Giáo trình kỹ thuật xây dựngvăn bản pháp luật

Kỹ thuật soạn thảo văn bản pháp luật là môn khoa học có tính ứng

dụng cao nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản được sắp xếp từ những lý

luận chung nhất đến những kiến thức cụ thể về quá trình hình thành văn bản

pháp luật bao gồm: quy định về thẩm quyền ban hành văn bản pháp luật; về

cách thức trình bày hình thức, nội dung; trình tự, thủ tục ban hành văn bản

pháp luật, cách thức diễn đạt ngôn ngữ và phân chia, sắp xếp nội dung văn

bản pháp luật do các chủ thể ban hành; về kiểm tra và xử lí văn bản pháp

luật khiếm khuyết. là cơ sở để vận dụng soạn thảo văn bản hoàn chỉnh giải

quyết công việc phát sinh trên thực tế, điều chỉnh các quan hệ xã hội. Ngoài

ra môn học còn trang bị những kiến thức cơ bản về việc soạn thảo từng loại

văn bản pháp luật cụ thể như: luật, pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông

tư, chỉ thị, nghị quyết, công văn, công điện.

pdf108 trang | Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 790 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình kỹ thuật xây dựngvăn bản pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m là thành viên. Kỹ thuật soạn thảo văn bản. - Còn hoạt động thẩm tra xem xét các vấn đề sau: Tính hợp pháp, hợp lý, tính thống nhất của văn bản. Sự phù hợp của dự thảo với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng Tính khả thi của dự thảo bao gồm sự phù hợp giữa quy định của dự thảo văn bản với yêu cầu thực tế, trình độ phát triển của xã hội và điều kiện bảo đảm thực hiện. Về phương thức thực hiện (tuỳ từng trường hợp): Dự thảo có thể được thẩm định, thẩm tra một hoặc nhiều lần trong quá trình văn bản được soạn thảo; Việc thẩm định có thể do một hoặc nhiều cơ quan cùng thực hiện. Cơ quan chủ trì soạn thảo phải chuẩn bị hồ sơ thẩm định, thẩm tra bằng văn bản. Quy trình thẩm định dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật do Bộ Tư pháp thực hiện. Quy trình thẩm định, thẩm tra dự thảo văn bản quy phạm pháp luật sẽ hoàn tất khi có báo cáo thẩm định, thẩm tra của cơ quan có thẩm quyền. Trên thực tế, báo cáo thẩm định, thẩm tra là một trong những cơ sở để cơ quan có thẩm quyển xem xét việc thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. 1.3.5. Trình, thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật 79 Sau khi dự thảo được hoàn thiện về nội dung, kết cấu(đã có báo cáo thẩm tra, thẩm định) Ban soạn thảo phải có văn bản trình dự thảo, sau đó gửi hồ sơ dự thảo đến cơ quan ban hành để xem xét thông qua dự thảo. Văn bản quy phạm pháp luật thường được trình bởi chủ thể có thẩm quyền. Người trình dự thảo văn bản có thể là người trực tiếp soạn thảo văn bản, cũng có thể không phải là người soạn thảo văn bản. Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có thể được trình trực tiếp hoặc trình bằng văn bản. Tùy theo tính chất và nội dung của từng dự thảo văn bản quy phạm pháp luật để chủ thể xem xét cách thức thông qua văn bản đó. Thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật là hoạt động được tiến hành sau khi cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản nhận được dự thảo văn bản. Việc xem xét để thông qua dự thảo văn bản quy phạm pháp luật có thể được tiến hành một hoặc nhiều lần tuỳ thuộc vào mức độ hoàn thiện, mục đích, tính chất và nội dung của dự thảo. Hơn nữa, việc thông qua dự thảo được tiến hành theo những cách thức, thủ tục khác nhau, tùy thuộc vào cơ cấu tổ chức và hoạt động của cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đối với các dự thảo văn bản đạt chất lượng, cơ quan ban hành văn bản tiến hành thảo luận, chỉnh lý và thông qua dự thảo theo quy định của pháp luật. Đối với các dự thảo văn bản không đạt chất lượng, dự thảo văn bản được trả lại cơ quan soạn thảo để chỉnh sửa và tiếp tục hoàn thiện. - Thủ tục thông qua dự thảo văn bản được tiến hành tuỳ thuộc vào cơ cấu tổ chức và hoạt động của cơ quan ban hành văn bản. 80 Nếu cơ quan ban hành văn bản có tổ chức và hoạt động theo chế độ thủ trưởng cá nhân thì người đứng đầu cơ quan có quyền xem xét và thông qua dự thảo. Nếu cơ quan ban hành văn bản có tổ chức và hoạt động theo chế độ thủ trưởng tập thể thì việc xem xét, thông qua dự thảo văn bản được tiến hành theo hình thức thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. 1.3.6. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật là thủ tục cuối cùng của quy trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Đây là hoạt động có vai trò chuyển tiếp trong việc điều chỉnh pháp luật từ khâu xây dựng văn bản đến khâu thực hiện văn bản và áp dụng pháp luật. Hoạt động này được ghi nhận bằng việc công bố văn bản theo những hình thức khác nhau đối với mỗi loại văn bản quy phạm pháp luật. Việc công bố văn bản quy phạm pháp luật là cơ chế hữu hiệu bảo đảm tính công khai, minh bạch của pháp luật. Hoạt động ban hành văn bản được thực hiện bằng những cách thức khác nhau theo quy định của pháp luật như: đăng công báo, đăng toàn văn trên các báo hoặc đưa tin trên các phương tiện thông tin đại chúng khác, niêm yết tại trụ sở cơ quan ban hành hoặc tại những nơi do chính quyền quy định, gửi trực tiếp hoặc qua internet tới đối tượng có nghĩa vụ thực hiện 1.3.7. Đánh giá tác động của văn bản quy phạm pháp luật Văn bản quy phạm pháp luật sau khi được ban hành có hiệu lực và áp dụng trong đời sống xã hội có mức độ và phạm vi ảnh hưởng khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Tuy nhiên, một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc tới đối tượng chịu sự tác động của văn bản xuất 81 phát từ chất lượng mỗi quy phạm pháp luật chứa đựng trong văn bản đó. Chính vì vậy, sau khi văn bản quy phạm pháp luật được ban hành, cơ quan có thẩm quyền, đặc biệt là chủ thể ban hành văn bản cần phải đánh giá tác động trong quá trình thực hiện văn bản quy phạm pháp luật để xem xét nội dung văn bản có phù hợp với điều kiện khách quan của đời sống xã hội hay không, có đáp ứng được những yêu cầu do đời sống xã hội đặt ra hay không. Khi đánh giá cần bảo đảm được tính khoa học, việc đánh giá tác động của văn bản quy phạm pháp luật giúp cơ quan nhà nước có thể phát hiện ra những điểm chồng chéo, mâu thuẫn hoặc không phù hợp trong các văn bản quy phạm pháp luật góp phần nâng cao chất lượng, hiệu lực và hiệu quả của công tác xây dựng pháp luật. Thông thường quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu được thực hiện qua các bước theo thủ tục đầy đủ. Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn cấp hoặc cần sửa đổi ngay, bảo đảm sự phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành thì chủ thể ban hành văn bản áp dụng thủ tục rút gọn. Đối với thủ tục rút gọn không có bước lập chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Thủ tục rút gọn trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật được pháp luật quy định như sau: Cơ quan chủ trì soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật có thể thành lập ban soạn thảo và tổ biên tập để soạn thảo nhưng cũng có thể trực tiếp tổ chức việc soạn thảo. Cơ quan chủ trì soạn thảo có thể lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức cá nhân liên quan về dự thảo. Cơ quan thẩm định có trách nhiệm thẩm tra, thẩm định dự thảo văn bản ngay sau khi nhận được hồ sơ thẩm tra, thẩm định. Ngoài ra, các hoạt động khác được tiến hành tương tự như trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật theo thủ tục đầy đủ. 82 2. CÁCH THỨC SOẠN THẢO VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành hoặc phối hợp ban hành theo thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục luật định trong đó có quy tắc xử sự chung, có hiệu lực bắt buộc chung, được Nhà nước bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Các văn bản quy phạm pháp luật bao gồm: hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết, nghị định, quyết định, chỉ thịmỗi văn bản có vai trò, quy trình xây dựng, kết cấu khác nhau. Hầu hết các văn bản này đều là văn bản có kết cấu điều, khoản. Còn một số nghị quyết, chỉ thị là văn bản có kết cấu nghị luận17 Mặc dù vậy, bố cục của văn bản quy phạm pháp luật nào cũng bao gồm hai phần: Phần hình thức và phần nội dung. Thông thường, kết cấu phần nội dung của văn bản quy phạm pháp luật với cách thức sắp xếp đi từ khái quát đến những quy định cụ thể như sau: Chương I. Những quy định chung Điều 1. Phạm vi điều chỉnh Điều 2. Đối tượng áp dụng Điều 3. Giải thích từ ngữ Điều 4. Quy phạm về nguyên tắc Chương II. 17 Soạn thảo nội dung của văn bản có kết cấu nghị luận – xem phần II chương IV 83 Từ chương này trở đi quy định về nội dung mà văn bản hướng tới để điều chỉnh quan hệ xã hội bằng cách đưa ra các quy tắc xử sự tùy thuộc vào từng lĩnh vực cụ thể. Cách thức xác lập phần nội dung này theo nguyên tắc đi từ quan trọng đến ít quan trọng (giảm dần về tính chất tác động của vấn đề). Tuy nhiên, trừ trường hợp văn bản quy phạm pháp luật quy định về thủ tục như các luật về tố tụng thì xác lập theo trình tự diễn biến của vấn đề. Chương cuối. bao gồm điều khoản thi hành hoặc điều, khoản cuối cùng hoặc khen thưởng và xử lí kỷ luật. Văn bản quy phạm pháp luật có kết cấu điều, khoản có thể bao gồm chương, mục, điều, khoản, điểm. Ví dụ: Nội dung của Nghị định số 34/2010/NĐ-CP, ngày 02.4/2010 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ Chương I NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG Điều 1. Phạm vi điều chỉnh Điều 2. Đối tượng áp dụng Điều 3. Giải thích từ ngữ Điều 4. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính . Chương II. HÀNH VI VI PHẠM HÀNH CHÍNH, HÌNH THỨC VÀ MỨC XỬ PHẠT Mục 1 VI PHẠM QUY TẮC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Điều 8. Xử phạt người điều khiển, người ngồi trên xe ô tô và các loại xe tương tự ô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ 84 Điều 9. Xử phạt người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy vi phạm quy tắc giao thông đường bộ . Mục 2 VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ KẾT CẤU HẠ TẦNG GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Điều 15. Xử phạt cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm về sử dụng, khai thác trong phạm vi đất dành cho đường bộ ... Mục 3 VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ PHƯƠNG TIỆN THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ Điều 19. Xử phạt người điều khiển xe ô tô và các loại xe tương tự ô tô vi phạm quy định về điều kiện của phương tiện khi tham gia giao thông . Chương III. THẨM QUYỀN, THỦ TỤC XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH Mục 1 THẨM QUYỀN XỬ PHẠT Điều 47. Phân định thẩm quyền xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ 1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Trưởng Công an các cấp (trừ Trưởng Công an cấp xã) có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định tại Nghị định này trong phạm vi quản lý của địa phương mình. 85 2. Cảnh sát giao thông đường bộ có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ của người và phương tiện tham gia giao thông trên đường bộ được quy định trong Nghị định này. 3. Cảnh sát trật tự, Cảnh sát phản ứng nhanh, Cảnh sát cơ động, Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội, Trưởng Công an cấp xã trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao có liên quan đến trật tự an toàn giao thông đường bộ có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm quy định tại các điểm, khoản, điều của Nghị định này như sau: a) Điểm đ, điểm e, điểm g, điểm l khoản 1; điểm g, điểm h, điểm m khoản 2; điểm b, điểm d, điểm h khoản 3; điểm a, điểm b, điểm đ, điểm h khoản 4; điểm b khoản 5; điểm b, điểm c khoản 6; khoản 7; khoản 8 Điều 8; b) Điểm g, điểm h khoản 1; điểm b, điểm d, điểm đ, điểm i khoản 2; điểm đ, điểm e, điểm h, điểm i, điểm k khoản 3; điểm đ, điểm g, điểm i khoản 4; điểm b, điểm d khoản 5; điểm b khoản 6; khoản 7; khoản 8 Điều 9; Chương IV ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH Điều 57. Hiệu lực thi hành Điều 58. Trách nhiệm thi hành Ví dụ: Đối với Bộ luật tố tụng hình sự thì không thể xác lập bằng cách thức trên mà phải xây dựng nội dung văn bản theo quy trình tố tụng như đi từ quy định từ điều tra đến xét xử. Thủ tục xét xử được quy định từ sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm. Kết cấu nội dung của một văn bản quy phạm pháp luật bao gồm 3 phần: phần mở đầu (cơ sở ban hành), phần nội dung chính và kết thúc (hiệu lực pháp lí). 86 2.1. Soạn thảo phần mở đầu (cơ sở ban hành) của văn bản quy phạm pháp luật Phần phần mở đầu hay còn gọi là cơ sở ban hành văn bản quy phạm pháp luật là bộ phận cấu thành nội dung của văn bản có vai trò liên kết giữa hình thức và nội dung của văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời bảo đảm cho văn bản quy phạm pháp luật ban hành hợp pháp và hợp lý Cơ sở ban hành của văn bản quy phạm pháp luật được xác lập bởi cơ sở pháp lý và cơ sở thực tiễn. 2.1.1. Soạn thảo phần cơ sở pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật Cơ sở pháp lí của văn bản quy phạm pháp luật là những chuẩn mực pháp luật được quy định trong các văn bản liên quan, là căn cứ để dự thảo văn bản ban hành đảm bảo tính hợp pháp. Để xác lập phần cơ sở pháp lí cho dự thảo một cách khoa học cần xuất phát từ mục đích, ý nghĩa của việc lựa chọn văn bản dùng để viện dẫn đảm bảo yếu tố hợp pháp trong nội dung các văn bản pháp luật. Những văn bản đóng vai trò là cơ sở pháp lí cho dự thảo văn bản quy phạm pháp luật là những văn bản mang tính quyền lực nhà nước và phải thỏa mãn các yêu cầu sau: - Cơ sở pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật luôn luôn là văn bản quy phạm pháp luật mà không thể là văn bản áp dụng pháp luật. - Cơ sở pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật phải là những văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lí cao hơn dự thảo, mà không thể là văn bản có hiệu lực pháp lí ngang bằng hay thấp hơn hiệu lực pháp lí của văn bản đang soạn thảo. 87 - Cơ sở pháp lý của văn bản quy phạm pháp luật là văn bản đang có hiệu lực pháp lý vào thời điểm văn bản đó được ban hành. - Cơ sở pháp lí của văn bản quy phạm pháp luật là văn bản có nội dung liên quan trực tiếp tới chủ đề của dự thảo. Sau khi người soạn thảo lựa chọn được các văn bản quy phạm pháp luật đóng vai trò là cơ sở pháp lí cho dự thảo thì sắp xếp theo thứ tự: Nhóm thứ nhất: Viện dẫn văn bản quy phạm pháp luật quy định trực tiếp thẩm quyền của chủ thể ban hành. Muốn xác lập một cách chính xác cơ sở pháp lí của một văn bản quy phạm pháp luật, trước hết cần xác định rõ phạm vi thẩm quyền giải quyết công việc của chủ thể ban hành văn bản. Tức là chủ thể đó được ban hành văn bản để giải quyết những công việc trong phạm vi thẩm quyền được pháp luật quy định. Thẩm quyền của chủ thể ban hành văn bản quy phạm pháp luật được quy định trong các đạo luật về tổ chức bộ máy, hai luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản quy phạm pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của các chủ thể. Ví dụ: Khi xác lập phần cơ sở pháp lí trong Nghị định của Chính phủ ban hành về xử lí vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ người soạn thảo phải lựa chọn văn bản quy phạm pháp luật quy định về thẩm quyền của chủ thể ban hành là Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001. Luật này đã quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để giải quyết những vấn đề thuộc chức năng quản lí nhà nước ở trung ương. Trong khi đó, Hiến pháp, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 cũng quy định thẩm quyền 88 ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, nhưng Luật Tổ chức Chính phủ mới là văn bản quy định trực tiếp. Như vậy, văn bản đầu tiên làm cơ sở để ban hành văn bản quy phạm pháp luật nhất thiết phải là văn bản quy phạm pháp luật quy định về thẩm quyền của chủ thể ban hành trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể. Sự có mặt của những văn bản này và vai trò của nó là bảo đảm chứng minh cho việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật đúng thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Nhóm thứ hai: Viện dẫn văn bản quy phạm pháp luật quy định trực tiếp việc xác lập nội dung văn bản đang soạn thảo. Trên thực tế các văn bản pháp luật thường không tồn tại biệt lập mà giữa chúng luôn có mối liên hệ mật thiết với những văn bản pháp luật khác trong cùng hệ thống. Vì vậy, với vai trò là cơ sở pháp lí của dự thảo, các văn bản có nội dung liên quan trực tiếp đến dự thảo thường được viện dẫn với ý nghĩa đảm bảo cho văn bản được ban hành một cách hợp pháp và thống nhất. Khi xem xét để lựa chọn văn bản làm cơ sở pháp lí cần tập trung vào văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng nội dung liên quan trực tiếp đến chủ đề của văn bản đang soạn thảo. Ví dụ: Nhóm văn bản thứ có nội dung liên quan đến chủ đề của dự thảo được viện dẫn làm cơ sở pháp lí cho Nghị định của Chính phủ ban hành về việc xử lí vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ là Luật Giao thông đường bộ năm 2008. Ngoài ra, trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật, việc viện dẫn văn bản có nội dung liên quan đến nội dung dự thảo thường không đặt ra quy định cho việc lựa chọn một hay một số văn bản. Vì vậy 89 trong nhiều trường hợp, phần cơ sở pháp lí của dự thảo không chỉ đề cập một văn bản có nội dung liên quan mà thậm chí phải viện dẫn nhiều văn bản liên quan. Tuy nhiên, văn bản được lựa chọn để viện dẫn nhất thiết phải là văn bản điển hình chứa đựng nội dung trực tiếp liên quan đến chủ đề dự thảo. Trên thực tế, phần cơ sở pháp lí có nội dung liên quan thường được xác lập theo một trong hai trường hợp sau đây: + Trường hợp 1: chỉ viện dẫn một văn bản liên quan trực tiếp đến nội dung văn bản được soạn thảo. Ví dụ: Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25/12/2001; Căn cứ Luật Giao thông đường bộ ngày 13/11/2008; + Trường hợp 2: viện dẫn nhiều văn bản có nội dung liên quan đến chủ đề được đề cập trong dự thảo văn bản. Ví dụ: Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25/12/200; Căn cứ Luật Giao thông đường bộ ngày 13/11/2008; Căn cứ Pháp lệnh xử lí vi phạm hành chính ngày 02/7/2002, sửa đổi, bổ sung năm 2008; Cách thức soạn thảo: Đối với văn bản quy phạm pháp luật khi viện dẫn những văn bản đóng vai trò là cơ sở pháp lí, người soạn thảo trình bày theo “công thức” có sẵn. Cách này được gọi là “công thức hoá” phần cơ sở pháp lý. Đó là việc sử dụng bắt đầu bằng từ “Căn cứ” sau đó là văn bản được viện dẫn làm cơ sở pháp lí cho dự thảo. Nếu có nhiều văn bản liên quan đến dự thảo thì phần cơ sở pháp lý được trình bày bằng nhiều “căn cứ” khác nhau. Sau mỗi một văn bản được viện dẫn người soạn thảo sử dụng dấu “;” (dấy chấm phẩy) để liệt kê. 90 Hiện nay, pháp luật không có các quy định về việc xác định các yếu tố cần ghi nhận khi việc dẫn văn bản. Nhưng khi viện dẫn văn bản quy phạm pháp luật với vai trò là cơ sở pháp lý cho dự thảo thường ghi nhận kèm theo các yếu tố có liên quan như: Tên loại văn bản, số, ký hiệu văn bản, năm ban hành, cơ quan ban hành văn bản, thời gian ban hành hoặc thời gian thông qua văn bản, trích yếu văn bản nhằm cá biệt hoá văn bản giúp người đọc biết chính xác văn bản được viện dẫn. Về cách thức trình bày phần cơ sở pháp lí của những văn bản quy phạm pháp luật theo kết cấu điều khoản, người soạn thảo cần lưu ý nên sử dụng phương pháp lặp. Tức là mỗi văn bản quy phạm pháp luật sẽ được viện dẫn sau một từ “căn cứ” mà không nên viết một từ “căn cứ” chung sau đó xuống dòng liệt kê tên văn bản được viện dẫn. Cách xác lập này được sử dụng đối với một số loại văn bản như: Luật, pháp lệnh, nghị định, thông tư, nghị quyết, quyết định. 2.1.2. Soạn thảo phần cơ sở thực tiễn của văn bản quy phạm pháp luật . Nếu như cơ sở pháp lí đảm bảo tính hợp pháp cho dự thảo văn bản quy phạm pháp luật cần ban hành thì cơ sở thực tiễn có ý nghĩa cung cấp thông tin thực tế cần thiết làm tiền đề phát sinh nội dung chính của văn bản, đảm bảo cho văn bản ban hành có tính hợp lí. Cơ sở thực tiễn của văn bản quy phạm pháp luật thường được xác lập từ nhu cầu điều chỉnh pháp luật của các quan hệ xã hội, hoặc những hoạt động diễn ra trong đời sống có liên quan đến chủ đề văn bản Cơ sở thực tiễn của văn bản quy phạm pháp luật là bộ phận cấu thành của cơ sở ban hành, bao gồm các văn bản không mang tính quyền lực nhà 91 nước, nhưng có ý nghĩa là các quy phạm đường lối mà dự thảo có nhiệm vụ thể chế hoá thành pháp luật. Ngoài ra, cơ sở thực tiễn của văn bản quy phạm pháp luật còn là các văn bản liên quan đến nội dung dự thảo mà theo đó làm phát sinh những vấn đề văn bản giải quyết như: văn bản đề nghị của các cơ quan chức năng có hoạt động liên quan đến việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật, cụ thể là cơ quan soạn thảo văn bản hoặc cơ quan có chức năng nhiệm vụ liên quan đến lĩnh vực mà văn bản điều chỉnh. Cơ sở thực tiễn của văn bản quy phạm pháp luật thường được xác lập bao gồm các nội dung: - Văn bản đề nghị của cơ quan liên quan đến vấn đề được nêu trong dự thảo văn bản. - Hành vi đề nghị của cơ quan soạn thảo hoặc cơ quan thẩm định văn bản để chứng minh văn bản được ban hành đúng thủ tục do pháp luật quy định. - Mục đích của việc ban hành văn bản nhằm đáp ứng các yêu cầu của đời sống xã hội. - Văn kiện, văn bản của Đảng mà dự thảo văn bản quy phạm pháp luật trực tiếp thể chế hoá hoặc tổ chức thực hiện. Cách thức trình bày. Hiện nay, pháp luật không có các quy định thống nhất về việc xác lập phần cơ sở thực tiễn của văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên, phần cơ sở thực tiễn thường được viện dẫn bằng các văn bản có giá trị pháp lí hoặc hành vi mang tính thủ tục có liên quan đến nội dung văn bản. Với cách trình bày này, vị trí phần cơ sở thực tiễn được xác lập sau phần cơ sở pháp lí, với việc sử dụng “công thức hóa” bắt đầu bằng các từ “xét” hoặc “theo” sau đó là văn bản, hành vi đề nghị của chủ thể hoặc mục đích ban hành văn bản quy 92 phạm pháp luật. Sau cơ sở thực tiễn người soạn thảo sử dụng dấu “,” (dấy phẩy). Ví dụ: Xác lập cơ sở thực tiễn của Nghị định Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải và Bộ trưởng Bộ Công an, Hoặc: Xét Tờ trình số/ngàythángnămcủa hoặc : Cơ sở thực tiễn của Luật tổ chức Chính phủ là Luật này quy định về tổ chức và hoạt động của Chính phủ, Ví dụ: Xác lập cơ sở ban hành của Nghị định Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. CHÍNH PHỦ Số: 34/2010/NĐ-CP CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc Hà Nội, ngày 02 tháng 4 năm 2010 NGHỊ ĐỊNH Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ CHÍNH PHỦ Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001; Căn cứ Luật Giao thông đường bộ ngày 13 tháng 11 năm 2008; Căn cứ Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02 tháng 7 năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi 93 phạm hành chính ngày 02 tháng 4 năm 2008 (sau đây gọi chung là Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính); Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải, 2.2. Soạn thảo nội dung chính của văn bản quy phạm pháp luật Nội dung chính của văn bản là các quy phạm pháp luật, quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm đạt được những mục đích nhất định. Quy phạm pháp luật đó là “chuẩn mực”, cách thức, định hướng hành vi của các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ pháp luật. Ngoài ra, nội dung của văn bản quy phạm pháp luật còn chứa đựng các quy định về chính sách, nguyên tắc, tư tưởng tưởng pháp lí khá da dạng và phong phú. 2.2.1. Soạn thảo các quy phạm nguyên tắc Trong văn bản quy phạm pháp luật, quy phạm nguyên tắc thực chất là những quy phạm có nội dung là tư tưởng mang tính chủ đạo, định hướng đối với các quy phạm pháp luật khác. Trên thực tế, các quy phạm nguyên tắc thường được xác lập trong những trường hợp sau đây: - Đưa ra những tư tưởng chủ đạo là các quy phạm thể hiện đường lối, chủ trương, chính sách để điều chỉnh các vấn đề có khả năng chi phối tới nhiều lĩnh vực, nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác, đồng thời là cơ sở để ban hành những văn bản quy phạm pháp luật này. Ví dụ: Nghị quyết của Quốc hội về phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2010-2015 94 - Đưa ra những cách thức, quy định chung có khả năng chi phối đến toàn bộ các quy phạm pháp luật, hoặc một nhóm quy phạm pháp luật trong văn bản. Thông thường, các quy phạm mang tính nguyên tắc được xác lập thành những quy định riêng, độc lập với những nội dung khác và được trình bày ở chương đầu hoặc phần đầu của văn bản, chương “những quy định chung”.. Khi xác lập quy phạm nguyên tắc có nội dung chi phối tới nhiều vấn đề có trong nhiều đơn vị tạo thành văn bản như: Phần chương, mục thì nên đặt các nguyên tắc này trong chương đầu tiên của văn bản. - Nếu văn bản phải đề cập nhiều nguyên tắc khác nhau thì mỗi nguyên tắc được tách riêng thành một đơn vị (điều, khoản) độc lập. Ví dụ: Luật bình đẳng giới quy định. Điều 6: Các nguyên tắc cơ bản về bình đẳng giới. 1. Nam nữ bình đẳng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. 2. Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới không bị coi là phân biệt đối xử về giới. 3. Nam nữ không bị phân biệt đối xử về giới. 4. Chính sách bảo vệ và hỗ trợ người mẹ, không bị coi là phân biệt đối xử về giới. - Nếu văn bản chỉ có một hoặc một nhóm nhỏ các nguyên tắc thì các nguyên tắc này được trình bày trong các đơn vị nhỏ (điều, khoản) và đặt trong cùng chương hoặc mục với các nội dung khác. 95 - Nếu văn bản có số lượng lớn các nguyên tắc thì trình bày tập trung trong một đơn vị lớn hơn như: phần chương, mục độc lập với các đơn vị quy định về những vấn đề khác. 2.2.2. Soạn thảo các quy phạm giải thích, hướng dẫn Các quy phạm giải thích, hướng dẫn được thể hiện dưới hai dạng khác nhau nhưng đều có chung mục đích là tạo ra cách hiểu, cách thực hiện thống nhất và đúng với ý đồ chủ thể ban hành văn bản quy phạm pháp luật về một hành vi, một thuật ngữ hoặc một hoạt động cụ thể. Thông thường, các quy phạm giải thích, hướng dẫn được xác lập với hai biểu hiện sau đây: Thứ nhất, các

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgtkl0012_p1_3595.pdf
Tài liệu liên quan