Nhà nước pháp quyền là một trong những thành tựu của loài người trong
việc tổ chức và vận hành xã hội. Những ý tưởng về nhà nước pháp quyền đã có từ
lâu trong lịch sử nhân loại và được các nhà khoa học chính trị, luật học, xã hội
học, sử học nghiên cứu từ nhiều phương diện khác nhau. Nhà nước pháp quyền
được các nhà luật học của nhiều nước định nghĩa bằng những ngôn ngữ và diễn
đạt khác nhau, song về bản chất có thể tóm lại như sau: nhà nước pháp quyền là
nhà nước thực thi quyền lực của mình dựa trên nền tảng pháp luật được ban hành
theo thủ tục hiến định nhằm bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và
công lý. Như vậy, nếu phân tích đầy đủ khái niệm này từ góc độ pháp luật, có thể
thấy rằng một nhà nước pháp quyền phải là nhà nước chịu sự kiểm soát, sự chế
ngự của pháp luật trong mọi hoạt động của mình
45 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 2726 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình lý luận về nhà nước pháp quyền, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộ.
2. NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM XHCN – MÔ HÌNH VÀ NHỮNG
ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN
2.1. Đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN
2.1.1. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân
Bản chất dân chủ của chế độ chính trị nước ta đòi hỏi mọi quyết định và
hành động của các thiết chế quyền lực đều phải bắt nguồn từ ý chí đích thực của
nhân dân. Đây chính là nội dung cốt lõi của chủ nghĩa lập hiến XHCN. Nói cách
khác các quyết định, các tổ chức và hoạt động đều phải hợp hiến và hợp pháp.
Khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không chỉ là nguyên
tắc cơ bản được ghi nhận trong hiến pháp mà còn gắn liền với với việc thiết lập
các cơ chế bảo đảm thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân. Nhân dân ta, người
chủ của quyền lực, không chỉ tạo lập nên Nhà nước của mình, trực tiếp và thông
qua các cơ quan đại diện cho mình thực thi quyền lực, mà còn thông qua các hình
thức khác để tham gia vào hoạt động quản lý của Nhà nước, tác động mạnh mẽ
33
đến quá trình hoạch định chính sách đường lối của Đảng và Nhà nước, cũng như
vào các hoạt động thuộc phạm vi của Nhà nước – hoạt động lập pháp, hoạt động
quản lý – điều hành, công tác xét xử và các hoạt động bảo vệ pháp luật.
Hiệu quả của chính quyền, của cả hệ thống chính trị của chúng ta hiện nay
là đẩy tới sự nghiệp đổi mới, làm cho đất nước ta không ngừng phát triển, mà
trước hết là lấy kết quả phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm mục tiêu tổ chức và hoạt động.Từ
đó, tiêu chí của việc đánh giá hiệu quả hoạt động của Nhà nước là khả năng phục
vụ nhân dân, là công cụ để nhân dân làm chủ về kinh tế, chính trị, xã hội, sử dụng
tốt và có hiệu quả các quyền, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình.
2.1.2 Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tổ chức và hoạt động trên
cơ sở Hiến pháp, ra sức tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp
Ở Việt Nam, xây dựng và hoàn thiện Hiến pháp luôn luôn là phương
hướng quan trọng để thực hiện dân chủ, giữ vững quyền lực chính trị của nhân
dân, tạo điều kiện để thúc đẩy mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội.
Ngay từ đầu, ở nước ta, sự hiện diện của Hiến pháp đã được gắn liền với
nền dân chủ, với quyền tự do dân chủ của nhân dân. Nhà nước ta được tính chất và
hoạt động trên nền tảng Hiến pháp và trong khuôn khổ của Hiến pháp.
Kế thừa và phát triển các giai đoạn lịch sử của chủ nghĩa lập hiến Việt
Nam, Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xuất
phát từ những nguyên tắc và quan điểm lớn của Đảng ta và điều chỉnh những chế
định lớn - là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự duy trì quyền lực nhà nước, cho sự
làm chủ của nhân dân. Và đó chính là nền tảng có tính chất hiến định để xem xét,
đánh giá sự hợp hiến hay không hợp hiến của các đạo luật, cũng như các quyết
sách khác của Nhà nước và của cá tính chất chính trị, tính chất xã hội.
2.13. Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo
đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội
Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ thống pháp luật cần
và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp
luật và kỷ luật. Pháp luật thể chế hóa các nhu cầu quản lý xã hội, là hình thức tồn
tại của các cơ cấu và tổ chức xã hội và của các thiết chế Nhà nước. Vì vậy, sống
và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh nhất
34
của xã hội. Tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi
công dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Tư duy lý luận của Đảng ta về vị trí, vai trò của pháp luật trong quản lý
Nhà nước và xã hội có sự phát triển ngày càng hoàn thiện theo hướng bảo đảm cho
Hiến pháp và các đạo luật giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống pháp luật và pháp
luật thực sự là công cụ chủ yếu trong quản lý Nhà nước và xã hội. Tư duy lí luận
của Đảng về vai trò, vị trí của pháp luật trong quản lý Nhà nước, quản lý xã hội
còn được thể hiện rõ trong việc đề cao vai trò chủ đạo của luật trong điều chỉnh
các quan hệ xã hội cơ bản, xác định rõ những yêu cầu về nội dung của luật, đảm
bảo cho luật đi vào cuộc sống, đồng thời đặt ra yêu cầu Quốc hội quyết định
Chương trình xây dựng pháp luật 5 năm (nhiệm kỳ) và hàng năm.
Nhà nước là người làm ra luật, ban hành pháp luật, nhưng lại phải tự đặt
mình trong sự ràng buộc về thẩm quyền và trách nhiệm trước pháp luật, trong
khuôn khổ các quy định của pháp luật. Phục tùng pháp luật là phục tùng ý chí và
lợi ích của nhân dân, đường lối, chính sách của Đảng.
Tuy nhiên nói đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến bản
chất dân chủ và giá trị công bằng, bình đẳng của nó. Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách
hàng đầu trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là quyết tâm đổi mới và hoàn
thiện hệ thống pháp luật, đặt công việc đó trên một nền tảng khoa học.
2.1.4. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ dân chủ giữa
Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội
Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân, mở rộng quyền dân
chủ, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, giữa công dân với
Nhà nước v.v, luôn được Đảng ta dành sự quan tâm đặc biệt. Sau khi khẳng định
bản chất dân chủ của Nhà nước ta, thì vấn đề được Đảng đặc biệt quan tâm là hình
thức dân chủ để bảo đảm thực hiện trên thực tế. Trong điều kiện hiện nay, hình
thức thực hiện dân chủ là rất quan trọng. Nhiều Hội nghị của Trung ương Đảng đã
đề cập vấn đề này như Văn kiện đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX, X và nhiều Nghị
quyết trung ương khác. Văn kiện Đại hội Đảng VI xác định: Xây dựng một chính
quyền không có đặc quyền, đặc lợi, hoạt động vì cuộc sống của nhân dân. Nghị
quyết trung ương 8 khoá VII xác định trên nguyên tắc: dân chủ xã hội chủ nghĩa là
35
vấn đề thuộc bản chất của Nhà nước ta. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên
mọi lĩnh vực. Quyền làm chủ đó được thể chế hoá bằng pháp luật Dân chủ đi
đôi với kỷ cương, kỷ luật Văn kiện Đại hội Đảng IX và X xác định rõ những
phương châm cơ bản: xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm: “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của
Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt các cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông
qua đại diện (là cơ quan dân cử và các đoàn thể), làm chủ trực tiếp bằng các hình
thức nhân dân tự quản, bằng việc xây dựng và thực hiện các quy ước, hương ước
tại cơ sở. Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong cách, bảo đảm dân chủ trong
quá trình chuẩn bị ra quyết định và thực hiện các quyết định.
2.1.5. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam bảo đảm quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, có sự kiểm tra,
giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước
Bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) cùng với “Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, quan điểm về sự tồn tại
của ba quyền và sự phân công, phối hợp giữa ba phạm vi quyền lực đó của Nhà
nước được chính thức khẳng định trên cơ sở tiếp thu, kế thừa, phát triển, vận dụng
vào hòan cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam các tri thức của nhân loại và trước yêu
cầu của sự nghiệp đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy
nhà nước. Và đến Hội nghị Trung ương lần thứ tám (khóa VII), (1995), quan niệm
của Đảng về sự tồn tại của ba quyền đã được sự bổ sung quan trọng: quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Một trong những nội dung cơ bản của nguyên tắc phân công và phối hợp
quyền lực nhà nước và của cải cách hành chính là sự phân công, phân cấp giữa
trung ương và địa phương. Sự phân công, phân cấp ấy phải dựa trên cơ sở khuyến
khích và nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp chặt chẽ
quản lý ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong các tổ chức thực hiện quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước theo
hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền thì dù ở chế độ xã hội nào việc xác lập và
sử dụng các hình thức và cơ chế giám sát luôn được đặt ra một cách tất yếu bởi vì
36
Nhà nước pháp quyền về thực chất là để công khai hoá quyền lực và chống lạm
dụng quyền lực.
Trên thực tế, các hình thức kiểm tra, giám sát của nhân dân đa dạng và linh
hoạt hơn rất nhiều so với những hình thức kiểm tra, giám sát của Nhà nước. Về cơ
bản, có thể nhóm lại những mô hình chủ yếu sau:
- Các hình thức của cơ chế kiểm tra, giám sát của nhân dân đối với hoạt
động của bộ máy Đảng và Nhà nước thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân – sự tham chính của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân.
- Các hình thức của cơ chế kiểm tra giám sát trực tiếp của cá nhân công
dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước.
- Giám sát nhân dân chuyên trách- Ban thanh tra nhân dân
2.1.6. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Có thể nói rằng một đảng duy nhất cầm quyền, cơ chế quyền lực nhà nước
tập quyền xã hội chủ nghĩa không tổ chức theo nguyên tắc “tam quyền phân lập” –
những đặc điểm đó của hệ thống chính trị nước ta đã đặt sự lãnh đạo của Đảng và
hoạt động của Nhà nước nói riêng và nền dân chủ XHCN của chúng ta nói chung
vào trạng thái phát triển không có đối trọng. Trong bối cảnh đó, không thể không
nói đến nguy cơ chủ quan, lạm quyền và quan liêu trong bộ máy Đảng và Nhà
nước.
Đối với vấn đề Đảng cầm quyền trong Nhà nước pháp quyền Việt nam
XHCN, có một khía cạnh quan trọng là phân định vai trò lãnh đạo của Đảng với
vai trò quản lý của Nhà nước. Nhiều vấn đề cụ thể xung quanh vấn đề lớn này
được đặt ra như: mối tương quan giữa cấu trúc tổ chức các cơ quan Đảng với cơ
cấu tổ chức bộ máy nhà nước ở các cấp từ Trung ương đến địa phương; các tiêu
chí phân định sự lãnh đạo chính trị của các cấp ủy đảng và quyền tự chủ, độc lập
của các cơ quan nhà nước; cơ sở pháp lý xác định quyền hạn và trách nhiệm của
các tổ chức đảng trong các hoạt động lãnh đạo, kiểm tra, giám sát hoạt động của
các cơ quan nhà nước ở các cấp; vai trò, phương thức lãnh đạo của các cấp ủy
đảng theo cấu trúc lãnh thổ như tỉnh ủy, huyện ủy, đảng ủy xã và của các cấp ủy
trong bản thân các cơ quan nhà nước cần phải được xác định như thế nào: các vị
37
trí, chức vụ trong bộ máy đảng và bộ máy nhà nước, cán bộ đảng và công chức
nhà nước cần được xác định về mặt pháp lý.
3.HỆ THỐNG PHÁP LUẬT TRƯỚC YÊU CẦU CỦA VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN VIỆT NAM XHCN
3.1. Những yêu cầu cơ bản đối với hệ thống pháp luật của Nhà nước
pháp quyền
Như trên đã trình bày, về bản chất, Nhà nước pháp quyền là nhà nước thực
thi quyền lực của mình dựa trên nền tảng pháp luật được ban hành theo thủ tục
hiến định nhằm bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý. Như
vậy, về phương diện pháp lý, Nhà nước pháp quyền phải là Nhà nước chịu sự
kiểm soát, sự chế ngự của pháp luật trong mọi hoạt động của mình và hệ thống
pháp luật đó phải là sự hiện thân của các giá trị của quyền con người, giá trị đạo
đức và của nền tảng của một xã hội dân chủ.
Song, bảo đảm được giá trị đạo đức và tính tối thượng của pháp luật vẫn
chưa đủ. Khả năng tiếp cận pháp luật, tiếp cận công lý còn phụ thuộc vào các yếu
tố khác nữa của pháp luật trong nhà nước pháp quyền.
Từ những phân tích trên, tiếp cận pháp luật từ góc độ nhà nước pháp quyền
có thể nhận diện được một số yêu cầu sau đây đối với hệ thống pháp luật.
- Tính ổn định của pháp luật: đây là yêu cầu cần thiết, bởi không thể
thường xuyên đảo lộn các quan hệ xã hội bằng việc thay đổi pháp luật. Ngạn ngữ
Anh có câu: “Pháp luật thay đổi thường xuyên thì tệ hơn là không có pháp luật”18.
- Tính chuẩn mực, tức là tính quy phạm của pháp luật. Bản thân pháp luật là
hệ thống các quy phạm, tức là các chuẩn mực. Giá trị của pháp luật chính là tạo ra
các chuẩn mực cho các chủ thể khác nhau trong đời sống xã hội. Nếu pháp luật
không chứa đựng các chuẩn mực thì ý nghĩa của nó trong việc điều chỉnh các quan
hệ xã hội không lớn.
- Tính nhất quán, tính hệ thống của pháp luật. Pháp luật phải có tính nhất
quán, thể hiện ở chỗ các văn bản pháp luật trong cùng một lĩnh vực, có khi trong
nhiều lĩnh vực khác nhau đều phải bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp
18 Konrad Adenauer Stiftung, “Nhà nước pháp quyền”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, Tr. 34.
38
của chủ thể. Ví dụ, quyền sở hữu của công dân được Hiến pháp quy định phải
được bảo đảm bởi các luật và văn bản dưới luật. Các văn bản pháp luật phải quy
định trách nhiệm cho các cơ quan nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi để người
dân thực hiện được quyền sở hữu những gì mà pháp luật không cấm. Do vậy, ví
dụ, việc hạn chế công dân sở hữu xe máy, xe ô tô đương nhiên không bảo đảm
tính nhất quán của hệ thống pháp luật.
- Tính hệ thống. Tính hệ thống cũng có những khía cạnh tương đồng với
tính nhất quán. Tuy nhiên, tính nhất quán của pháp luật hàm chứa khía cạnh nội
dung và chính sách trong lúc đó tính hệ thống được thể hiện nhiều qua cấu trúc,
cách sắp xếp, phân loại thứ bậc, hiệu lực của quy phạm pháp luật.
- Không hồi tố. Bảo đảm không hồi tố là một trong những đòi hỏi của pháp
luật trong nhà nước pháp quyền. Giá trị nhân đạo của yêu cầu không hồi tố thể
hiện ở chỗ không thể bắt một cá nhân phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi mà
khi thực hiện người đó không thể biết rằng trong tương lai đó sẽ là hành vi vi
phạm pháp luật. Do vậy, về cơ bản, nguyên tắc pháp luật trong nhà nước pháp
quyền không có giá trị hồi tố. Một số quy phạm pháp luật nhất định có thể có giá
trị hồi tố, nhưng chỉ trong trường hợp việc hồi tố đó có lợi cho những chủ thể có
liên quan.
- Tính minh bạch. Tính minh bạch của pháp luật là một đòi hỏi rất quan
trọng. Cũng có quan điểm cho rằng tính minh bạch của pháp luật thể hiện ở việc
pháp luật được công bố, được phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Quan niệm này không sai, song chưa toàn diện, chưa đầy đủ. Tính minh
bạch của pháp luật còn thể hiện ở sự minh xác, sự minh định, tính hệ thống và nhất
quán. Một hệ thống pháp luật cồng kềnh, khó tiếp cận, khó hiểu, khó vận dụng và
chứa đựng những mâu thuẫn nội tại không thể được coi là minh bạch và không thể
trở thành nền tảng cho nhà nước pháp quyền.
Như vậy, bản chất của nhà nước pháp quyền chính là sự ngự trị của pháp
luật, ở tính thượng tôn pháp luật trong việc tổ chức toàn bộ đời sống kinh tế, xã
hội của một quốc gia. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi một hệ thống pháp luật hoàn
thiện, đáp ứng những yêu cầu nêu trên. Xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn
thiện là đòi hỏi và cũng là điều kiện tiên quyết của Nhà nước pháp quyền. Không
thể có Nhà nước pháp quyền ở bất cứ một quốc gia nào, nếu như ở đó nhà nước
39
chưa được tổ chức và hoạt động trên nền tảng của một hệ thống pháp luật có thể
bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý.
3.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật – một trong những yêu cầu cơ bản
của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được hình thành và phát triển trong
quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng CNHXH
đầy khó khăn và do đó, không tránh khỏi sự thăng trầm. Ngay từ khi mới thành
lập, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà trước đây, Cộng hoà XHCN Việt Nam
ngày nay đã có rất nhiều đặc điểm của một Nà nước pháp quyền. Tuy nhiên, mãi
đến những năm Đổi mới, Nhà nước pháp quyền XHCN mới trở thành một khái
niệm chính trị – pháp lý chính thức trong xã hội ta và để từ đó được hiện thực hoá
trong sự nghiệp Đổi mới và trở thành một trong những nền tảng của công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Tuy nhiên, do được xây dựng trên nền tảng của
một hệ thống chính trị – pháp lý đặc thù của thời kỳ chuyển đổi từ kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, nên nhiều cấu trúc, định chế, đặc biệt
là hệ thống pháp luật của Nhà nước XHCN Việt Nam, cần được tiếp tục hoàn
thiện để đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền.
3.2.1. Nhận diện những hạn chế của hệ thống pháp luật hiện hành
Hệ thống pháp luật nước ta trong hơn hai thập kỷ qua đã có sự phát triển
mạnh mẽ, với nhiều thành tựu to lớn. Chính những thành tựu này trong lĩnh vực
lập pháp đã giúp Việt Nam vượt qua những điều kiện về mặt thể chế mà WTO đặt
ra đối với việc kết nạp các thành viên và đương nhiên đáp ứng được rất nhiều nhu
cầu phát triển nội tại của đất nước. Bên cạnh đó, tiến trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam XHCN cũng đòi hỏi hệ thống pháp luật Việt Nam tiếp tục
cần được nghiên cứu, hoàn thiện. Từ các yêu cầu cơ bản của hệ thống pháp luật
trong Nhà nước pháp quyền, chúng tôi cho rằng, hệ thống pháp luật hiện hành
đang tồn tại một số hạn chế lớn sau:
Thứ nhất, rất đa dạng về thể loại văn bản và khổng lồ về số lượng văn bản
quy phạm pháp luật. Trong hệ thống pháp luật có 26 loại văn bản được xác định là
văn bản quy phạm pháp luật. Theo số liệu của Cơ sở dữ liệu pháp luật Bộ Tư
pháp, tính từ ngày 1 tháng 1 năm 1987 đến 30 tháng 11 năm 2008, chỉ tính riêng
văn bản pháp luật do các cơ quan trung ương ban hành thì hệ thống pháp luật nước
40
đã có tới 19126 văn bản, trong đó có 208 Luật, Bộ luật, 192 Pháp lệnh, 2097 Nghị
định, 267 Nghị quyết và 36 Thông tư, 1213 Thông tư liên tịch19. Pháp lệnh thi
hành án dân sự năm 2004 đã cần đến trên 40 văn bản pháp luật khác nhau để
hướng dẫn thi hành. Luật Đất đai năm 2003 muốn được thực hiện phải dựa trên
126 văn bản. Trong lĩnh vực môi trường thì có đến khoảng 300 văn bản pháp luật
khác nhau đang còn hiệu lực. Nếu kể cả các văn bản pháp luật do các cấp chính
quyền địa phương ban hành thì con số này sẽ rất đồ sộ. Hơn nữa, do có quá nhiều
loại văn bản, được nhiều cấp ban hành, nhưng lại thiếu cơ chế cân nhắc toàn diện
các lĩnh vực pháp luật khác nhau, nên mâu thuẫn và chồng chéo là khó tránh khỏi.
Tính cồng kềnh, sự tồn tại các bất cập và mâu thuẫn làm giảm tính minh bạch của
pháp luật, khiến cho pháp luật trở nên phức tạp, khó hiểu và khó áp dụng và, vì
thế, kém hiệu lực.
Với hệ thống pháp luật như vậy, việc áp dụng, thực hiện không hề dễ dàng
đối với cán bộ pháp luật có trình độ, chưa nói đến các doanh nghiệp và các tầng
lớp nhân dân.
Thứ hai, pháp luật thường xuyên thay đổi. Thực tế này là hệ quả tất yếu của
việc chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường.
Trong quá trình thể chế hoá các yêu cầu của sự phát triển kinh tế, xã hội, có không
ít các quan điểm e ngại với những vấn đề mới, chỉ chấp nhận những vấn đề đã chín
muồi, có sự đồng thuận cao, do đó khó tạo ra những đột phá và từ đó, có sự ổn
định cần thiết. Thực tế này có nguyên nhân ở sự thiếu vắng những tầm nhìn và
quan điểm chiến lược cho sự phát triển các lĩnh vực kinh tế – xã hội cụ thể và từ
đó, của cả hệ thống pháp luật. Chính vì vậy, nhiều văn bản pháp luật tuổi thọ rất
ngắn, thậm chí mới ban hành đã phải tạm hoãn thực hiện hoặc phải sửa đổi, bổ
sung. Pháp luật thường xuyên bị thay đổi, dẫn những khó khăn đáng kể trong việc
thực hiện và tác động xấu đến sự ổn định của các quan hệ xã hội, nhất là đối với
các quan hệ kinh tế.
Thứ ba, rất nhiều văn bản pháp luật có tính quy phạm thấp, tức là thiếu
những quy tắc xử sự cụ thể mà chủ thể phải thực hiện. Có những văn bản chứa
19 Nguồn:
41
đựng những quy định mang tính tuyên ngôn hơn là quy phạm pháp luật. Nhiều
lĩnh vực quan hệ xã hội đòi hỏi phải được điều chỉnh cụ thể, chi tiết thì pháp luật
lại là văn bản pháp luật “khung” hay văn bản pháp luật “ống”. Phần lớn các văn
bản luật như vậy giao cho Chính phủ ban hành Nghị định để cụ thể hoá. Nhiều
Nghị định của Chính phủ lại giao cho Bộ, Ngành, địa phương hướng dẫn thực
hiện. Thực tế này đã dẫn đến tình trạng nảy sinh không ít mâu thuẫn giữa văn bản
hướng dẫn và văn bản được hướng dẫn thi hành. Sự khác nhau trong ý kiến của Bộ
Tài Nguyên và Môi trường và Bộ Xây dựng xung quanh quyết định của UBND TP
Hồ Chí Minh về các giấy tờ nhà đất được giao dịch và của Uỷ ban nhân dân TP Hà
Nội về việc giao cho một cơ quan cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và
quyền sử dụng đất là một ví dụ. Việc triển khai thực hiện pháp luật theo cách này
thiếu kịp thời, khó mang lại hiệu quả cao, vì phải chờ văn bản của các cấp khác
nhau.
Thứ tư, tính minh bạch của hệ thống pháp luật còn hạn chế, nhất là nhìn
nhận từ tính minh xác, tính minh định. Công báo của Trung ương và các tỉnh đã
đăng tải khá đầy đủ, kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật. Các phương tiện
thông tin đại chúng, cả hệ thống chính trị và xã hội đã có nhiều cố gắng tuyên
truyền, phổ biến rộng rãi pháp luật. Như vậy, xét ở khía cạnh khả năng tiếp cận thì
tính minh bạch của hệ thống pháp luật được bảo đảm tốt hơn. Tuy nhiên, xét ở tính
minh xác, tính minh định thì hệ thống pháp luật vẫn còn thiếu tính minh bạch.
Chính hạn chế này khiến các chủ thể thực sự lúng túng khi thực hiện hay áp dụng
pháp luật. Quy trình xây dựng pháp luật vẫn chưa tạo được cho công chúng những
tiếp cận và tham gia cần thiết. Các ý kiến của chuyên gia, của các nhà khoa học
nói riêng và của công chúng nói chung chưa thực sự được cân nhắc và tiếp thu.
Mặt khác, tính tích cực công dân tham gia xây dựng pháp luật nhìn chung chưa
cao.
Thứ năm, tính hệ thống của pháp luật còn rất hạn chế. Các văn bản luật,
các văn bản dưới luật khác nhau chưa thực sự tạo thành một chỉnh thể với những
nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt mang tính chuyên ngành hoặc liên ngành. Những
mâu thuẫn giữa Luật nhà ở, Luật đất đai, Bộ luật dân sự về một số vấn đề (như:
hiệu lực các giao dịch, về căn cứ xác định sở hữu, đăng ký quyền sở hữu) mà công
42
luận nêu lên gần đây là ví dụ cho tính hệ thống thấp của pháp luật hiện hành của
nước ta.
Cuối cùng, trên nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội, xây dựng pháp luật chưa gắn
với quản lý thi hành pháp luật và, do đó, khó tránh khỏi hậu quả pháp luật xa rời
thực tiễn, không những không phản ánh đầy đủ thực tại, mà còn khó có khả năng
dự báo, đi trước sự phát triển của quan hệ xã hội. Ví dụ như tham mưu xây dựng
chính sách, pháp luật hình sự mà không quản lý công tác phòng chống tội phạm,
xử lý tội phạm, giáo dục phạm nhânthì khó có được một chính sách hình sự
hoàn chỉnh, ổn định, thúc đẩy, chứ không phải kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã
hội của đất nước20.
3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật nhìn từ yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đang được hiện thực hoá trong
thực tiễn hoạt động của bộ máy nhà nước và các thiết chế xã hội. Điều quan trọng
cần được nhấn mạnh khi nói về Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam mà chúng
ta chủ trương xây dựng, chính là sự vận dụng về cơ bản toàn bộ các tiêu chí của
nhà nước pháp quyền nói chung và những giá trị riêng của một nhà nước pháp
quyền XHCN. Những nghiên cứu khác nhau cho thấy hệ thống pháp luật trong nhà
nước pháp quyền XHCN có những tiêu chí riêng sau đây:
Thứ nhất, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ chú
trọng bảo đảm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân và công lý mà còn đặc biệt
chú trọng đến sự bình đẳng xã hội, công bằng xã hội. Trong một Nhà nước theo
chế độ pháp trị, pháp luật mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Pháp luật trong nhà
nước pháp quyền “bao gồm một tập hợp các quy định mà nếu thiếu chúng thì
không thể có sự cùng tồn tại trong hoà bình và tự do”21. Với nhà nước pháp quyền
XHCN thì giá trị của pháp luật phải bổ sung thêm yếu tố là bình đẳng xã hội, công
bằng xã hội. Pháp luật trong nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ bảo đảm cá
nhân, tổ chức cùng tồn tại trong sự hoà hợp và tự do mà cả trong sự bình đẳng,
20 Hà Hùng Cường, Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN, Tạp chí nghiên cứu lập pháp. Nguồn :
he-thong-phap-luat-111ap-ung-yeu-cau-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xhcn
21 Konrad Adenauer Stiftung, “Nhà nước pháp quyền”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2002, Tr. 55.
43
công bằng xã hội, chống lại mọi sự phân biệt giàu nghèo, sự thống trị của chủ
nghĩa tự do cực đoan.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là Nhà nước của dân, do
dân và vì dân, phục vụ lợi ích của nhân dân. Chính vì vậy, pháp luật trong Nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải thể hiện được ý chí của nhân dân mà
người đại diện là tổ chức chính trị được nhân dân thừa nhận và sự thừa nhận đó đã
trở thành nguyên tắc hiến định trong hệ thống pháp luật nước ta – Đảng Cộng sản
Việt Nam. Do đó, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền XHCN phải là sự thể chế
hoá các chủ trương, đường lối, chính sác
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gtkl0014_p1_9341.pdf