Đã nhiều thế kỷ, nhân dân lao động tiến hành những cuộc đấu tranh giải
phóng khỏi sự bóc lột, bạo lực và sự bần cùng hóa về mặt vật chất và tinh thần
và hy vọng tạo lập một xã hội với sự thống trị của lý trí, nhân đạo và công bằng.
Trong các truyền thuyết và trong nhiều công trình của các nhà chủ nghĩa xã
hội không tưởng đã chứa đựng các tư tưởng, ước mơ về một xã hội như vậy.
ngay từ năm 1516, một trong những nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng Thomas
Mor đã phác họa bức tranh về một nhà nước tốt lành trên hòn đảo Utopia (địa dư
không tồn tại), nơi có sự thống trị của chế độ công hữu và là nơi tất cả mọi người
đều lao động tự giác trong các điều kiện bình đẳng và dân chủ. Còn trong các tác
phảm nổi tiếng “Thành phố mặt trời” (thế kỷ XVII), nhà triết học người Ý
Tomazio Kampanhela đã phác họa một xã hội
58 trang |
Chia sẻ: Mr Hưng | Lượt xem: 960 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình học thuyết tam quyền phân lập - Chương 2: Vận dụng học thuyết “tam quyền phân lập” để xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u
cầu của nhân dân ngày một nâng cao, nhiệm vụ xây dựng bộ máy nhà nước và
nguyện vọng của nhân dân ngày càng đòi hỏi phải có bộ máy trong sạch, vững
mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả mới đáp ứng tình hình và nhiệm vụ cách
mạng.
Thứ ba, thực hiện theo các nguyên tắc chung về tổ chức hoạt động của bộ
máy nhà nước và các nội dung, yêu cầu có tính đặc thù của Quốc hội.
Đây là điều rất quan trọng khi thực hiện đổi mới tổ chức và phương thức
hoạt động của Quốc hội. Trong quá trình thực hiện đổi mới hoạt động của Quốc
hội cần nhận thức, làm rõ những yêu cầu mang tính đặc thù như:
- Tính hiệu quả trong tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc hội –
nhất là hiệu quả về kinh tế và các hiệu quả cụ thể khác.
- Tính chuyên nghiệp và hiện đại. Cụ thể là phải có tỷ lệ đại biểu Quốc hội
chuyên trách thích hợp, có bộ máy tham mưu trình độ cao, có phương thức hoạt
động phát huy đầy đủ dân chủ, trí tuệ của các đại biểu Quốc hội.
- Tính minh bạch trong tổ chức và hoạt động. Nguyên tắc này đòi hỏi trong
hoạt động phải quy định rõ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của mỗi tổ chức, cá nhân trong bộ máy, có cơ chế tự kiểm tra, thanh tra các hoạt
động và có sự giám sát từ phía nhân dân đã khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng,
lãng phí – những điều không thể tồn tại trong Nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân.
Để làm tốt những nội dung trên, đòi hỏi phải thực hiện thường xuyên và tập
trung các giải pháp:
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện các chức năng của Quốc hội đã
đề ra.
74
- Phát huy vai trò, trách nhiệm, nâng cao năng lực của các đại biểu Quốc
hội, bảo đảm họ thực sự là người đại diện cho nhân dân, vừa có đạo đức, năng
lực, có bản lĩnh và các kỹ năng hoạt động nghị trường, tham gia đóng góp, quyết
định được những vấn đề trọng đại của đất nước.
- Tiếp tục kiện toàn các cơ quan của Quốc hội, thường xuyên tăng cường
quan hệ hai chiều giữa Quốc hội với nhân dân.
* Bên cạnh việc đổi mới nội dung hoạt động của Quốc hội thì cần tiếp tục
cải cách, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dssn để Hội đồng
nhân dân có thực quyền, hoạt động thực chất và thực hiện đúng vai trò là cơ
quan đại biểu cho nhân dân ở địa phương.
* Cần tiến hành trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị trước hết là đổi
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, vì Đảng là hạt nhân lãnh đạo toàn bộ hệ
thống. Nói phương thức lãnh đạo của Đảng bao gồm những nguyên tắc, quy tắc,
cách thức, hình thức biện pháp mà các tổ chức, các cấp uỷ chọn lựa, sử dụng.
Chẳng hạn như về đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của các tổ chức đảng
ở cơ sở hiện nay có 3 nội dung cụ thể. Đó là:
- Đảng bộ, chi bộ cơ sở phải làm đúng vai trò hạt nhân lãnh đạo toàn diện ở
cơ sở, nắm vững nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then
chốt, chăm lo xây dựng chính quyền, mặt trận và các đoàn thể vững mạnh.
- Mọi đảng viên phải nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu vững vàng về
chính trị, có đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân.
- Đổi mới việc ra nghị quyết của đảng bộ, chi bộ, của cấp uỷ đảng. Xây
dựng quy chế làm việc giữa bí thư với những người đứng đầu chính quyền, mặt
trận và các đoàn thể. Đổi mới các cuộc bầu cử ở cơ sở, tăng cường công tác kiểm
tra. Đổi mới phương thức lãnh đạo, trong đó chú ý đặc trưng phương pháp dân
chủ trong lãnh đạo nhân dân và các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
75
* Phải đẩy mạnh cải cách hành chính theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN hiện nay.
Nền hành chính nhà nước có vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Điều này
được thể hiện cụ thể ở chỗ: Nó là bộ phận lớn nhất trong hệ thống từ Trung ương
đến cơ sở. Là hệ thống trực tiếp thực hiện các đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Mặt khác, trong quá trình thực hiện, cơ quan hành
chính nhà nước còn góp phần cụ thể hoá hoặc điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung, hoàn
thiện các đường lối, chủ trương chính sách, để bảo đảm thực hiện một cách hiệu
quả nhất nền hành chính nhà nước.
Trong thời gian qua, nền hành chính nhà nước ta đã đạt được những kết quả
cụ thể, góp phần vào sự ổn định, phát triển đất nước, bảo đảm sự thành công của
công cuộc đổi mới; tuy nhiên, cũng còn bộc lộ nhiều khuyết điểm, tồn tại. Vì
vậy, để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực, cần tiến
hành các giải pháp sau:
- Xây dựng hệ thống cơ quan hành chính nhà nước tập trung, thống nhất,
thông suốt, tinh giản, không lãng phí, hoạt động lien tục, rộng khắp, đủ năng lực,
quyền lực, trong sạch, chủ động, phục vụ và chịu trách nhiệm trước dân. Muốn
đáp ứng được các yêu cầu trên phải cải cách đồng bộ ba yếu tố của nền hành
chính, gồm chủ thể hành chính, bộ máy hành chính và đội ngũ cán bộ, công chức
hành chính.
- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thể chế nền hành chính, trước hết tập trung cải
cách thể chế nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhất là đối với một số
thể chế then chốt. Tiếp tục cải cách hành chính, kiên quyết loại bỏ những thủ tục
chồng chéo, phiền hà. Ban hành cụ thể cơ chế kiểm tra cán bộ, công chức, quy
định rõ trách nhiệm cá nhân trong khi thi hành công vụ.
- Cải cách tổ chức hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước ở Trung
ương và chính quyền địa phương. Kiên quyết giải tán các tổ chức trung gian,
76
kém hiệu quả. Khắc phục tình trạng Trung ương có gì địa phương cũng có nấy,
cơ quan chính quyền có gì, cơ quan đảng cũng có. Đồng thời, cải tiến phương
thức quản lý, lề lối làm việc của các cơ quan hành chính các cấp hiện nay, cả cơ
quan cấp Trung ương, bộ, tỉnh, huyện và cơ sở.
- Phải nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác cán bộ, để có sự đổi mới
mạnh mẽ hơn, có biện pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức các
cấp, nhất là ở cơ sở để tạo sự chuyển biến tích cực, hiệu quả hơn.
Ở đây, có 2 vấn đề chính là: vừa đổi mới đội ngũ cán bộ, công chức hành
chính vừa phải đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức. Muốn làm tốt điều
này cần có sự đánh giá một cách thực chất hơn, cụ thể hơn thực trạng đội ngũ
cán bộ, công chức và công tác quản lý cán bộ, công chức hiện nay, nhất là trong
điều kiện thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội. Từ đó phải có
đường lối xây dựng cán bộ phù hợp với tình hình mới, có những chính sách cụ
thể để phát huy những mặt tốt, những khả năng trong hệ thống tổ chức và trong
mỗi cán bộ. Kịp thời phát hiện phát hiện và ngăn chặn những mặt hạn chế, bất
cập, suy thoái trong cán bộ các cấp khi thực hiện cơ chế mới, với nhiều thành
phần kinh tế và mở cửa, hội nhập hiện nay.
* Đẩy mạnh cải cách tư pháp theo yêu cầu mới của nhiệm vụ xây dựng Nhà
nước pháp quyền hiện nay.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong giai đoạn hiện nay, yêu
cầu của cải cách tư pháp phải tiến hành đồng bộ cả về thể chế, tổ chức, đội ngũ
cán bộ, công chức của các cơ quan tư pháp ở các cấp và phải được đặt trong tổng
thể đổi mới của cả hệ thống chính trị. Tiếp tục cải cách tư pháp, xây dựng nhà
nước pháp quyền Việt Nam, thực hiện được quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo
vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý nghiêm minh và kịp thời
mọi vi phạm pháp luật, tăng cường được pháp chế trong xã hội. Muốn thực hiện
được yêu cầu này, cần phải:
77
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tọa cơ sở pháp lý cho hoạt động
của toàn xã hội và của Nhà nước; có chuẩn mực để đánh giá đúng, sai; tăng
cường pháp chế. Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo cơ sở pháp
lý vững chắc cho hoạt động tư pháp. Trong khi xây dựng mới và sửa đổi, bổ
sung các luật tố tụng (Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự.) các
luật tổ chức cơ quan tư pháp, Bộ luật Dân sự (sửa đổi) phải phù hợp với nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN, với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và
tương thích với pháp luật quốc tế hiện hành, cũng như đáp ứng yêu cầu hợp tác
song phương, đa phương của nước ta.
- Cần tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Xây dựng các cơ quan này thực sự trở thành công cụ sắc bén trong cuộc đấu
tranh phòng chống tội hạm, vi phạm pháp luật; bảo đảm các điều kiện cần thiết
để chúng thực hiện được chức năng, nhiệm vụ pháp luật quy định.Trong tổ chức
hoạt động của toà án nhân dân phải sửa đổi theo hướng tăng thẩm quyền xét xử
cấp huyện, tiến tới thực hiện toà án theo hai cấp xét xử và nghiên cứu việc thành
lập toà án khu vực, bảo đảm xét xử có hiệu quả. Đối với hoạt động của Viện
kiểm sát, tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Kiên quyết khắc phục vấn đề bức xúc hiện nay là tình trạng xử oan sai bỏ, lọt tội
phạm, biểu hiện tiêu cực trong quá trình xét xử.
- Đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp đáp ứng yêu cầu về
chất lượng và số lượng. Đây là nội dung rất quan trọng và cấp bách. Thực trạng
đội ngũ cán bộ tư pháp của ta hiện nay về chất lượng và số lượng chưa thật đáp
ứng với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Nếu không có sự quan
tâm đầu tư, đẩy mạnh việc đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp thì có thể nói sẽ ảnh
hưởng rất lớn tới nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền. Bởi lẽ yêu cầu và
nhiệm vụ mới đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ tư pháp có đủ
năng lực trình độ mới giải quyết được những vấn đề thực tế đặt ra, không những
ở các cơ quan, ban, ngành trung ương mà cả ở các cơ sở. Vì vậy, vấn đề đặt ra là
78
phải sớm có quy hoạch phù hợp, có kế hoạch tuyển chọn, đào tạo. sử dụng đúng
khả năng, yêu cầu. Đồng thời, phải coi trọng và tăng cường việc quản lý, kiểm
tra, giám sát đội ngũ cán bộ tư pháp để họ thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Mặt
khác, cũng cần phải chú ý tới những đặc thù nghề nghiệp để có tiêu chuẩn, chế
độ phù hợp đối với đội ngũ cán bộ này.
b). Giải pháp đối với nhân tố con người.
Vấn đề nhân sự - vấn đề có tầm chiến lược lớn của đất nước và của công tác
tổ chức của Đảng - đó là lựa chọn, xây dựng một đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa
chuyên”, một đội ngũ cán bộ có trí tuệ, năng động, sáng tạo, có đạo đức cánh
mạng trong sáng, theo kịp với sự phát triển của đất nước và của thời đại, trung
thành với Đảng, với nhân dân, hết lòng vì nước, vì dân...
Thực tế cũng cho thấy, vai trò của đội ngũ cán bộ là cực kỳ to lớn. Trong
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về các văn kiện Đại hội
XI của Đảng do Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trình bày tại Đại hội, khi nêu ra 5
bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X thì
việc xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng là một phần
rất quan trọng trong bài học về xây dựng Đảng. Có được một đội ngũ cán bộ các
cấp tốt, hoạt động hiệu quả, cho nên trước những biến động lớn lao và những
khó khăn của thời cuộc, chúng ta vẫn kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu
đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Có được
những thành quả hôm nay còn bởi trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo
các cấp đã hết sức nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước và
thế giới, kịp thời đề ra được những giải pháp phù hợp với tình hình mới, phát
huy được sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn dân tộc cho sự nghiệp đổi
mới
79
Trong Báo cáo cũng đã hai lần nhấn mạnh, việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN, tập trung vào 3 nội dung, trong đó nội dung thứ hai ghi: xây dựng
đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu tình hình
mới. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức, năng lực công tác... Công tác cán bộ một lần nữa được đề
cập và nhấn mạnh hơn với nội dung toàn diện: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng
bộ công tác cán bộ; thực hiện tốt Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH... Tập trung vào đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém trong
từng khâu của công tác cán bộ. Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ. Có chế tài xử lý nghiêm những trường hợp chạy chức, chạy quyền, chạy
chỗ, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy huân chương...”.
- Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ đảng và lãnh đạo các cấp về
xây dựng đội ngũ cán bộ tổ chức. Cần hiểu rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của
việc xây dựng đội ngũ cán bộ tổ chức, từ đó có dự báo đúng tình hình, bám sát
yêu cầu của nhiệm vụ chính trị, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chuẩn bị
tốt cho trước mắt và lâu dài. Việc quản lý cán bộ làm công tác tổ chức, trước hết
là của cấp uỷ và lãnh đạo đơn vị. Những vấn đề chủ trương, chính sách về công
tác cán bộ nhất thiết phải do cấp uỷ có thẩm quyền quyết định theo đa số. Thực
tiễn cho thấy, ở đâu nhận thức đúng và coi trọng công tác tổ chức, cán bộ thì ở
đó cán bộ tổ chức phát huy được năng lực, sở trường công tác, đóng góp có hiệu
quả cho thành tích của đơn vị và nếu ngược lại, cán bộ tổ chức sẽ không phát
huy được, mà còn làm cho đơn vị phát sinh tiêu cực, mất đoàn kết, nội bộ không
ổn định.
- Xác định tiêu chuẩn của cán bộ tổ chức. Trong khi đảm bảo tiêu chuẩn cán
bộ theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3, khoá VIII, Hội nghị Trung ương 6,
khóa IX cần xác định có các tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ tổ chức: Thứ nhất,
đó là nắm chắc quan điểm, đường lối của Đảng trong xây dựng hệ thống chính
trị, trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Thứ hai, phải công tâm.
Có công tâm, tâm trong sáng mới giữ được công bằng, thi hành công việc một
80
cách ngay thẳng, không thiên vị, biết đặt sự nghiệp chung, lợi ích chung của
cách mạng lên trên hết. Thứ ba, phải có tầm. Tầm là yêu cầu về năng lực, chuyên
môn, là tài năng của người cán bộ tổ chức, giúp nắm vững các biện pháp nghiệp
vụ, có kinh nghiệm trong việc đánh giá chính xác con người, đảm bảo chọn đúng
người, xếp đúng việc. Thứ tư, có tình thương yêu đồng chí, đồng bào, đây là sự
thể hiện đạo làm người cách mạng mà mỗi cán bộ tổ chức phải thấm nhuần và
thực hành nhất quán trong công việc, trong đời tư v.v Cần quan tâm đến tính
đặc thù của nghề tổ chức và những tiêu chuẩn riêng cần có đối với người làm
công tác tổ chức, cán bộ là để đào tạo, huấn luyện những người có những tố chất
phù hợp với nghề. Đặc biệt lưu ý đến năng lực, sự tinh thế, nhạy cảm trong nhìn
nhận, đánh giá, phát hiện, đoán định được xu hướng phát triển của con người.
Người làm công tác tổ chức không chỉ cần có kiến thức về con người, về chức
năng, nhiệm vụ tổ chức bộ máy, mà còn cần am hiểu cơ chế hoạt động cùng
những đặc điểm của từng lĩnh vực mà mỗi cán bộ đang hoạt động. Phải có kiến
thức xã hội rộng, nhiều trải nghiệm mới có thể thấu hiểu, đánh giá xác đáng con
người. Phải có các phẩm chất như kín đáo mà vẫn hoạt, sâu sắc mà vẫn cởi mở,
linh hoạt mà vẫn chắc chắn; kiên định, dám chịu trách nhiệm, biết lắng nghe và
thấu hiểu, có sức cảm hoá lòng người; biết giữ bí mật và nguyên tắc.
- Xây dựng quy chế, đổi mới công tác đánh giá, tuyển chọn cán bộ tổ chức.
Xây dựng các quy chế bảo đảm cho công tác cán bộ, quản lý cán bộ đi vào nền
nếp, là căn cứ cho đội ngũ cán bộ tổ chức làm tốt chức năng tham mưu cho cấp
uỷ đảng theo đúng quan điểm, chủ trương của Đảng. Hoàn thiện và thực hiện
nghiêm quy chế đánh giá cán bộ sẽ giúp toàn bộ quy trình trong công tác cán bộ
chính xác, hiệu quả không bỏ sót người tốt, chọn nhầm người xấu, tạo ra động
lực tích cực cho cán bộ phấn đấu tiến bộ, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ. Vì vậy, đối với cán bộ tổ chức, càng phải được nhận xét, đánh giá
thường xuyên, nhất là trước khi đề bạt, bổ nhiệm. Tuyển chọn cán bộ tổ chức
trên cơ sở các tiêu chuẩn một cách dân chủ, công khai. Tuyển chọn cán bộ tổ
chức, nên chọn những cán bộ đã được đào tạo, bồi dưỡng, có kinh nghiệm thực
81
tiễn, theo hướng trẻ hoá, kết hợp tốt các độ tuổi, khắc phục tuyển cán bộ theo
kiểu thân quen; kiên quyết điều chuyển hoặc giải quyết nghỉ chế độ đối với
những cán bộ mà phẩm chất, năng lực, sức khoẻ không đáp ứng yêu cầu.
- Đổi mới cơ chế, chính sách và điều kiện làm việc của đội ngũ cán bộ tổ
chức. Đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách cán bộ nhất là tiền lương, nhà
ở, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, quản lý cán bộ nhằm nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần, năng lực và bản lĩnh cho cán bộ; thực sự khuyến khích những cán bộ
có tài, trân trọng những cán bộ có công; có biện pháp tích cực và chủ động trong
việc bảo vệ cán bộ làm đúng, không để cán bộ bị mua chuộc, lôi kéo, khống chế
hoặc bôi nhọ danh dự; xử lý nghiêm minh, kịp thời những cán bộ có sai phạm,
thoái hoá biến chất, cơ hội chủ nghĩa. Đổi mới điều kiện làm việc cho cán bộ tổ
chức là một yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng công tác. Vì vậy, các cấp
uỷ đảng, lãnh đạo các ban tổ chức cần quan tâm đầu tư trang bị phương tiện kỹ
thuật; đào tạo cán bộ để làm chủ được các phương tiện, thiết bị và biến thành
những công cụ hữu hiệu phục vụ cho công tác tổ chức, cán bộ.
- Đổi mới và chỉnh đốn bộ máy ban tổ chức. Thực tiễn cho thấy, tổ chức
mạnh khiến từng người mạnh và từng người mạnh giúp cho cả tổ chức mạnh.
Xây dựng tổ chức phải đi đôi với xây dựng con người và xây dựng con người
phải gắn với xây dựng tổ chức. Văn kiện Hội nghị Trung ương 9, khoá X, nhấn
mạnh: “Các cấp uỷ, tổ chức đảng thường xuyên lãnh đạo chăm lo kiện toàn bộ
máy và đội ngũ cán bộ làm tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ”(4). Hiện nay,
việc đổi mới, chỉnh đốn bộ máy và đội ngũ cán bộ tổ chức chưa thực sự theo kịp
với yêu cầu mới, biểu hiện ở sự chồng chéo, phân công không rành mạch, sự
phối kết hợp chưa ăn khớp. Công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng và chất
lượng nghiên cứu, tham mưu của đội ngũ cán bộ tổ chức còn hạn chế. Cho nên,
cần tổ chức sắp xếp lại bộ máy hệ thống các ban tổ chức theo hướng tinh, gọn,
chuyên sâu, hoạt động có chất lượng và hiệu quả, gắn với nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ tổ chức. Đồng thời với việc bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc
82
đưa mọi hoạt động vào nền nếp, đổi mới phong cách, phương pháp công tác,
nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn.
- Đổi mới công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ tổ
chức. Phải xây dựng và lấy tiêu chuẩn cán bộ tổ chức làm căn cứ quy hoạch, đào
tạo, bồi dưỡng. Trong đó, cần quan tâm xây dựng kế hoạch, nội dung, phương
thức đào tạo, bồi dưỡng cho từng loại cán bộ. Phải xuất phát từ nhiệm vụ chính
trị, nhiệm vụ tổ chức để đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ hiện có, dự
kiến nhu cầu và khả năng phát triển của đội ngũ cán bộ để chủ động có kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tổ chức các cấp phải
toàn diện cả về lý luận chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ và năng lực thực tiễn; chú ý bồi dưỡng các kiến thức như tâm lý xã
hội, quản lý hành chính, quản lý kinh tế, ngoại ngữ, tin học; kết hợp bồi dưỡng
tại trường lớp với rèn luyện trong thực tiễn. Sử dụng cán bộ tổ chức phải đảm
bảo đúng tiêu chuẩn, phù hợp với sở trường. Thực hiện bổ nhiệm có thời hạn,
chế độ từ chức, bãi nhiệm; kiên quyết đưa ra khỏi đội ngũ những cán bộ kém
phẩm chất, năng lực; bố trí lại những cán bộ phân công không hợp lý.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và quản lý cán bộ làm công tác tổ
chức. Thông qua đó, giúp cấp uỷ, lãnh đạo cơ quan tổ chức phát hiện xử lý kịp
thời những vấn đề nảy sinh, làm cho đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức hoạt
động đúng nguyên tắc, quy định; nắm chắc tình hình, diễn biến về tư tưởng, hoạt
động của cán bộ.
Công tác tổ chức, cán bộ là một nghề, vừa có tính khoa học, vừa có tính
nghệ thuật cao về chọn người và dùng người. Công tác tổ chức, cán bộ là chìa
khoá thành công của công cuộc đổi mới đất nước. Nhiệm vụ đặt ra hiện nay đòi
hỏi người cán bộ tổ chức phải vừa “hồng”, vừa “chuyên”, có “tâm”, đủ “tầm” để
nhìn xa, trông rộng, biết đánh giá đúng và chọn đúng người. Vì vậy, vấn đề nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ này vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính chiến
lược lâu dài trong công tác cán bộ của Đảng ta.
83
c). Giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật
* Các giải pháp về xây dựng pháp luật
- Xác định các lĩnh vực trọng điểm cần ưu tiên đầu tư để xây dựng và hoàn
thiện pháp luật. Trong chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội (từng
năm và cả nhiệm kỳ) và chương trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
hàng năm của Chính phủ, cần xác định một số lĩnh vực trọng điểm có ý nghĩa
then chốt, tạo sức bứt phá đối với sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai
đoạn để ưu tiên tập trung nguồn lực nhằm xây dựng và ban hành kịp thời các
luật, bộ luật có tính khả thi cao.
Các bộ, ngành cần ưu tiên xây dựng thể chế trong lĩnh vực do bộ, ngành
mình quản lý cho phù hợp với định hướng của Chiến lược này.
- Đổi mới cơ bản quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật từ sáng kiến pháp
luật đến thông qua luật nhằm đẩy nhanh quá trình soạn thảo, ban hành luật. Nâng
cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật.
Các dự án luật, pháp lệnh chỉ được xem xét thông qua khi có giải trình rõ
ràng về cơ chế, biện pháp, các nguồn lực bảo đảm tổ chức thực hiện. Sớm triển
khai phương thức ban hành một luật để sửa đổi nhiều đạo luật liên quan. Xác
định rõ quy trình, cơ chế "nội luật hoá" các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên.
- Nâng cao trình độ và năng lực làm luật của Quốc hội. Tăng hợp lý tỉ lệ đại
biểu chuyên trách, có trình độ, hiểu biết về pháp luật; xác lập cơ chế bảo đảm
thực hiện quyền sáng kiến pháp luật của đại biểu Quốc hội; phát huy vai trò,
trách nhiệm của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội trong việc chuẩn
bị, thẩm tra dự án luật, pháp lệnh. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn cách thức thảo
luận, thông qua luật, pháp lệnh.
Tăng cường hoạt động giải thích luật, pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ
Quốc hội.
84
Tăng cường trách nhiệm của Chính phủ và các bộ trưởng trong việc chỉ đạo
hoạt động xây dựng pháp luật. Chính phủ tập trung xem xét, quyết định những
vấn đề mang tính quan điểm, chính sách và những vấn đề liên ngành còn có ý
kiến khác nhau; tăng cường kiểm tra đối với văn bản quy phạm pháp luật do các
bộ, ngành và địa phương ban hành để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính
thống nhất của hệ thống pháp luật.
Kiện toàn và nâng cao năng lực bộ máy giúp việc cho Quốc hội, Chính phủ,
các bộ, ngành trong công tác xây dựng pháp luật. Củng cố bộ phận pháp chế bộ,
ngành, địa phương; thành lập Viện Nghiên cứu lập pháp của Quốc hội.
- Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nghiên cứu
chuyên ngành trong hoạt động xây dựng pháp luật. Có cơ chế thu hút các hiệp
hội, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các chuyên gia giỏi tham gia
vào việc nghiên cứu, đánh giá nhu cầu, hoạch định chính sách pháp luật, soạn
thảo, thẩm định, thẩm tra các dự thảo văn bản pháp luật. Xác định cơ chế phản
biện xã hội và tiếp thu ý kiến của các tầng lớp nhân dân đối với các dự án, dự thảo
văn bản quy phạm pháp luật.
- Hiện đại hoá phương thức và phương tiện xây dựng pháp luật. Khai thác,
ứng dụng tối đa thành tựu của khoa học, kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin
nhằm đổi mới phương pháp, tiến độ, chất lượng và hiệu quả của quy trình xây
dựng pháp luật. Xây dựng và khai thác hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp
luật.
- Hoàn thiện pháp luật về Công báo, bảo đảm tất cả các văn bản quy phạm
pháp luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, văn bản hành chính
có hiệu lực áp dụng chung đều được công bố trên Công báo một cách đầy đủ, kịp
thời và chính xác.
- Nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán (kể cả tập
quán, thông lệ thương mại quốc tế) và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp
phần bổ sung và hoàn thiện pháp luật.
85
* Các giải pháp thi hành pháp luật
Kết hợp chặt chẽ, đồng bộ việc hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan thi hành pháp luật trong Nghị quyết này với các nội dung
cải cách hành chính và các giải pháp về cải cách tư pháp.
- Phát triển hệ thống thông tin và phổ biến giáo dục pháp luật, xây dựng và
triển khai Chương trình Quốc gia về phổ biến giáo dục pháp luật dài hạn. Hình
thành Trung tâm Thông tin pháp luật quốc gia, phát triển mạng lưới thông tin
pháp luật. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển dịch vụ thông tin,
tư vấn, hỗ trợ pháp luật đáp ứng các nhu cầu đa dạng của nhân dân và phù hợp
với pháp luật. Đẩy mạnh hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo và các đối
tượng chính sách theo hướng xã hội hoá. Tăng cường trao đổi thông tin pháp luật
với các tổ chức quốc tế và các quốc gia, trước hết là với các quốc gia thành viên
ASEAN.
- Cải cách tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, trọng tâm là hoạt
động xét xử của toà án theo nội dung của Chiến lược cải cách tư pháp. Đề cao
kỷ luật, kỷ cương trong các hoạt động của các cơ quan nhà nước. Nâng cao năng
lực, hiệu quả hoạt độ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gtkl0009_p2_946.pdf