Giáo trình Luật đầu tư

Khái niệm đầu tư trong khoa học kinh tế được quan niệm là hoạt động sử

dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế, xã hội những kết quả

trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. Đầu

tư là những nhân tố không thể thiếu để xây dựng và phát triển kinh tế, là "chìa

khóa" của sự tăng trưởng kinh tế. Các nguồn lực được sử dụng để đầu tư có thể là

tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ. Trong cơ chế thị trường, hoạt

động đầu tư có thể do những chủ thể khác nhau (cá nhân, tổ chức) tiến hành và ngày

càng phong phú, đa dạng về cả tính chất và mục đích. Tuy vậy, mọi hoạt động đầu

tư suy cho cùng đều nhằm mang lại những lợi ích xác định. Những lợi ích đạt được

của đầu tư có thể là sự tăng thêm tài sản vật chất, tài sản trí tuệ hay nguồn nhân lực

cho xã hội. Kết quả đầu tư không chỉ là lợi ích trực tiếp cho nhà đầu tư mà còn

mang lại lợi ích cho nền kinh tế và toàn xã hội.

Dưới góc độ pháp lý, đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo các hình

thức và cách thức do pháp luật quy định để thực hiện hoạt động nhằm mục đích lợi

nhuận hoặc lợi ích kinh tế, xã hội khác. Hoạt động đầu tư có thể có tính chất kinh

doanh (thương mại) hoặc phi thương mại. Trong khoa học pháp lý cũng như thực

tiễn xây dựng chính sách, pháp luật về đầu tư, hoạt động đầu tư chủ yếu được đề

cập là đầu tư kinh doanh, với bản chất là "sự chi phí của cải vật chất nhằm mục đích

làm tăng giá trị tài sản hay tìm kiếm lợi nhuận".

pdf34 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 1584 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình Luật đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các nhà đầu tư trong quá trình tiến hành dự án đầu tư tại Việt Nam. Các biện pháp bảo đảm đầu tư bao gồm: Bảo đảm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của nhà đầu tư; bảo đảm đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư; bảo đảm cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư; bảo đảm việc chuyển lợi nhuận và thu nhập hợp pháp khác của nhà đầu tư ra nước ngoài; bảo đảm việc chuyển lợi nhuận và thu nhập hợp pháp khác của nhà đầu tư ra nước ngoài; bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư khi có những thay dổi bất thường của chính sách pháp luật và một số biện pháp bảo đảm đầu tư khác. 1.2. Cơ sở pháp lý để áp dụng những biện pháp bảo đảm đầu tư ở Việt Nam 1.2.1. Văn bản pháp luật trong nước Với vai trò là một trong những biện pháp nhằm thể hiện sự cố gắng trong hành trình thu hút vốn đầu tư của Nhà nước, các quy định cụ thể về các biện pháp bảo đảm đầu tư đã xuất hiện từ rất lâu trong các văn bản pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Có thể tìm thấy những quy định về bảo đảm đầu tư trong các bản hiến pháp qua các thời kì của nước cộng hoà xã hôi chủ nghĩa Việt Nam. Bản Hiến pháp hiện hành của Việt Nam ghi nhận và cam kết bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài trong quá trình dầu tư tại Việt Nam. Bên cạnh đó, các luật và các văn bản dưới luật cũng phát huy tinh thần của Hiến pháp về đảm bảo đầu tư. Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) năm 1998 quy định tại điều 6: “ Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tư, thu nhập các quyền và lợi ích hợp pháp khác của các nhà đầu tư tài sản và vốn đầu tư hợp pháp của nhà đầu tư không bị quốc hữu hoá không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính”. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 (sửa đổi năm 2000) cũng quy định tại điều 21: “ Trong quá trình hình thành đầu tư vào Việt Nam vốn và tài sản hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài không bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không bị quốc hữu hoá”. Những quy định này chính là những cam kết chắc chắn của Nhà nước Việt Nam đối với các nhà đầu tư trong nước cũng như ngoài nước. Các quy định này tạo nền tảng để xây dựng sự tin tưởng mà các nhà đầu tư dành cho nước tiếp nhận đầu tư. Luật đầu tư 2005 được Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 29/12/2005 thay thế cho Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996 (sử đổi bổ sung năm 2000) là Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998 (sửa đổi), về cơ bản vẫn giữ nguyên tinh thần của các cam kết bảo hộ đầu tư đối với các nhà đầu tư và các dự án đầu tư không phân biệt nguồn vốn đầu tư, quy mô, địa bàn và lĩnh vực đầu tư. Hầu hết các cam kết bảo hộ trước đây đều được luật đầu tư năm 2005 kế thừa tạo ra sự ổn định đồng bộ, nhất quán trong các quy định về bảo đảm đầu tư ở Việt Nam. Ngoài ra, trong các hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam tồn tại một số văn bản không trực tiếp điều chỉnh quan hệ đầu tư nhưng lại chứa đựng các quy định mang tinh thần của các biện pháp bảo đảm đầu tư ( ví dụ như Bộ luật dân sự và các văn bản pháp luật chuyên ngành khác). 1.2.2. Các điều ước quốc tế 27 Cùng với các biện pháp khuyến khích đầu tư các biện pháp bảo hộ đầu tư là một trong nhứng nội dung quan trọng của các thoả thuận quốc tế song phương và đa phương liên quan dến đầu tư. Thống nhất được về các biện pháp bảo dản đầu tư trong các điều ước quốc tế cũng có nghĩa là các quốc gia tham gia điều ước quốc tế để tiến hành bổ sung thêm vào các cam kết về bảo đảm đầu tư của pháp luật quốc gia một cách thức bảo hộ mới \. Thông thường các thoả thuận quốc tế này tập trung vào việc đặt ra một số nguyên tắc chung và bảo đảm đầu tư theo đó các nước thành viên phải tuân theo các biện pháp đầu tư chung này.Nguyên tắc đối xử quốc gia và nguyên tắc dói xử tối huệ quốc đối với các nhà đầu tư thuộc các nước có liên quan và cac dự án đầu tư của họ là các nguyên tắc thế hiện việc các quốc gia thành viên của một thoả thuận về cam kết bảo đảm đầu tư. Chính vì vậy, các điều ước là một trong những căn cứ không thể thiếu khi xác định cơ sở pháp lí để áp dụng các biện pháp đầu tư ở Việt Nam. Có thể tìm thấy những quy định cam kết về bảo đảm đầu tư ở một số hiệp định về đầu tư mà Việt Nam đã tham gia hoặc là thành viên mà điển hình là Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN kí tháng 10/1998 2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI BAN HÀNH CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ 2.1. Mối quan hệ giữa các biện pháp bảo đảm đầu tư và môi trường đầu tư Môi trường đầu tư là sự tổng hợp của rất nhiều yếu tố theo đó có thể chia các yếu tố này thành hai nhóm chính: nhóm các yếu tố khác quan và nhóm các yếu tố chủ quan.Pháp luật đầu tư cúng là một phần của môi trường đầu tư và yếu tồ này nằm trong nhóm các yếu tố chủ quan. Mỗi một quốc gia có một môi trường đầu tư riêng với những sắc thái đặc thù, tuy nhiên, bên cạnh sự khác nhau đó, hầu hết các quốc gia đều muốn phấn đấu tạo lập được môi trường đàu tư tốt, đủ sức thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.Xem xét mối tương quan giũa pháp luật đầu tư mà đầu tiên và diển hình là pháp luật về các biện pháp bảo đảm đầu tư có thể thấy các biện pháp này có một mối quan hệ chặt chẽ và biện chứng đối với môi trường đáu tư. Mối quan hệ này thể hiênh như sau: Thứ nhất, các biện pháp bảo đảm đầu tư góp phần không nhỏ tạo ra một môi trường đầu tư bình ổn. Đối với hầu hết các quốc gia, khi xây dựng hệ thống các biện pháp bảo đảm đầu tư, các nhà làm luật đều tập trung vào phát triển các biện pháp bảo đảm dựa trên một số tiêu chí như: Tính đơn giản, minh bạch trong các quy định và cách thức áp dụng chứng trong thực tế; tính công bằng trong tương quan so sánh với các nhà đầu tư khác nhau; tính hiệu quả đối với việc giảm bớt các chi phí về tài chính và thời gian của các nhà đầu tư. Thứ hai, việc cải tạo các biện pháp bảo đảm đầu tư đồng nghĩa với việc cải tạo môi trường đầu tư. Môi trường đầu tư là tổng hợp của rất nhiều yếu tố, trong đó có thể kể đến các yếu tố chính như: Điều kiện tự nhiên; điều kiện về nguồn nhân lực; điếu kiện về mức độ phát triển kinh tế xã hội; điều kiện liên quan đến sự thông thoáng, thuận lợi của pháp luật. Như vậy, khái niệm môi trường đầu tư của một quốc gia, một khu vực không chỉ được tạo lập bởi duy nhất các quy định của pháp luật đầu tư do quốc gia đó ban hành, tuy nhiên không thể phủ nhận được các quy định của pháp luật đầu tư đóng góp một phần không nhỏ tạo nên môi trường đầu tư. Trên thế giới hầu như các quốc gia đều ghi nhận một hoặc một số các biện pháp khuyến khích đầu tư trong các văn bản pháp luât về đầu tư. Hơn nữa các quốc gia có luật đầu tư hầu như các biện pháp bảo đảm đầu tư đều được xây dựng dựa trên 28 những chuẩn mực chung, tiêu chí chung, trong khi đó việc thiết kế nên các biện pháp khuyến khích đầu tư ở các nước khác nhau lại rất đa dạng và đặc thù. Chính vì vây, khi tiến hành đầu tư ở một môi trường đầu tư nhất định, các nhà đầu tư kì vọng các biện pháp khuyến khích đầu tư nhiều hơn là monh chờ đón nhận những biện pháp khuyến khích đầu tư nhiều hơn là mong chờ đón nhận những biện pháp bảo đảm đầu tư mới vì họ cho rằng các biện pháp bảo đảm đầu tư là các biện pháp đương nhiên phải tồn tại và tồn tại một cách khá tương đồng trong hệ thống pháp luật về đầu tư ở bất kì quốc gia nào. Tuy nhiên đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, có những giai đoạn, khoảng cách giữa việc quy định những biện pháp đầu tư trong các văn bản pháp luật và việc thực thi những biện pháp này trên thực tế còn khá xa 2.2. Vai trò của những biện pháp bảo đảm đầu tư 2.2.1. Góp phần tăng thu hút đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài Nhìn nhận các biện pháp bảo đảm đầu tư trong tương quan so sánh với môi trường đầu tư có thể nhận thấy rằng, hệ thống các biện pháp bảo đảm đầu tư tốt chính là một trong những yếu tố giúp Nhà nước có một môi trường đầu tư tốt. Tuyb nhiên việc đánh giá môi trường đầu tư của một quốc gia sẽ không có nhiều ý nghĩa nếu bỏ qua việc gắn với khả năng thu hút vốn đầu tư của môi trường đầu tư đó. Trên thực tế, môi trường đầu tư được đánh giá là tốt khi nó có khả năng thu hút vốn đầu tư mạnh mẽ và ngày càng tăng. Chính vì vậy, vai trò của các biện pháp bảo đảm đầu tư được phát huy khi chúng góp phần làm tăng sức hút các nguồn vốn của môi trường đầu tư. 2.2.2. Các biện pháp bảo đảm đầu tư là công cụ thể hiện rõ nét nhất đối với thái độ của Nhà nước đối với các nhà đầu tư và dự án của họ Một trong những quan ngại của các nhà đầu tư trước khi quyết định tiến hành đầu tư ở một quóc gia nhát định, đó là thái độ của chính quyền đối với hoạt động đầu tư. Ở khía cạnh này, trước đây, các nhà đầu tư chỉ có thể có câu trả lời bằng kinh nghiệm thực tế trọng hoạt động đầu tư của chính mình. Xét trên một phương diện nhất định, việc kiẻmr nghiệm này mang tính rủi ro rất cao, theo đóm nhà đầu tư có thể mất toàn bộ số tiền vốn đầu tư kinh doanh. Tuy nhiên, sự xuất hiện của các biện pháp bảo dảm đầu tư dã là một sự thể hiện chắc chắn và không thể phủ nhận được về thái độ của Nhà nước tiếp nhận đầu tư đối với các nhà đầu tư. Thông thường, mức độ mong chờ vốn đầu tư của một quốc gia tỷ lệ thuận với số lượng và chất lượng các biện pháp đảm bảo đầu tư mà quốc gia đó giành cho các nhà đầu tư. Như vậy, chỉ cần làm một so sánh số học nho nhỏ, các nhà đầu tư hoàn toàn có khả năng nắm bắt được thái độ của các quốc gia tiếp nhạn đầu tư đối với nguồn vốn đầu tư và dự án đầu tư cũng như bản thân các nhà đầu tư. Có thể nói, cùng với các biện pháp khuyến khích đầu tư, các biện pháp đảm bảo đầu tư chính là một trong những công cụ thể hiện thái độ của Nhà nước về mục đích thu hút vốn đầu tư và cungz chính điều này góp phần không nhỏ làm tăng niềm tin của các nhà đầu tư vào chính quyền của nước tiếp nhận đầu tư ngay kể từ khi các nhà đầu tư chưa tiến hành đầu tư trên thực tế. 2.2.3. Thể hiện được tính chất nhất quán giữa pháp luật về đầu tư và pháp luật chuyên nghành khác Các biện pháp đảm boả đầu tư thường bao gồm các biện pháp đảm bảo về tài sản và vốn hợp tác của cac nhà đầu tư; các biện pháp đảm bảo công bằng cho các 29 nhà đầu tư; các biện pháp đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các nhà đầu tư khi tiến hành thực hiện đầu tư dự án của mình. Trong khi đó, thể hiện được những triệt để những biện pháp trên, chỉ dùng các quy phạm pháp luật đầu tư thôi chưa đủ mà phải xem xét cả những pháp luật có liên quan. Như vậy, một khi pháp luật đầu tư ghi nhận các biện pháp đảm bảo dầu tư, để các biện pháp này có thể được thực thi trên thực tế nhằm bảo vệ một cách tối đa quyền lợi cho nhà đầu tư thì các quy phạm pháp luật của các nhà luật có liên quan khác cũng phải nhất quán với những biện pháp đảm bảo đầu tư đó. Ví dụ như, pháp luật đầu tư cam kết không trưng thu bằng biện pháp hành chính đối với tài sản đầu tư của các nhà đầu tư thì hệ quả là pháp luật hành chính cũng không thể có những quy định trái với cam kết đó; hoặc nếu pháp luật đầu tư cam kết đối xử công bằng đối với các nhà đầu tư thì ít nhất, pháp luật về thuế, pháp luật về đất đai, pháp luật về lao động cũng không thể không tuân thủ cam kết này. Thông qua phân tích trên đây, vai trò của những biện pháp đảm bảo đầu tư đã được thể hiện rõ. Những biện pháp này chính là sợi dây nối liền các quy phạm pháp luật với nhau trong một nỗ lực nhằm tạo diều kiện cho các biện pháp đảm bảo đầu tư được thực hiện trên thực tế. Qua đó, các quy phạm pháp luật khác nhau, ở những ngành luật khác nhau lại có tính chất nhất quán và có những liên hệ mật thiết nhất định. Ở tầm khái quát hơn, sự liên hệ nhất quán giữa các ngành luật thông qua các biện pháp đảm bảo dầu tư sẽ góp phần tạo nên mtj hệ thống pháp luật đồng bộ và thống nhất, thúc đẩy sự phát triển tất yếu của nền kinh tế - xã hội. 3. NỘI DUNG CÁC BIỆN PHÁP ĐẢM BẢO ĐẦU TƯ 3.1. Đảm bảo quyền sở hữu tài sản hợp pháp Đầu tư được hiểu là việc đưa khối tài sản nhất định để thực hiện công việc nhất định, vì vậy, một trong những vấn đề mà nhà đầu tư quan tâm nhất khi tiến hành đầu tư chính là quền sở hữu khối tài sản đã đưa vào đầu tư có luôn thuộc về mình hay không? (trừ các trường hợp rủi ro trong kinh doanh, chủ đầu tư phải dùng hết tài sản đầu tư để trả nợ). Nếu như câu hỏi này không trả lời một cách thích đáng, các nhà đầu tư sẽ khong lựa chọn tiến hành đầu tư để có thể bảo toàn được quyền sở hữu của mình đối với tài sản đó. Như vậy, để tạo lập lòng tin của các chủ đầu tư, trước hết, Nhà nước phải cam kết bảo đảm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của các nhà đầu tư. Điều 6 Luật đầu tư năm 2005 quy định: ”Vốn đầu tư và tài sản hợp pháp của nhà đầu tư hông bị quốc hữu hoá, không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính; trường hợp thật cần thiết, vì lí do quốc phòng, an ninh và lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua, trưng dụng tài sản của nhà đầu tư thì nhà đầu tư dược thanh toán hoặc bồi thường theo giá thị trường tại thời điểm công bố việc trưng mua, trưng dụng; việc thanh toán hoặc bồi thường phải đảm bảo lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư”. 3.2. Bảo đảm đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư Trước đây pháp luật đầu tư của Việt Nam phân loại các hoạt động đầu tư dựa trên tiêu chí nguồn vốn thành các hoạt động đầu tư trong nước và các hoạt động đầu tư nước ngoài, từ đó có những quy phạm pháp luật diều chỉnh riêng biệt đối với hai loại đầu tư này. Luật đầu tư năm 2005 với tinh thần thống nhất các hoạt động đầu tư để điều chỉnh đã xoá đi khoảng cách phân biệt giữa các hoạt động đầu tư với các nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Như vậy, một cách khái quát 30 nhất, Nhà nước Việt Nam đã xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư trong nước. Về cơ bản, theo quy định của pháp luật về đầu tư hiện hành ở Việt Nam, các biện pháp đảm bảo đâu tư, các biện pháp khuyến khích đầu tư, quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư đều được quy định chung cho các nhà đầu tư, không có sự khác biệt. Trong tương quan so sánh với các biện pháp khuyến khích đầu tư Nhà nước đảm bảo các nhà đầu tư đều được hưởng một chế độ ưu đãi đầu tư, hôc trợ đầu tư như nhau và chỉ dựa trên tiêu chí lĩnh vực, địa bàn đầu tư chứ không dựa trên tiêu chí nguồn gốc vốn đầu tư hoặc quốc tịch của nhà đầu tư. Ví dụ như điều 10 luật đầu tư 2005. Bên cạnh đó một sô hiệp định về đầu tư mà Việt Nam có tham gia cũng quy định rất rõ về các biện pháp bảo đảm đầu tư thông qua việc không phân biệt đối xử giũa các nhà đầu tư. The hiệp định AIA ( Hiệp định khung khu vực đầu tư ASEAN) các nguyên tắc này được quy định như sau: - Nguyên tắc đối xử quốc gia yêu cầu đối xử thống nhất và bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giũa các nhà đầu tu trong nước và nước ngoài trong tất cả các lĩnh vực, các ngành nghề. Điều 7 khoản 1 điểm b quy định: “ Dành ngay lập tức cho các nhà đầu tư ASEAN và đầu tư của họ, đối với tất cả các ngành nghề và các biện pháp có tác động tới các đầu tư đó, bao gồm, nhưng không chỉ giới hạn ở việc tiếp nhận, thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản lý, vận hành và định đoạt đầu tư, sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các nhà đầu tư và đầu tư tương tự của nước mình ("đối xử quốc gia").” - Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc yêu cầu một quốc gia thành viên AIA phải có sự đối xử thống nhất và bình đẳng đối với các nhà đầu tư và đầu tư nước ngoài của các nước ASEAN. Theo khoản 1 Điều 8 Hiệp định đầu tư AIA thì “mỗi Quốc gia thành viên sẽ dành ngay lập tức và vô điều kiện cho các nhà đầu tư và đầu tư của Quốc gia thành viên khác, sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các nhà đầu tư và đầu tư của bất kỳ Quốc gia thành viên nào khác đối với tất cả các biện pháp có tác động đến đầu tư, bao gồm, nhưng không chỉ giới hạn ở việc tiếp nhận, thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản lý, vận hành và định đoạt đầu tư.” Việt Nam với tư cách là thành viên của Hiệp định AIA cam kết bảo hộ đầu tư cho nhà đầu tư theo các nguyên tắc không phân biệt đối xử như nói ở trên. 3.3. Bảo đảm cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư Sự bảo đảm của Nhà nước đối với các hoạt động đầu tư không thể bao gồm sự đảm bảo về việc sẽ không có tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện dự án đầu tư. Tuy nhiên, ở một khía cạnh liên quan, Nhà nước có thể đảm bảo cho các nhà đầu tư một cơ chế giải quyết tranh chấp phù hợp với thông lệ quốc tế, đề cao quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư, đủ độ tin cậy cũng như độ an toàn về mặt thực thi các quyết định trong giải quyết tranh chấp đầu tư. Luật đầu tư năm 2005 đã đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp áp dụng chung cho tất cả các nhà đầu tư không phân biệt quốc tịch. Cơ chế này được xây dựng trên nguyên tắc bảo đảm quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư. Theo đó, khi xảy ra tranh chấp liên quan tới đầu tư các nhà đầu tư có thể lựa chọn rất nhiều cách thức để giải quyết bao gồm thương lượng, hoà giải, trọng tài hoạc toà án (khoản 1 điều 12). Sự khác biệt giữa các chủ thể tranh chấp cũng dẫn đến ự khác biệt về cơ quan giải quyết tranh chấp cụ thể khoản 2,3,4 điều 12 31 - Tranh chấp giữa các nhà đầu tư trong nước với nhau hoặc với cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua Trọng tài hoặc Toà án Việt Nam. - Tranh chấp mà một bên là nhà đầu tư nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc tranh chấp giữa các nhà đầu tư nước ngoài với nhau được giải quyết thông qua một trong những cơ quan, tổ chức sau đây: Toà án Việt Nam; Trọng tài Việt Nam ;Trọng tài nước ngoài; Trọng tài quốc tế;Trọng tài do các bên tranh chấp thoả thuận thành lập. - Tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam liên quan đến hoạt động đầu tư trên lãnh thổ Việt Nam được giải quyết thông qua Trọng tài hoặc Toà án Việt Nam, trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong hợp đồng được ký giữa đại diện cơ quan nhà nước có thẩm quyền với nhà đầu tư nước ngoài hoặc trong điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Bên cạnh việc quy định rõ ràng về phương thưc và cơ quan giải quyết tranh chấp, pháp luật Việt Nam còn quy định cụ thể về thẩm quyền giải quyết của các cơ quan giải quyết tranh chấp của Việt Nam. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, tại Điều 29, 34 đã quy định rõ thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết tranh chấp liên quan đến đầu tư, thương mại; Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 quy định về hai hình thưc trọng tài ( quy chế và vụ việc) cùng với cách xác định thẩm quyền của các hình thức trọng tài này. Có thể khẳng định nhà nước Việt Nam đã đưa ra được cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các bên trong quan hệ đầu tư khá hoàn chỉnh và phù hợp với thông lệ quốc tế. 3.4. Bảo đảm việc chuyển lợi nhuận và thu nhập hợp pháp khác của nhà đầu tư ra nước ngoài Luật đầu tư năm 2005 không cấm các nhà đầu tư nước ngoài người nước ngoài làm việc tại Việt Namcho các dự án đầu tư chuyển vốn và tài sản hợp pháp khác ra nước ngoài. Điều 9 quy định những khoản hợp pháp được chuyển ra nước ngoài bao gồm: - Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh; - Những khoản tiền trả cho việc cung cấp kỹ thuật, dịch vụ, sở hữu trí tuệ; - Tiền gốc và lãi các khoản vay nước ngoài; - Vốn đầu tư, các khoản thanh lý đầu tư; - Các khoản tiền và tài sản khác thuộc sở hữu hợp pháp của nhà đầu tư. - Thu nhập hợp pháp của Người lao động nước ngoài làm việc cho các dự án đầu tư. 32 Trước đây, theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1996 sử đổi năm 2000 và Luật khuyến khích đầu tư trong nước năm 1998 thì việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của các nhà đầu tư vẫn được tiến hành tuy nhiên khi thực hiện chuyển lợi nhuân, các nhà đầu tư đều phải nộp một khoản thuế gọi là thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài.Tuy nhiên việc quy định thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài có những bất cập mà một trong những bất cập đó là đánh thuế trùng lặp trên một đối tượng chịu thuế. Vì vậy, pháp luật Việt Nam hiện hành về thuế cũng như đầu tư đã thống nhất bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng ủa nhà đầu tư. 3.5. Bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư khi có những thay đổi về chính sách, pháp luật Theo tinh thần của Điều 11 Luật đầu tư 2005 trong mọi trường hợp nếu có sự thay đổi về chính sách hay pháp luật của nhà nước Việt Nam liên quan trực tiếp đến quyền lợi của các nhà đầu tư thì nguyên tắc duy nhất được thực hiện là cam kết bảo đảm tối đa quyền lợi của các nhà đàu tư. Việc đảm bảo cụ thể như sau: 1. Trường hợp pháp luật, chính sách mới được ban hành có các quyền lợi và ưu đãi cao hơn so với quyền lợi, ưu đãi mà nhà đầu tư đã được hưởng trước đó thì nhà đầu tư được hưởng các quyền lợi, ưu đãi theo quy định mới kể từ ngày pháp luật, chính sách mới đó có hiệu lực. 2. Trường hợp pháp luật, chính sách mới ban hành làm ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích hợp pháp mà nhà đầu tư đã được hưởng trước khi quy định của pháp luật, chính sách đó có hiệu lực thì nhà đầu tư được bảo đảm hưởng các ưu đãi như quy định tại Giấy chứng nhận đầu tư hoặc được giải quyết bằng một, một số hoặc các biện pháp sau đây: a) Tiếp tục hưởng các quyền lợi, ưu đãi; b) Được trừ thiệt hại vào thu nhập chịu thuế; c) Được điều chỉnh mục tiêu hoạt động của dự án; d) Được xem xét bồi thường trong một số trường hợp cần thiết. 6. Những biện pháp bảo đảm đầu tư khác Cũng tồn tại với các biện pháp bảo đảm đầu tư kể trên, một sô biện pháp có tính chất hỗ trợ đầu tư cũng được nhà nước Việt Nam cam kết thực hiện. Những biện pháp đó bao gồm: Việc cam kết bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; cam kết mở của thị trường đầu tư liên quan đến thương mại. Cụ thểv trong luật đầu tư 2005 như sau: - Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong hoạt động đầu tư; bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong việc chuyển giao công nghệ tại Việt Nam theo 33 quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ và các quy định khác của pháp luật có liên quan. ( điều 7) - Để phù hợp với các quy định trong các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, Nhà nước bảo đảm thực hiện đối với nhà đầu tư nước ngoài các quy định sau đây:Mở cửa thị trường đầu tư phù hợp với lộ trình đã cam kết; Không bắt buộc nhà đầu tư phải thực hiện các yêu cầu sau đây:Ưu tiên mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ trong nước hoặc phải mua hàng hóa, dịch vụ từ nhà sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ nhất định trong nước;Xuất khẩu hàng hóa hoặc xuất khẩu dịch vụ đạt một tỷ lệ nhất định; hạn chế số lượng, giá trị, loại hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu hoặc sản xuất, cung ứng trong nước; Nhập khẩu hàng hóa với số lượng và giá trị tương ứng với số lượng và giá trị hàng hóa xuất khẩu hoặc phải tự cân đối ngoại tệ từ nguồn xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu; Đạt được tỷ lệ nội địa hóa nhất định trong hàng hóa sản xuất; Đạt được một mức độ nhất định hoặc giá trị nhất định trong hoạt động nghiên cứu và phát triển ở trong nước; Cung cấp hàng hóa, dịch vụ tại một địa điểm cụ thể ở trong nước hoặc nước ngoài;Đặt trụ sở chính tại một địa điểm cụ thể. ( Điều 8) Như vậy bên cạnh cam kết không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, nhà nước Việt Nam còn cam kết thực hiện đúng trách nhiệm, nghĩa vụ trong các thoả thuận của mình về việc tiến hành mở cửa thị trường tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các nhà đầu tư trong quá trình đầu tư tại Việt Nam. B. CÁC BIỆN PHÁP KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ 1.1. Khái niệm biện pháp khuyến khích đầu tư Dưới góc độ pháp lý, khuyến khích đầu tư được coi là một trong những biện pháp thu hút vốn đàu tư có hiệu quả. Các biện pháp khuyến khích đầu tư được hiểu là tất cả những quy định do nhà nước ban hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi hoặc tạo ra những lợi ích nhất định cho các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoàikhi tiến hành đầu tư vào nền kinh tế, trên cơ sở kết hợp hài hoà giũa lợi ích cảu nhà nước, củ nền kinh tế và nhà đầu tư. Theo luật đầu tư 2005 các biện pháp khuyến khích đầu tư bao gồm các biện pháp ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư. Luật đầu tư năm 2005 đã thể hiện tư tưởng thống nhất mới về các hoạt động đầu tư. Tất cả các dự án đầu tư đều chịu sự điều chỉnh của Luật đầu tư chung, trong đó, các dự án này đều được hưởng các biện pháp khuyến khích đầu tư như nhau nếu đó là dự án đầu tư có mục đích kinh doanh do các chủ đầu tư tiến hành đầu tư tại Việt Nam hoặc đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài. Luật đầu tư Việt Nam lấy tiêu chí lĩnh vực đầu tư và địa bàn đầu tư là những tiêu chí cơ bản để áp dụng các biện pháp khuyến khích đầu tư. Trên cơ sở xác định lĩnh vực và địa bàn đầu tư của từng dự án mà xác định các ưu đãi cũng như hỗ trợ đầu tư cụ thể. Cá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgtkl0028_p1_2643.pdf
Tài liệu liên quan