vật liệu). Ví dụ: nguyên liệu nông sản (lúa, bông, rau, quả), nguyên liệu
tự nhiên (dầu thô, quặng sắt); vật liệu (sắt, thép, sợi, xi măng); chi tiết lắp
ráp
- Hàng hóa tư bản (tài sản cố định): bao gồm sản phẩm được lắp đặt cố định
như nhà xưởng, máy móc thiết bị cố định và các công cụ tùy động như máy tính, xe
cộ chuyên chở.
- Vật liệu phụ và dịch vụ công nghiệp: bao hàm các sản phẩm dùng để sửa
chữa, bảo trì và vận hành trong quá trình sản xuất kinh doanh của các tổ chức hoặc
các dịch vụ sửa chữa, bảo trì, vận hànhVí dụ: dầu nhớt, than đá, giấy viết,dịch
vụ sửa chữa, bảo hành, tư vấn
2. Mục tiêu và nội dung cơ bản của chính sách sản phẩm
2.1. Mục tiêu và vai trò
a, Mục tiêu của chính sách sản phẩm
Chính sách sản phẩm của mỗi doanh nghiệp phải đảm bảo được những mục
tiêu như sau:
- Đảm bảo nâng cao khả năng bán: nghĩa là phải đảm bảo trong tương lai khả
năng chấp nhận của khách hàng.
- Đảm bảo tạo lập được điều kiện sinh lời.
- Đảm bảo uy tín, nâng cao sức cạnh tranh và kéo dài chu kỳ sông sản phẩm.
b, Vai trò của chính sách sản phẩm
- Là nền tảng xương sống của chiến lược Marketing.
- Phương hướng đầu tư, nghiên cứu, thiết kế, sản xuất
- Điều kiện để triển khai các chính sách khác hiệu quả.
- Giúp thực hiện mục tiêu của chiến lược Marketing:
- Chất lượng, số lượng sản phẩm, chi phí và mức giá có quan hệ với nhau
vì nó sẽ quyết định mức lợi nhuận của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến mục tiêu lợi
nhuận của chiến lược.
- Chủng loại, chất lượng sản phẩm sẽ quyết định vị thế của doanh nghiệp.
- Đa dạng hóa sản phẩm sẽ đảm bảo mục tiêu an toàn của doanh nghiệp. Khi
một sản phẩm nào đó nhu cầu biến động giảm thì doanh nghiệp vẫn còn những sản
40
phẩm khác.
- Tổ chức tốt quá trình sản xuất sẽ đảm bảo thực hiện mục tiêu xã hội.
2.2. Chính sách cơ cấu và chủng loại sản phẩm
a, Thiết lập cơ cấu chủng loại sản phẩm
Mỗi sản phẩm có những liên hệ bậc xác địnhvới những sản phẩm khác. Các
bậc của sản phẩm được sắp xếp từ các nhu cầu căn bản xuống tới các danh mục
(tên) hàng cụ thể cho phép thỏa mãn những nhu cầu đó. Về nguyên lý có thể chỉ ra
7 mức của một hệ bậc sản phẩm xác định:
- Chủng loại nhu cầu là tập hợp nhu cầu có tính cơ bản làm hiện thực hóa
một ngành hàng xác định.
- Ngành hàng (tổ hợp sản phẩm): là tập hợp tất cả các lớp hàng có thể thỏa
mãn một chủng loại nhu cầu thiết yếu nào đó với hiệu năng thấp hoặc cao. Ví dụ:
các ngành hàng tiêu dùng được chia làm 2 nhóm ngành là ngành hàng thực phẩm -
nông sản và các ngành hàng công nghiệp. Nhóm ngành hàng thứ nhất thỏa mãn các
nhu cầu cơ bản, thiết yếu, sinh lý của côn người; nhóm ngành thứ hai nhằm thỏa
mãn những nhu cầu thị trường còn lại bao gồm cả những nhu cầu cơ bản và những
nhu cầu có đặc trưng chất lượng cao hơn (văn hóa phẩm, nhu cầu nghe nhìn, nhu
cầu trang phục). Tiêu thức xác lập ngành hàng là nhu cầu mà nó thỏa mãn và yêu
cầu có tính tổ chức của thương mại.
- Lớp sản phẩm: là một tập sản phẩm trong một ngành hàng xác định và cùng
có một quan hệ chức năng xác định. Các lớp hàng được xác lập căn cứ vào loại nhu
cầu xác định mà nó thỏa mãn, nguồn gốc sản xuất của sản phẩm, tính liên đới trong
sử dụng và đặc trưng của hàng hóa nhưng chi tiết hơn ngành hàng: lớp hàng văn
phòng phẩm, lớp hàng thể thao, lớp hàng may sẵn, lớp hàng giày
- Nhóm sản phẩm (tuyến sản phẩm): là một tập sản phẩm trong một lớp hàng
có liên hệ chặt chẽ với nhau do chúng vận hành chức năng với một cách thức như
nhau, hoặc được bán cho cùng một tập khách hàng như nhau, được tiếp thị qua một
mạng lưới cơ sở DNTM như nhau, hoặc cùng vận dụng một thang biểu giá. Nhóm
sản phẩm có tính thống nhất cao, định hướng hẹp hơn và là cơ sở hình thành sản
phẩm hỗn hợp của doanh nghiệp. Ví dụ: lớp hàng giày có nhóm giày thể thao, giày
da hoặc các nhóm giày nam giới, nữ giới, trẻ em
- Loại kiểu sản phẩm: là những tên hàng xác định trong cùng một nhóm sản
phẩm, có một hoặc một vài dạng phối thức sản phẩm có thể và các loại này khác
nhau về cấu trúc phối thức và mức giá. Ví dụ: nhóm giày thể thao lại bao gồm các
loại giày leo núi, giày điền kinh, du lịchvà trong cùng một loại giày du lịch lại có
nhiều kiểu phối thức sản phẩm có lợi ích công năng và giá khác nhau. (Adidas,
Puma)
- Nhãn hiệu sản phẩm là một hoặc một tập danh mục sản phẩm trong một
nhóm sản phẩm xác định được chỉ định một nguồn gốc hoặc một đặc trưng xác định
của các tên hàng xác định.
- Danh mục sản phẩm (tên sản phẩm) là một đơn vị khác biệt trong một
nhóm sản phẩm được phân định bởi quy cách, mức giá, hình thức và một vài thuộc
tính khác. Một danh mục sản phẩm được gọi là một đơn vị hạch toán dự trữ, một
phương án hay một biến thể sản phẩm.
- Sản phẩm hỗn hợp (trắc diện sản phẩm kinh doanh, phổ sản phẩm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gtkt0012_p1_1675.pdf