Giáo trình Luật hành chính Việt Nam - Phần I: Những vấn đề chung của luật hành chính - Phan Trung Hiền (Phần 1)

CHƯƠNG I

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Bài 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LUẬT HÀNH CHÍNH

1. KHÁI NIỆM VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

1.1 Khái niệm và đặc điểm quản lý

Có nhiều cách giải thích khác nhau cho thuật ngữ "hành chính" và "luật hành chính". Tuy nhiên, tất cả đều thống nhất ở một điểm chung: Luật Hành chính là ngành luật về quản lý nhà nước. Do vậy, thuật ngữ "hành chính" luôn luôn đi kèm và được giải thích thông qua khái niệm "quản lý" và "quản lý nhà nước"

 

doc189 trang | Chia sẻ: phuongt97 | Lượt xem: 477 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình Luật hành chính Việt Nam - Phần I: Những vấn đề chung của luật hành chính - Phan Trung Hiền (Phần 1), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấp trên. Hành vi hành chính vô quyền, hành vi từ chối không thực hiện các công việc hành chính theo quy định của pháp luật. Hành vi hành chính lạm quyền. Hành vi chậm trễ trong công vụ gây thiệt hại cho công dân, tổ chức. Lỗi trong trách nhiệm công vụ : Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức. Khi hành động, một người bình thường đều nhận thức được tính nguy hại cho xã hội của hành vi và thấy được hậu quả của hành vi, hoặc theo quy định của pháp luật đều phải nhìn thấy trước hoặc có thể nhìn thấy trước. Tất cả mọi hành vi hành chính do cơ quan hành chính, cán bộ, công chức Nhà nước thực hiện. Do vậy mọi hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thi hành công vụ đều là hành vi có lỗi. Có hai hình thức lỗi là : cố ý và vô ý. Trách nhiệm công vụ là loại trách nhiệm xảy ra trong quá trình thực thi công vụ để phục vụ cho lợi ích toàn xã hội, lợi ích nhà nước, công dân. Để bảo vệ cho lợi ích toàn xã hội có thể gây thiệt hại cho một công dân, một nhóm công dân cụ thể nào đó vì lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội, cán bộ, công chức vẫn thực hiện hành vi hành chính đó. Về phía công dân bị thiệt hại họ có thể khiếu kiện tới cơ quan tài phán hành chính. Cơ quan tài phán hành chính dựa vào các tình tiết cụ thể, căn cứ vào pháp luật để đánh giá hành vi cụ thể đó, rút ra kết luận có vi phạm hay không vi phạm. Trong trường hợp hành vi hành chính trái pháp luật, hoặc trái quyết định của cơ quan cấp trên hoặc không đúng thẩm quyền gây thiệt hại cho công dân thì Toà hành chính yêu cầu chủ thể có hành vi vi phạm phải chịu trách nhiệm công vụ, bồi thường vật chất cho công dân nếu có. Cần phân biệt lỗi của cán bộ, công chức và lỗi của cơ quan hành chính. + Khi thực hiện công vụ, vì mục đích vụ lợi, hoặc mục đích cá nhân khác mà cán bộ, công chức có hành vi hành chính trái pháp luật thì đó là lỗi của cá nhân cán bộ, công chức, gọi là lỗi tách rời công vụ, không liên quan đến việc thi hành công vụ. Cá nhân cán bộ, công chức gây thiệt hại cho công dân, thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Cũng có trường hợp khi thi hành công vụ, không vì mục đích vụ lợi, nhưng vì do sơ suất, không nắm vững pháp luật mà có hành vi hành chính gây thiệt hại cho công dân thì cần xác định trách nhiệm công vụ thuộc về nền hành chính, cơ quan hành chính phải đứng ra bồi thường thiệt hại cho dân. Đồng thời, cơ quan hành chính có cán bộ, công chức vi phạm phải truy cứu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm bồi thường vật chất hạn chế đối với người cán bộ, công chức đó theo quy định của pháp luật. + Đối với trường hợp không thể xác định được lỗi của cán bộ, công chức cụ thể nào đó, thì đó là lỗi của cơ quan hành chính ra quyết định hành chính cá biệt cụ thể, việc thực hiện quyết định đó gây thiệt hại cho công dân, nhưng quá trình xây dựng và ban hành quyết định đó có rất nhiều cá nhân, cơ quan tham gia từ khâu thu nhập, xử lý thông tin, khâu xây dựng dự thảo, trình dự thảo, thông qua dự thảo ở cơ quan làm việc theo chế độ tập thể. Tuy nhiên, có trường hợp lỗi do các chủ trương, chính sách, pháp luật quy định (lỗi của Nhà nước). + Đó là căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường là do cá nhân cán bộ, công chức, cơ quan hành chính hay Nhà nước. Trong Nhà nước pháp quyền, Nhà nước các cơ quan Nhà nước nói chung, mọi cán bộ, công chức đều phải tuân thủ pháp luật, đặt mình dưới pháp luật, và phải chịu trách nhiệm pháp lý về những hành vi hành chính, quyết định của mình. Nhà nước, cán bộ, công chức Nhà nước không thể hiện lý do đang thi hành công vụ để được miễn trừ trách nhiệm pháp lý hay trốn lẫn trách nhiệm khi gây thiệt hại cho công dân, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế. Khi thi hành công vụ, vì lợi ích Nhà nước, lợi ích cộng đồng, người cán bộ, công chức có thể gây thiệt hại đối với công dân, tổ chức cụ thể, nhưng hành vi đó phù hợp với pháp luật, chủ trương của cơ quan, quyết định của cấp trên, thì cơ quan đó phải đứng ra bồi thường cho công dân. Việc quy định trách nhiệm cán bộ, công chức thuộc cơ quan tạo ra khả năng tích cực của người cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ. Đối với trường hợp không thuộc lỗi cơ quan mà thuộc lỗi của cá nhân cán bộ, công chức khi thi hành công vụ bị công dân khiếu kiện, thì cơ quan tài phán hành chính cần phối hợp với cơ quan người cán bộ, công chức đó phân tích, xác định chính xác lỗi của người cán bộ, công chức tách rời công vụ, để truy cứu trách nhiệm bồi thường về dân sự do Toà dân sự phán quyết. Trong đời sống hàng ngày có những rủi ro xảy ra như bão lụt, hoả hoạn, đắm tàu, vỡ đê... mà trách nhiệm cứu trợ thuộc về cơ quan Nhà nước có chức năng. + Những công dân tự nguyện tham gia cứu hộ, chẳng may bị thiệt hại, họ có thể yêu cầu cơ quan Nhà nước bồi thường thiệt hại đó. Cơ quan tài phán hành chính có thể chấp nhận và yêu cầu cơ quan hành chính có trách nhiệm bồi thường. + Những hoạt động vì lợi ích công cộng xã hội, khi xảy ra rủi ro, làm thiệt hại cho một công dân (hoặc một số công dân) không thể chỉ quy định trách nhiệm cho một cán bộ, công chức hoặc một cơ quan, mà trong nhiều trường hợp, là trách nhiệm của một quy định, một chủ trương thuộc các đạo luật, các nghị quyết... Do vậy, cần phân biệt lỗi cá nhân cán bộ, công chức, lỗi cơ quan, lỗi Nhà nước. Việc xác định rõ trách nhiệm dẫn đến một hệ quả : ai phải gánh chịu rủi ro khi xảy ra. Chẳng hạn, Nhà nước thành lập quỹ bình ổn giá cà phê, khi giá cà phê xuống thấp gây thiệt hại cho người trồng và người mua bán cà phê, thì Nhà nước dùng quỹ đó để bồi thường cho dân. Hoặc khi dân đóng thuế Nhà nước trích một phần thuế đưa vào quỹ bảo hiểm, khi rủi ro mất mùa dùng quỹ đó bồi thường cho dân. + Khi thực thi công vụ, cơ quan Nhà nước nào có lỗi gây thiệt hại thì bồi thường lấy từ công quỹ, người bị rủi ro được đền bù. Hành vi bị truy cứu trách nhiệm công vụ phải là hành vi gây thiệt hại thực tế. Thiệt hại trong trách nhiệm công vụ tương tự giống khái niệm thiệt hại trong trách nhiệm dân sự, đó là thiệt hại thực tế chứ không phải thiệt hại suy đoán. Do đó, một hành vi hành chính vi phạm pháp luật gây thiệt hại thực tế cho công dân cụ thể thì phải bồi thường. Công dân khiếu kiện không phải nhằm lên án cơ quan, cá nhân cán bộ, công chức thi hành công vụ, mà chủ yếu đòi bồi thường thiệt hại cho họ. 5.6 Truy cứu trách nhiệm pháp lý Tóm lại, trách nhiệm pháp lý của cán bộ, công chức nhà nước phát sinh khi cán bộ, công chức nhà nước thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật hoặc không hoàn thành nhiệm vụ được cơ quan giao cho. Những hình thức trách nhiệm pháp lý có thể được áp dụng đối với cán bộ, công chức nhà nước bao gồm: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm vật chất, trách nhiệm hành chính. 5.6.1 Trách nhiệm hình sự Trách nhiệm này phát sinh khi cán bộ, công chức nhà nước thực hiện những hành vi nguy hiểm cho xã hội mà bộ luật hình sự quy định đó là tội phạm và được toà án xác định. Cần phân biệt những tội phạm có tính chất đặc thù của cán bộ, công chức nhà nước với những tội phạm thông thường khác. Những tội phạm có tính chất đặc thù của cán bộ, công chức nhà nước là những tội phạm về chức vụ. Chủ thể là cán bộ, công chức theo quan điểm của luật hình sự, nghĩa là bất cứ người nào đảm nhận một công việc do nhà nước uỷ nhiệm với tư cách là một đại diện cho nhà nước. Các trường hợp này được quy định tại một số điều luật trong Bộ luật Hình sự Việt Nam. Những tội phạm thông thường khác là những tội phạm không liên quan đến chức vụ nhà nước. Trong trường hợp cán bộ, công chức nhà nước phạm phải thì người cán bộ, công chức nhà nước đó phải chịu trách nhiệm hình sự như các công dân khác. 5.6.2 Trách nhiệm dân sự Trách nhiệm dân sự của cán bộ, công chức nhà nước phát sinh trong trường hợp cán bộ, công chức nhà nước thực hiện các hành vi bất hợp pháp hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm khi thực hiện nhiệm vụ được giao gây thiệt hại về tài sản cho nhà nước, tập thể hoặc cá nhân, vi phạm các điều khoản được bộ luật dân sự quy định. Trách nhiệm dân sự của cán bộ, công chức đối với tài sản nhà nước được áp dụng khi cán bộ, công chức gây thiệt hại cho tài sản của nhà nước. Đó là những cán bộ, công chức: + Cố ý hay thiếu tinh thần trách nhiệm làm thiệt hại đến tài sản nhà nước; + Những cán bộ, công chức gây thiệt hại cho tài sản nhà nước không phải trong trường hợp thi hành nhiệm vụ được giao; + Những cán bộ, công chức gây thiệt hại cho tài sản nhà nước không phải trong trường hợp được quyền sử dụng tài sản; Về nguyên tắc, cán bộ, công chức vi phạm có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại về tài sản mà họ đã gây ra đối với nhà nước. Tuy nhiên, các cơ quan có thẩm quyền xử lý cần cân nhắc, căn cứ vào các yếu tố như lỗi, mục đích, mức độ thiệt hại để xem xét việc đền bù cụ thể. Trong trường hợp thiệt hại xảy ra do điều kiện khách quan không thể lường trước được hoặc vượt quá sức khắc phục của con người như thiên tai, chiến tranh mà người cán bộ, công chức đã làm hết sức mình để đề phòng hoặc hạn chế thiệt hại thì họ không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Trách nhiệm dân sự của cán bộ, công chức nhà nước đối với tài sản công dân. Nếu cán bộ, công chức nhà nước gây thiệt hại cho tài sản của công dân thì cán bộ, công chức đó phải bồi thường cho công dân theo quy định của luật dân sự. Việc bồi thường đó được tiến hành theo hai bước: + Cơ quan nhà nước nơi cán bộ, công chức phục vụ bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. + Cán bộ, công chức gây ra thiệt hại hoàn trả khoản tiền mà cơ quan nhà nước đã bồi thường cho người bị thiệt hại. Sau khi đã bồi thường cho người bị thiệt hại, thủ trưởng cơ quan quản lý cán bộ, công chức gây ra thiệt hại thành lập hội đồng xét giải quyết việc hoàn trả bồi thường thiệt hại. Cán bộ, công chức nhà nước gây ra thiệt hại phải hoàn trả khoản tiền bồi thường cho cơ quan mình theo phương thức hoàn trả một lần bằng tài sản riêng của mình trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày có quyết định hoàn trả hoặc trừ dần vào thu nhập nhưng không dưới 10% và không vượt quá 30% tổng thu nhập từ tiền lương và phụ cấp hàng tháng. Trong trường hợp có nhiều người cùng gây thiệt hại thì họ phải liên đới chịu trách nhiệm trên cơ sở lỗi của mỗi người. 5.6.3 Trách nhiệm vật chất Trách nhiệm vật chất là trách nhiệm đặc thù của cán bộ, công chức nhà nước, do cơ quan chủ quản áp dụng đối với người vi phạm. Quy định của pháp luật về trách nhiệm vật chất của cán bộ, công chức nhà nước có nội dung như sau: Phạm vi thi hành của chế độ trách nhiệm vật chất chỉ được áp dụng để giải quyết những vụ thiệt hại tài sản nhà nước do công nhân cán bộ, công chức gây ra trong quá trình sản xuất, công tác. Cán bộ, công chức có thể gây ra thiệt hại cho tài sản nhà nước khi vi phạm kỷ luật lao động hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm. Trong trường hợp cán bộ, công chức nhà nước gây thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản nhà nước do thiếu tinh thần trách nhiệm thì bị xử lý theo chế độ trách nhiệm dân sự và có thể bị truy tố về mặt hình sự. Về mức bồi thường trong trách nhiệm vật chất: + Đối với những trường hợp làm hư hỏng tài sản nhà nước thì tuỳ tình hình cụ thể, căn cứ vào mức độ lỗi, điều kiện, hoàn cảnh của người vi phạm mà xí nghiệp, cơ quan quyết định người vi phạm phải bồi thường một phần hay toàn bộ thiệt hại. + Đối với những trường hợp làm mất tài sản nhà nước thì về nguyên tắc cán bộ, công chức phải đền bù toàn bộ tài sản. Nếu việc làm mất tài sản có lý do chính đáng và được xác minh rõ ràng thì có thể quyết định mức bồi thường thấp hơn mức thiệt hại. 5.6.4 Trách nhiệm kỷ luật Trách nhiệm kỷ luật của cán bộ, công chức nhà nước phát sinh khi cán bộ, công chức vi phạm kỷ luật lao động. Kỷ luật lao động thường được quy định trong nội quy do thủ trưởng cơ quan, đơn vị ban hành. Kỷ luật này gọi là kỷ luật nội bộ cơ quan. Nó chỉ áp dụng đối với cán bộ, công chức nhà nước khi cơ quan chủ quản xác định được lỗi của người đó. Khác với các quy định trước đây, Luật cán bộ, công chức phân loại trách nhiệm kỷ luật theo 2 đối tượng là cán bộ và công chức. Đối với cán bộ vi phạm thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một trong những hình thức kỷ luật sau đây: a) Khiển trách; b) Cảnh cáo; c) Cách chức; d) Bãi nhiệm. Trong đó, việc cách chức chỉ áp dụng đối với cán bộ được phê chuẩn giữ chức vụ theo nhiệm kỳ. Ngoài ra, cán bộ phạm tội bị Tòa án kết án và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương nhiên thôi giữ chức vụ do bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm; trường hợp bị Tòa án phạt tù mà không được hưởng án treo thì đương nhiên bị thôi việc. Đối với công chức, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm, công chức phải chịu một trong những hình thức kỷ luật sau đây: a) Khiển trách; b) Cảnh cáo; c) Hạ bậc lương; d) Giáng chức; đ) Cách chức; e) Buộc thôi việc. So với các Pháp lệnh trước đây, Luật cán bộ công chức 2008 có quy định thêm hình thức giáng chức. Tuy nhiên, việc giáng chức, cách chức chỉ áp dụng đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý. Ngoài ra, công chức bị Tòa án kết án phạt tù mà không được hưởng án treo thì đương nhiên bị buộc thôi việc kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; công chức lãnh đạo, quản lý phạm tội bị Tòa án kết án và bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì đương nhiên thôi giữ chức vụ do bổ nhiệm 5.6.5 Trách nhiệm hành chính Trách nhiệm hành chính của cán bộ, công chức nhà nước phát sinh khi cán bộ, công chức có hành vi vi phạm hành chính. Có những hành vi vi phạm hành chính chỉ có thể được thực hiện bởi cán bộ, công chức nhà nước. Những vi phạm hành chính đó mang tính chất đặc thù của cán bộ, công chức nhà nước, gắn với một số chức vụ nhất định. Trong trường hợp cán bộ, công chức nhà nước thực hiện hành vi vi phạm hành chính thông thường không gắn với chức vụ thì cán bộ, công chức nhà nước sẽ chịu trách nhiệm hành chính như mọi công dân khác. ------------------------------------ CÂU HỎI 1. Thế nào là cán bộ, công chức nhà nước? Hãy phân loại cán bộ, công chức. 2. Công vụ nhà nước là gì? Hãy nêu đặc điểm của công vụ nhà nước. 3. Thế nào là trách nhiệm cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ? Nói "Trách nhiệm công vụ chỉ có ở cán bộ, công chức" là đúng hay sai? Giải thích? 4. Hãy phân biệt trách nhiệm chủ động và trách nhiệm thụ động. ------------------------------------ TÀI LIỆU THAM KHẢO Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII thông qua ngày 01/7/96. Dự thảo sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992. Luật quốc tịch 2008. Luật cán bộ, công chức 2008. Luật luật sư 2006. Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính 2002, sửa đổi bổ sung năm 2007, 2008. Quyết định số 27/2003/QĐ-TTg ngày 19 tháng 02 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ- Quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, luân chuyển, từ chức, miễn nhiệm cán bộ, công chức lãnh đạo. Bài 6 QUY CHẾ PHÁP LÝ HÀNH CHÍNH CỦA CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI 1. QUAN NIỆM VỀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI Ở NƯỚC TA 1.1 Khái niệm về hệ thống chính trị và các tổ chức xã hội Hệ thống chính trị Hệ thống chính trị theo nghĩa rộng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội với tư cách là một hệ thống bao gồm các tổ chức, các chủ thể chính trị, các quan điểm, quan hệ chính trị, hệ tư tưởng và các chuẩn mực chính trị, pháp luật (Xem Tài liệu bồi dưỡng về quản lý hành chính Nhà nước chương trình chuyên viên - phần I: Nhà nước và pháp luật - Học viện Hành chính Quốc gia- 2001, trang 13) ở nước ta xét về cơ cấu bao gồm các bộ phận sau đây: Đảng Cộng sản Việt Nam, giữ vai trò lãnh đạo hệ thống chính trị Việt Nam. Nhà nước giữ vai trò, trung tâm trong hệ thống chính trị. Mặt trận tổ quốc, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, giữ vai trò thực hiện và phát huy dân chủ trong hệ thống chính trị Ngoài bộ phận trung tâm, cơ bản là nhà nước Việt Nam, phải kể đến vai trò thiết yếu, thể hiện mức độ dân chủ và đoàn kết cũng như lãnh đạo dân tộc, đó là Đảng Cộng sản và Mặt trận tổ quốc cùng các tổ chức thành viên. Khác với nhà nước, các tổ chức này mang tính chính trị, xã hội và thể hiện tính tự nguyện, độc lập với bộ máy nhà nước, được gọi ngắn gọn là tổ chức xã hội. Các tổ chức xã hội này có thể mang những tính chất: Thuần tuý “chính trị”; Thần tuý xã hội, quần chúng; Thuần tuý nghề nghiệp; Tính xã hội-nghề nghiệp; Tính chính trị-xã hội; Tính tự quản độc lập trong từng đơn vị tổ chức. Nói ngắn gọn, tổ chức xã hội là hai trong ba bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị nước ta, được hình thành trên các nguyên tắc tự nguyện, tự quản của người lao động được tổ chức và hoạt động theo điều lệ hay theo các quy định của nhà nước hoặc cả hai, nhân danh tổ chức mình khi tham gia vào quản lý nhà nước, quản lý xã hội nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các thành viên và góp phần quản lý xã hội. Quản lý nhà nước là chuỗi hệ thống các hoạt động phức tạp, đa dạng về mặt tính chất và chủ thể nên được tiến hành không chỉ bởi các cơ quan nhà nước, cán bộ nhà nước có thẩm quyền mà còn được hình thành bởi các tổ chức xã hội. Là các bộ phận của hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội đã góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, từ việc định ra kim chỉ nam để phát triển nhà nước (Đảng cộng sản), đến việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Các tổ chức xã hội rất đa dạng về hình thức, tên gọi, chủng loại như: Đảng cộng Sản Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Trọng tài kinh tế, Hội nhà văn, Hội nhà báo, Hội luật gia... Trong đời sống xã hội, các tổ chức xã hội là chỗ dựa của nhà nước nhằm tuyên truyền, giáo dục quần chúng thực hiện các nhiệm vụ quản lý. Các tổ chức xã hội có những đặc điểm phân biệt với các cơ quan nhà nước. 1.2 Đặc điểm của các tổ chức xã hội Mỗi tổ chức xã hội đều có những hoạt động mang tính chất đặc thù, phản ánh vị trí, vai trò của nó trong hệ thống chính trị. Tuy vậy, các tổ chức xã hội cũng có những đặc điểm chung nhất định, đó là căn cứ để phân biệt các tổ chức xã hội với các cơ quan nhà nước, các đơn vị kinh tế. Đó là các đặc điểm sau: Các tổ chức xã hội là hình thức tổ chức tự nguyện của người lao động vì những mục đích nhất định. Đó là những tổ chức tập hợp những thành viên của mình dựa vào những đặc điểm nghề nghiệp, độ tuổi, giới tính ... Yếu tố tự nguyện được thể hiện rõ nét trong việc nhân dân được quyền tự do lựa chọn và quyết định tham gia hay không tham gia vào một tổ chức xã hội nào đó. Không ai có quyền ép buộc một người nào đó phải tham gia hay không được tham gia vào các tổ chức xã hội nhất định. Tuy nhiên yếu tố tự nguyện ở đây không đồng nghĩa với tự do vô tổ chức mà mỗi tổ chức xã hội đều đặt ra những tiêu chuẩn nhất định đối với người muốn trở thành thành viên của tổ chức xã hội đó. Đây là những tiêu chuẩn nhằm bảo đảm “năng lực hành vi”- khả năng góp sức và tham gia hoạt động của từng thành viên, phù hợp với mục đích, điều lệ của tổ chức. Ví dụ: độ tuổi, nghề nghiệp, sở thích, phẩm chất đạo đức, chính trị. Điều này hoàn toàn không gây khó, hay phân biệt đối xử về kinh tế, về dân tộc, giới tính Ngoại lệ là “Hội phụ nữ”, thành viên tham gia là giới tính do đặc thù của tổ chức và hoạt động. của các đối tượng tham gia. Yếu tố tự nguyện được hiểu là việc kết nạp hay không khai trừ các thành viên của tổ chức hoàn toàn do tổ chức xã hội và những thành viên của tổ chức đó quyết định mà nhà nước không can thiệp cũng như không sử dụng quyền lực nhà nước để chi phối hoạt động đó. Mỗi tổ chức xã hội là tập hợp những thành viên có cùng chung một dấu hiệu, đặc điểm. Họ liên kết lại với nhau để tìm tiếng nói chung và bảo vệ những lợi ích chính đáng của họ. Ví dụ: Cùng chung một mục đích như Đảng Cộng sản Việt Nam; Cùng chung một giai cấp như Hội Nông dân Việt Nam; Cùng chung một nghề nghiệp như Hội Luật Gia; Cùng chung một giới tính như Hội Phụ nữ... Khi tham gia vào quản lý xã hội, quản lý nhà nước các tổ chức xã hội nhân danh tổ chức mình chứ không phải nhân danh nhà nước. Chỉ trong một số trường hợp đặc biệt do pháp luật quy định tổ chức xã hội mới hoạt động nhân danh nhà nước. Quyết định của các tổ chức xã hội chỉ có hiệu lực đối với các thành viên của mình, không có hiệu lực đối với những người ngoài tổ chức đó, trừ một số trường hợp do quy định của pháp luật. Các tổ chức xã hội có thể là chủ thể của quản lý nhà nước nhưng không phải là chủ thể mặc nhiên. + Các tổ chức xã hội khi tham gia vào quản lý xã hội, quản lý nhà nước không được quyền nhân danh nhà nước nếu không được pháp luật quy định vì tổ chức xã hội không phải là một thành phần trong cơ cấu bộ máy nhà nước. Nhà nước chỉ thừa nhận và bảo hộ sự tồn tại của các tổ chức xã hội bằng việc quy định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các tổ chức xã hội. Khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ này, các tổ chức xã hội nhân danh tổ chức mình chứ không nhân danh nhà nước, không sử dụng quyền lực nhà nước. + Tuy nhiên, trong một số trường hợp do pháp luật quy định, nhà nước trao quyền cho các tổ chức xã hội, cho phép các tổ chức này được thay mặt nhà nước quản lý một số công việc nhất định, lúc này tổ chức xã hội mới được phép nhân danh nhà nước sử dụng quyền lực nhà nước, các quyết định do tổ chức xã hội đưa ra mới mang tính chất quyền lực nhà nước, có tính chất bắt buộc đối với những đối tượng có liên quan. Ví dụ: tổ chức Công đoàn được nhà nước cho phép thực hiện hoạt động kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo hộ lao động, hợp đồng lao động, chế độ tuyển dụng, cho thôi việc, tiền lương... Các tổ chức xã hội được tổ chức và hoạt động theo điều lệ do các thành viên trong tổ chức xây dựng nên hoặc theo các quy định của nhà nước. + Phần lớn các tổ chức xã hội đều có điều lệ hoạt động như Đảng Cộng sản Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam...điều lệ đó được các thành viên trong tổ chức soạn thảo, được nhà nước phê chuẩn, thừa nhận một cách chính thức. Tuy nhiên, có một số tổ chức xã hội không có điều lệ hoạt động riêng mà hoạt động theo quy định của nhà nước như Ban thanh tra nhân dân, tổ hòa giải. Ngoài ra, có một số tổ chức vừa hoạt động theo điều lệ, vừa hoạt động theo quy định của pháp luật như tổ chức Công đoàn, Mặt trận tổ quốc. + Cho dù tổ chức xã hội hoạt động theo điều lệ hay theo quy định của nhà nước thì những hoạt động nội bộ của các tổ chức xã hội vẫn mang tính chất tự quản. Nhà nước không trực tiếp can thiệp vào công việc nội bộ của các tổ chức này cũng như không sử dụng quyền lực nhà nước để sắp xếp người lao động hay cách chức người lao động trong tổ chức xã hội đó. Mối quan hệ giữa các thành viên trong tổ chức xã hội là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là nguyên tắc "quyền lực - phục tùng" như trong các cơ quan nhà nước. + Trong quá trình hoạt động, tổ chức xã hội tự xử lý và giải quyết các công việc nội bộ của tổ chức mình. Nhà nước sẽ không can thiệp vào nếu hoạt động của các tổ chức xã hội không trái pháp luật. + Hoạt động của chúng trên nguyên tắc giáo dục thuyết phục và các biện pháp tác động xã hội, chứ không mang tính cưỡng chế nhà nước. Các tổ chức xã hội có thể áp dụng các biện pháp kỷ luật như cảnh cáo, khiển trách, cách chức, khai trừ ra khỏi tổ chức đối với những thành viên vi phạm điều lệ. Các tổ chức xã hội không được quyền sử dụng quyền lực nhà nước để truy cứu trách nhiệm kỷ luật đối với thành viên của tổ chức mình. Các tổ chức xã hội hoạt động có mục đích chung là giáo dục ý thức pháp luật cho các thành viên để họ sống và làm việc theo pháp luật. Đồng thời, hoạt động của các tổ chức xã hội còn nhằm đến mục đích là bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các thành viên trong tổ chức. Khi có những hành vi xâm hại tới quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong tổ chức hay những người lao động khác thì các tổ chức xã hội có thể tạo ra dư luận xã hội rộng rãi để phản đối những hành vi vi phạm đó, đồng thời yêu cầu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ, khôi phục lại những lợi ích mà các thành viên trong tổ chức hay người lao động đã bị xâm hại. Các tổ chức xã hội có thể làm kinh tế nhưng đây không phải là mục đích hoạt động chính của các tổ chức này. Có một số tổ chức xã hội được thành lập và hoạt động nhằm thoả mãn các nhu cầu về văn hóa- xã hội của các thành viên hoặc để tăng gia sản xuất. Các tổ chức xã hội cũng có thể làm kinh tế từ những hoạt động văn hóa thể thao, kinh doanh, tuy nhiên phải trên các nguyên tắc sau: Việc làm kinh tế không phải là mục đích hoạt động chính của các tổ chức này. Đây là đặc điểm cơ bản để phân biệt một tổ chức xã hội và một đơn vị kinh tế. Việc làm kinh tế trong phạm vi thứ yếu, hoàn toàn không ảnh hưởng, tác động đến mục đích, định hướng của tổ chức; Việc tham gia của cá nhân hơn một tổ chức xã hội thực hiện nguyên tắc: Việc tham gia của cá nhân vào một tổ chức này không làm hạn chế khả năng tham gia vào các tổ chức khác nếu các tổ chức đó đều hoạt động hợp pháp. Do vậy, một cá nhân có thể cùng lúc tham gia vào nhiều tổ chức với các tư cách khác nhau. Điều này phân biệt với việc tham gia vào tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Ví dụ: cán bộ công chức không thể làm một số công việc sau đây: Ví dụ 01: Cán bộ, công chức không được thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý điều hành các do

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docgiao_trinh_luat_hanh_chinh_viet_nam_phan_i_nhung_van_de_chun.doc