Tính trạng được chọn lọc một cách tự nhiên trong một thời gian dài được gọi là hiện tượng thích nghi. Thuật ngữ quốc tế gọi hiện tượng này là “fitness”. Hiện tượng thích nghi của một cá thể là sự đóng góp của những gen tạo ra thế hệ kế tiếp, hoặc tạo ra một số lớn con lai của nó trong thế hệ kế tiếp (Falconer 1991). Trong nghiên cứu về dòng chãy của gen (gene flow) từ cây trồng (thường là cây transgenic) sang loài cây hoang dại có quan hệ huyết thống gần gũi, người ta phải tính giá trị “fitness”
11 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 2363 | Lượt tải: 3
Nội dung tài liệu Giáo trình Di truyền số lượng - Chương 8: Tính trạng số lượng trong chọn lọc tự nhiên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 8
TÍNH TRẠNG SỐ LƯỢNG
TRONG CHỌN LỌC TỰ NHIÊN
8-1. CHỌN LỌC TỰ NHIÊN
Tính thích nghi (fitness) và biểu hiện của nó
Tính trạng được chọn lọc một cách tự nhiên trong một thời gian dài được gọi là hiện
tượng thích nghi. Thuật ngữ quốc tế gọi hiện tượng này là “fitness”. Hiện tượng thích nghi
của một cá thể là sự đóng góp của những gen tạo ra thế hệ kế tiếp, hoặc tạo ra một số lớn con
lai của nó trong thế hệ kế tiếp (Falconer 1991). Trong nghiên cứu về dòng chãy của gen (gene
flow) từ cây trồng (thường là cây transgenic) sang loài cây hoang dại có quan hệ huyết thống
gần gũi, người ta phải tính giá trị “fitness”
Hiện tượng thích nghi tương đối (relative fitness) được định nghĩa là hiện tượng thích
nghi của một cá thể ứng với trung bình của quần thể, W / W, với W là “fitness” của cá thể.
Nếu một quần thể vừa không thể phát triển, vừa không tương thích về số lượng đo
đếm, giá trị thích nghi trung bình của những cá thể như vậy sẽ bằng 1, và giá trị thích nghi
tuyệt đối, giá trị thích nghi tương đối sẽ bằng nhau. Như vậy, chúng sẽ vô cùng khó khăn khi
định nghĩa “fitness” một cách rõ ràng
Giá trị fitness trung bình của một quần thể là một khái niệm phải được sử dụng với sự
thận trọng đặc biệt, nếu toàn bộ cá thể của một quần thể nào đó có giá trị fitness trung bình
bằng 1, trong trường hợp quần thể không có tính chất gia tăng thêm, cũng như không giảm,
xét về số lượng
Thoạt nhìn, nó có vẻ đơn giản, nhưng trong trường hợp quần thể tăng, hoặc giảm, hoặc
duy trì bằng hằng số, xét về số lượng, chúng hoàn toàn phụ thuộc vào sự thay đổi to lớn của
môi trường tương ứng với chúng.
Sự chọn lọc trong tự nhiên giữa những cá thể của một quần thể có thể làm thay đổi
kiến trúc di truyền của quần thể đó, nhưng giá trị fitness trung bình thì không thay đổi, nếu
quần thể này thoả mãn ở một mức giới hạn về khả năng hoạt động trong môi trường mà nó
sinh sống.
Khi giá trị fitness trung bình được xem xét với góc độ như vậy, người ta sẽ giả định
rằng quần thể không bị hạn chế bởi yếu tố môi trường
Giá trị fitness của một cá thể là kết qủa cuối cùng của tất cả các tiến trình sinh trưởng
và phát triển về sinh lý học. Khác biệt giữa những cá thể trong tiến trình này được quan sát
thông qua biến dị của những thuộc tính có thể đo đếm được, và người ta có thể nghiên cứu
chúng như những tính trạng số lượng. Do đó, biên thiên của mỗi tính trạng số lượng đều phản
ảnh hiện tượng tăng thêm, hoặc giảm đi mức độ biến thiên của giá trị fitness và biến thiên của
giá trị fitness có thể bị phá vở, xét về lý thuyết, trở thành biến thiên của tính trạng số lượng
(Falconer 1989).
Thí dụ trên loài chuột trong hình 8-1 cho thấy tính chất phân hạng (hierarchy) của
những tính trạng đóng góp vào giá trị fitness của chuột cái. Hầu như tất cả tính trạng đã được
nghiên cứu về di truyền số lượng. Giá trị fitness có thể bị chuyển thành hai thành phần chính,
tổng số chuột con được sinh ra và chất lượng của chuột con được thể hiện thông qua trọng
lượng của từng con.
Fitness
Biến thiên của các thành phần chính sẽ đóng góp vào biến thiên chung trong biến thiên
gía trị fitness. Biến thiên của các thành phần chính có thể làm đảo ngược thành giá trị đóng
góp vào các tính trạng khác (xem cột thứ ba, hình 8-1). Những thành phần này bị ảnh hưởng
bởi thành phần khác (cột thứ tư). Những tính trạng trong cột thứ tư bản thân nó bị ảnh hưởng
bởi nhiều tính trạng khác. Trong nhóm này, chúng biểu hiện chức năng sinh lý, thí dụ như sản
phẩm của nhiều dạng hormone như “gonadotrophic” ảnh hưởng đến mứcđộ phát triển tế bào
trứng, mức độ sống sót của phôi, và năng suất sữa. Do đó, những tính trạng ảnh hưởng đến
giá trị fitness ít thể hiện một cách trực tiếp, và không thể hiện rõ ràng cho chúng ta thấy,
nhưng chúng có tương quan khá chặt chẽ với thành phần của giá trị “fitness”. Thí dụ, độ lớn
của cơ thể tương quan với nhiều tính trạng trong cột thứ tư (hình 8-1). Vấn đề mà chúng ta
quan tâm là: làm thế nào biết được cách thứchoạt động trong chọn lọc tự nhiên tương ứng với
từng vị trí trong hệ thống sắp xếp một cách có trình tự như vậy.
Đo lường giá trị thích nghi
Đo lường giá trị thích nghi một cách trực tiếp là công việc vô cùng khó khăn, đặc biệt
là giá trị fitness của những cá thể. Đo lường giá trị thích nghị theo phương pháp tách rời
những thành phần chính là công việc tương đối dễ dàng hơn. Giá trị thích nghi tổng quát có
thể được dự đoán sau đó bằng cách phối hợp lại những giá trị của các thành phần. Thí dụ tính
giá trị trung bình fitness của một dòng (strain) thông qua hiện tượng cạnh tranh với một tester
mà tester này đã được đánh dấu về mặt di truyền sao cho thế hệ con lai có thể được ghi nhận.
Nhưng số liệu tương quan của con lai giữa hai dòng sẽ cho chúng ta kết qủa “chỉ số cạnh
tranh” (competitive index) của dòng đang nghiên cứu trong điều kiện xét nghiệm
8-2. TƯƠNG QUAN GIỮA TÍNH TRẠNG SỐ LƯỢNG VÀ GIÁ TRỊ THÍCH NGHI
8-2-1 . Quần thể cân bằng
1 2 3 4
Tổng số chuột
con sinh ra
(hiệu qủa thụ
tinh)
Chất lượng chuột
con
(hiệu qủa chuột
mẹ)
Khả năng sống
sót
Thành công
giao phối
Qui mô một
lần đẻ
Tần suất đẻ
Số lần đẻ
Năng suất sữa
Tập tính
chuột mẹ
Kháng bệnh
Khả năng trốn thoát
kẻ thù
Mức độ phát triển tế
bào trứng
Khả năng sống của
phôi
Độ lớn tuyến sữa
Hình 8-1: Một vài thành phần của giá trị thích nghi (fitness) của chuột, với sự sắp xếp
theo trình tự trên cơ sở nguồn gốc của biến dị. Biến thiên của mỗi tính trạng số lượng
được kết hợp lại với nhau thành giá trị to hơn, hoặc nhỏ hơn, với sự biến thiên của giá
trị fitness (Falconer 1989)
Một quần thể được gọi là cân bằng (equilibrium) khi các tần suất gen không thay đổi ở
bất cứ mọi loci. Do vậy, giá trị trung bình của những tính trạng số lượng luôn duy trì ở trạng
thái hằng số (constant), cho dù sự chọn lọc tự nhiên vẫn được tiếp tục, nhưng gía trị fitness
không tăng (Falconer 1989).
Nói cách khác, quần thể cân bằng đã đạt đến giới hạn của sự chọn lọc đối với giá trị
thích nghi. Có thể có rất ít quần thể thực sự ở trạng thái cân bằng tại giới hạn chọn lọc, vì tiếp
cận mức giới hạn này sẽ yêu cầu một điều kiện môi trường không được thay đổi trong một
thời gian dài. Tuy nhiên, hầu hết các quần thể được nghiên cứu đều biểu hiện gần như trạng
thái cân bằng với những đặc điểm di truyền của một quần thể cân bằng.
Minh chứng về hiện tượng này rất phong phú, tất cả tính trạng số lượng trong quần thể
biến đổi vô cùng theo xu hướng nhiều hơn, hoặc kém hơn xét theo trạng thái cân bằng, trong
đó bao gồm những tính trạng là thuộc tính của ảnh hưởng “fitness”. Do đó, người ta phải biết
rõ phương sai của giá trị thích nghi. Vì chọn lọc cho giá trị thích nghi thường không có hiệu
qủa (no response), do đó, có thể không có phương sai di truyền về tính cộng, tất cả phương sai
di truyền của fitness là phương sai của tính trội và phương sai của tương tác theo kiểu
epistasis. Số liệu sắp xếp theo thứ tự của những tần suất gen trong một quần thể cân bằng ở
mọi loci, trong mọi điều kiện, được xem như tốt nhất để tối đa hóa giá trị thích nghi (Falconer
1989).
Nếu chọn lọc được thực hiện trên một tính trạng số lượng nào đó mà chúng không có
giá trị thích nghi, tần suất gen ở mọi loci ảnh hưởng đến tính trạng này sẽ thay đổi khi có một
phản ứng nhất định nào đó xảy ra. Bấy giờ, giá trị thích nghi phải được giảm như một đáp
ứng có tính chất tương quan (correlated response), trừ phi tính trạng chọn lọc này được điều
khiển hoàn toàn bởi gen mà không có ảnh hưởng fitness. Giả định này xuất phát từ kinh
nghiệm, từ thí nghiệm chọn lọc các tính trạng số lượng, chúng thường cho kết qủa giảm đi
một hoặc nhiều thành phần chính của giá trị thích nghi.
Trong trường hợp chọn lọc do nhà chọn giống thực hiện (không phải chọn lọc tự
nhiên), chúng ta nghi ngờ rằng có thể nhiều biến dị di truyền bị mất do hiện tượng cố định
(fixation). Chọn lọc tự nhiên phải có xu hướng tạo ra lại các tần suất gen ở trạng thái quần thể
cân bằng. Trung bình của tính trạng số lượng trong chọn lọc nhân tạo được dự đoán là số liệu
ngược so với giá trị gốc. Xu thế chọn lọc tự nhiên để chống lại hiện tượng thay đổi tần suất
gen được gọi là hiện tượng “homeostasis” (Lerner 1954)
8-2-2. Phổ giá trị thích nghi
Phổ giá trị thích nghi là thuật ngữ được tạm dịch từ chữ “fitness profile”. Câu hỏi đặt
ra là (1) làm thế nào để biết một tính trạng số lượng có liên quan đến giá trị thích nghi, (2)
trường hợp hai cá thể khác nhau về giá trị kiểu gen đối với tính trạng số lượng mục tiêu, làm
thế nào để chúng biểu hiện khác nhau về giá trị thích nghi?
Thí dụ, chúng ta có thể đo lường giá trị thích nghi và giá trị kiểu hình của mỗi cá thể.
Nếu như chúng ta thiết lập được lô số liệu “fitness” tương phản với tính trạng số lượng này,
chúng ta có thể nói rằng đó chính là “fitness profile”. Trong hình 8-2, Robertson (1955) đã
chứng minh có 3 “profile” đại diện cho tính trạng có mối quan hệ khác nhau với giá trị thích
nghi
Đường thẳng chấm chấm ở trục giữa biểu thị tính trạng số lượng được đo lường như
giá trị thích nghi.
Đường biểu diễn (1) là “profile” của một thành phần chính của giá trị thích nghi, thí
dụ như tổng số con được sinh ra. Vì đường biểu diễn tăng từ giá trị thấp nhất, nên “fitness”
tăng theo một cách tuyến tính, tương đương với giá trị thích nghi của chính bản thân nó. Ở
điểm kết thúc phía trên cùng, chúng ta thấy có một chấm biểu hiện bên trên, đó là giá trị của
tính trạng tăng lên, làm kéo theo sự giảm đi của giá trị thích nghi. Đường cong đi xuống của
“profile” ở đỉnh cực parabol là kết qủa của những tương tác với những thành phần khác.
Đường biểu diễn (2) là “profile” của các cá thể có mức độ tương ứng cao nhất, trong
đó giá trị biểu hiện của tính trạng gần với giá trị trung bình. Kích thước cơ thể của nhiều sinh
vật là xác suất của loại hình này. Tại sao các tính trạng đều đạt giá trị tối hảo trung bình là
một nội dung sẽ được thảo luận. Nhiều tính trạng cần được dự đoán có “profile” rơi vào giữa
hai đường biểu diễn (1) và (2)
Hình 8-2: Phổ giá trị thích nghi (fitness profile) với đơn vị trên hai trục là độ lệch
chuẩn SD so với trung bình (Robertson 1955)
Đường biểu diễn (3) là “profile” đại diện cho tính trạng có tính chất trung gian
(neutral), hoặc rất gần với giá trị thích nghi. Nhìn chung, không có sự khác biệt về giá trị thích
nghi trong các cá thể. Thí dụ tính trạng hình dáng bụng của ruồi Drosophila là tính trạng
thuộc về dạng này
8-2-3. Thành phần chính
Đặc điểm quan trọng của tính trạng số lượng xem xét trên đường cong số (1) của phổ
giá trị thích nghi là giá trị trung bình của quần thể, giá trị này thường thấp hơn giá trị tối hảo
của “fitness”: những cá thể ở phía trên giá trị trung bình đối với tính trạng mục tiêu là
“fitness” có giá trị lớn hơn trung bình mẫu
Chọn lọc tự nhiên làm tốt hơn sự phát triển của những cá thể, mặc dù có sự khác biệt
trên tính trạng, nhưng trung bình của tính trạng thì không hề thay đổi. Tình trạng này có thể sẽ
dẫn đến hai nội dung về di truyền: (1) cả trong trường hợp tần suất gen cao hay thấp đều
mang tính chất siêu trội (overdominant) so với giá trị thích nghi, (2) tần suất thấp của alen lặn
do hiện tượng đột biến sẽ làm cân bằng sự chọn lọc (Falconer 1989)
Giá trị
thích
nghi
Tính trạng số lượng
Trong cả hai nội dung, phương sai của tính trạng sẽ thể hiện hoạt động gen không
cộng (non-additive), và tính trội sẽ có tính chất định hướng (directional); tính trạng này sẽ có
hệ số di truyền thấp và dẫn đến hiện tượng suy giảm do cận giao (inbreeding depression)
Những gen có tần suất trung bình sẽ tạo ra nguồn biến dị mạnh hơn gen có tần suất
thấp, cho nên hấu hết các biến thiên đều phát sinh tại các loci siêu trội và hầu hết các suy
giảm do cận giao được phát sinh từ những alen lặn khá hiếm (Crow 1952). Giá trị hệ số di
truyền thấp và tính trội có định hướng đã được xác định bằng phương pháp so sánh 12 tính
trạng của ruồi Drosophila (Kearsey và Kojima 1967)
Người ta có thể nghĩ rằng fitness giống như một chỉ số mà thông qua đó, sự chọn lọc
tự nhiên tiến hành công việc chọn lọc cùng một lúc tất cả những thành phần chính (Falconer
1989). Chúng ta hi vọng những giá trị tương quan về di truyền cộng tính (additive) giữa các
tính trạng là những thành phần chính của fitness sẽ trở thành tương quan nghịch. Nhưng các
gen có tính chất mất đoạn (deleterious) sẽ tạo ra ảnh hưởng mất đoạn và đóng góp một cách
tích cực vào tương quan di truyền. Giá trị tương quan thuận đã được công bố trong thí nghiệm
của Mackay (1985).
8-2-4. Tính trạng có giá trị tối hảo trung bình
Tính trạng có phổ giá trị thích nghi trong đường biểu diễn số (2), hình 8-2 cho thấy:
đây là trường hợp biểu hiện giá trị tối hảo trung bình (intermediate optimum). Những cá thể
có giá trị của tính trạng mục tiêu gần kề với giá trị trung bình của quần thể, chúng đạt được
“fitness” cao nhất. Sự chọn lọc có khuynh hướng thiên về giá trị trung bình như vậy. Sự chọn
lọc như thế này được gọi là sự chọn lọc ổn định (stabilizing selection).
Tuy nhiên, thuật ngữ “giá trị tối hảo trung bình” và “chọn lọc ổn định” được sử dụng
có tính chất không rõ ràng về ý nghĩa. Nó có thể được sử dụng trong cách mô tả (description)
một phổ giá trị thích nghi, trong đó, các giá trị “intermediates” chính là giá trị “fitness” cao
nhất.
8-2-5. Ảnh hưởng của chọn lọc ổn định
Câu hỏi thường đặt ra cho chúng ta là: làm thế nào sự chọn lọc ổn định ảnh hưởng đến
các gen điều khiển tính trạng mục tiêu? Việc trả lời câu hỏi này vô cùng phức tạp để có lời
giải chi tiết. Trước tiên, nó tùy thuộc vào “chọn lọc ổn định” có thực sự hiện hữu hay chỉ là
hiện tượng ảo. Nếu nó là hiện tượng ảo (spurious), thì không có cách nào để hiểu ảnh hưởng
của nó trong khi chúng ta không biết gì về thành phần của giá trị thích nghi đang được chúng
ta chọn lọc (Robertson 1956). Những gen điều khiển thành phần chính của tính thích nghi có
thể là gen đa tính trạng (pleiotropic effects). Ảnh hưởng gen đa tính trạng này biểu hiện tính
chất cộng tính (additive) nhiều hay ít.
Những cá thể có giá trị trung bình của tính trạng mục tiêu phải là dị hợp tử ở các loci
nhiều hơn so với cá thể khác tập họp ở hai cực đối diện trong phân bố chuẩn. Nếu loci nào có
ảnh hưởng siêu trội đối với giá trị thích nghi, thì chọn lọc tự nhiên sẽ thiên về hướng dị hợp
tử, kết qủa sẽ thiên về cá thể có giá trị trung bình đối với tính trạng ấy.
Chọn lọc ổn định thực sự (real stabilizing selection) sẽ có hai ảnh hưởng chính:
- Nó thiên về kiểu gen có ít biến dị nhất (Curnow 1964). Do đó, nó có xu hướng cố định
những gen điều khiển tính chất ổn định lớn nhất (trừ trường hợp kiểu gen ít biến dị là
dị hợp tử), ảnh hưởng đến giá trị trung bình của tính trạng
- Nó có xu hướng làm giảm phương sai di truyền của tính trạng mục tiêu (Bulmer
1976). Càng gần giá trị trung bình, càng tạo ảnh hưởng lớn nhất trong sự mất cân bằng
ở pha giao tử. Sự chọn lọc sẽ tạo ra những ảnh hưởng có tính chất “allelic” ở những
loci khác nhau, để rồi chúng hình thành những mối quan hệ âm tính trong các kiểu gen
của cá thể. Phân tích hợp sai (covariance) cho kết qủa âm, và phương sai di truyền
giảm. Cho đến khi các gen liên kết với nhau, sự chọn lọc có xu hướng tái lập lại những
phối hợp mang tính chất “cân bằng”, trong đó, những gen liên kết biểu thị dạng liên
kết thúc đẩy (repulsion linkage, trans), cho nên ảnh hưởng của nhiễm sắc thể nói
chung bị tối thiểu hóa. Tuy nhiên, chọn lọc lại trở nên rất mạnh mẽ, hoặc liên kết trở
nên chặt chẽ hơn nhằm mục đích duy trì các gen trong những phối hợp nhất định, mà
những phối hợp như vậy thật sự khác với hiện tượng sắp xếp ngẫu nhiên.
8-2-6. Chọn lọc đột phá
Chọn lọc đột phá (disruptive selection) là một trạng thái ngược lại của chọn lọc ổn
định, những giá trị trung bình được chọn lọc trở lại. Đây là ảnh hưởng đối nghịch với chọn lọc
ổn định, làm gia tăng cả phương sai do di truyền và phương sai do môi trường. Những ảnh
hưởng như vậy được quan sát trong thí nghiệm (Halliburton và Gall 1981), phương sai kiểu
gen và môi trường đều gia tăng khi nghiên cứu trọng lượng của Tribolium.
8-2-7. Tính trạng trung tính (neutral)
Tính trạng trung tính đối với giá trị thích nghi có một “profile” giống như đường biểu
diễn số (3), hình 8-2. Một quần thể được xác định bởi một vài thế hệ thông qua chọn lọc có
định hướng đối với tính trạng mục tiêu. Khi giá trị trung bình bắt đầu thay đổi so với giá trị
nguyên gốc của nó, sự chọn lọc trở nên có tính chất bị treo (suspended), và quần thể của nó
trở thành một quần thể lai ngẫu nhiên, chỉ có chọn lọc hoàn toàn tự nhiên. Nếu giá trị trung
bình không quay về trạng thái nguyên gốc của nó, hoặc trở lại rất chậm chạp, người ta có thể
kết luận rằng: đây là tính trạng trung gian, hay trung tính (neutral character), hay gần như
trung tính.
8-3. ĐÁP ỨNG CỦA GIÁ TRỊ THÍCH NGHI ĐỐI VỚI CHỌN LỌC
Chúng ta thử xem xét trường hợp những quần thể không cân bằng, trong đó ”fitness”
không đạt giá trị tối đa, và có phương sai di truyền biểu hiện tính chất cộng tính đối với
“fitness”. Làm thế nào để giá trị thích nghi tăng nhanh trong điều kiện chọn lọc tự nhiên?
Câu hỏi này có một giải pháp rất thú vị theo lý thuyết cơ bản của Fisher. Lý thuyết này
giả định rằng sự gia tăng của “fitness” trong một thế hệ tương đương với phương sai di truyền
có tính chất cộng tính của “fitness”.
Đáp ứng của chọn lọc đối với tính trạng số lượng được dự đoán theo phương trình
R = h2S
Giá trị chọn lọc S là trung bình của bố mẹ được chọn, có đóng góp tương đối vào con
lai theo kết qủa đáp ứng được đánh giá. Thích nghi phải thể hiện ở giá trị tương đối “relative
fitness”. Gọi k là số con lai của một cá thể đặc biệt nào đó,
và k là trung bình của của số con lai đối với tất cả cá thể trong thế hệ
Giá trị thích nghi tương đối (relative fitness) của cá thể:
W = k / k
Giá trị thích nghi tương đối trung bình (mean relative fitness):
W = 1
Giá trị thích nghi tương đối còn là biểu thị của sự đóng góp của cá thể W - W
Gọi N là tổng số cá thể trong thế hệ bố mẹ, giá trị “selection differential” đối với thích
nghi tương đối sẽ là:
Σ W( W - W)
SW = -------------------------------------
N
Σ W2 Σ W
= ---------- - ----------- W
N N
SW = W
2 - (W)2
= σW
2
= VP(W) [1]
Cường độ chọn lọc bằng với độ lệch chuẩn (căn bậchai của phương sai)
iW = SW / σW = σW [2]
Đáp ứng của “fitness” đối với chọn lọc tự nhiên tương đương với phương sai di truyền
của fitness
RW = hW
2 Vp(W)
= VA(W) [3]
Đáp ứng có tính chất tương quan:
Thí dụ, có người nghĩ rằng trong chọn lọc tự nhiên có thể làm giảm chỉ số thông minh
của loài người, vì trẻ con từ những gia đình đại chúng có chỉ số IQ thấp hơn so với gia đình
đóng vai trò thiểu số. Nói cách khác, có một giá trị “selection differential” mang tính chất
tương quan đối với chỉ số IQ bị suy giảm. Trong trường hợp này, lý thuyết về giá trị
“selection differential ” bị thất bại vì hai lý do: (1) bố mẹ với fitness bằng 0 sẽ không có trẻ
con và như thế sẽ không thể xuất hiện những số liệu, (2) nó lệ thuộc vào tương quan giữa
fitness của bố mẹ với chỉ số IQ của trẻ con. Chỉ số IQ của bố mẹ tương ứng với chỉ số IQ của
con cái thuộc thế hệ tiếp sau đó được xem như một cách đo lường về giá trị thích nghi, giá trị
“selection differential” tương quan dương (Waller 1971)
Giá trị “selection differential” mang tính chất tương quan S’Y đối với tính trạng Y:
Σ W (Y - Y )
S’Y = --------------------------------, suy từ [1] ta có thể viết lại
N
S’Y = Cov P(YW) [4]
Giá trị “selection differential” mang tính chất tương quan tương đương với covariance
kiểu hình của tính trạng của fitness. Đáp ứng tương quan có thể được ghi nhận theo phương
trình:
CRY = Cov A(YW) [5a]
Hợp sai có tính chất cộng tính (additive) của tính trạng Y với fitness đã được ghi nhận.
Như vậy, hợp sai còn có thể được viết trên cơ sở tương quan di truyền và hệ số di truyền
CRY = rA hY hW σY σW [5b]
σ biểu thị độ lệch chuẩn của kiểu hình, phương trình 5a được phát triển bởi
(Robertson 1966) trong khi nghiên cứu về bò sữa.
8-4. NGUỒN GỐC BIẾN DỊ DO ĐỘT BIẾN
Cả hai hiện tượng chuyển dịch ngẫu nhiên (random drift) và chọn lọc ổn định đều có
xu hướng làm giảm biến dị di truyền. Hiện tượng đột biến sẽ tạo ra biến dị di truyền mới với
mức độ vừa đủ, sao cho thỏa mãn một yêu cầu tương tác theo xu hướng như vậy. Chúng ta
hãy xem xét ảnh hưởng cân bằng giữa đột biến và chuyển dịch ngẫu nhiên mà không có sự
chọn lọc nào tác động vào. Nguồn gốc biến dị có thể được ước đoán từ các dòng cận giao,
theo phương pháp quan sát có bao nhiêu biến dị tích tụ khi một dòng cận giao được giao phối
ngẫu nhiên, hoặc được chọn lọc theo một tính trạng số lượng nào đó mà không có cận giao
tiếp sau đó.
Thí dụ, người ta lấy ra 1000 thế hệ để xử lý đột biến nhằm duy trì biến dị di truyền so
với trạng thái nguyên gốc của nó. Gọi VE là phương sai do đột biến, thì tần suất của phương
sai có tính chất môi trường là Vm sẽ là 10
-3VE.
Những phương sai đột biến của những tính trạng khác trong những loài khácnhau
cũng sẽ tiếp cận giá trị 10-3VE (Lynch 1988)
Khi phương sai do đột biến được cân bằng do mất đi hiện tượng chuyển dịch ngẫu
nhiên, thì phương sai di truyền của quần thể bấy giờ Ne sẽ là 2NeVm. Phương sai kiểu hình sẽ
là 2NeVm + VE và hệ số di truyền đựợc biểu thị như sau
2NeVm
h2 = ------------------------------
2NeVm + VE
Đây là hệ số di truyền theo nghĩa rộng, bởi vì Vm bao gồm tất cả phương sai di truyền,
không phải chỉ có tính cộng. Thay Vm = 10
-3VE, hệ số di truyền được viết lại như sau
0,002 Ne
h2 = ------------------------------
1 + 0,002Ne
Như vậy, đối với các qui mô quần thể khác nhau, ta sẽ có được giá trị của hệ số di
truyền như sau:
Ne = 100 1000 10000
h2 = 0,17 0,67 0,95
8-5. NHỮNG GEN GÂY RA BIẾN DỊ SỐ LƯỢNG
Người ta cần phải nghiên cứu bản chất chất của những gen gây ra biến dị số lượng đối
với các tính trạng số lượng. Người ta cũng chưa có minh chứng nào cho thấy có một nhóm
gen đặc biệt như vậy (Thoday 1977). Dường như có một nhóm gen ảnh hưởng đến tính trạng
số lượng, ảnh hưởng này chí có tính chất thứ yếu so với chức năng chính của nó trong qúa
trình phát triển và biến dưỡng. Câu hỏi trên gợi ra một tính chất rất ít chọn lọc đối với sự kiện
như vậy. Câu hỏi này còn liên quan đến tính trạng gì, không hoàn toàn liên quan đến giá trị
thích nghi (fitness), mà biến dị của nó phát sinh từ những gen bị hủy diệt một cách không điều
kiện.
Người ta phải phân biệt những dòng biến dị có tính chất “allelic” của một gen nào đó
trước khi quan sát ảnh hưởng của nó đối với một tính trạng số lượng mục tiêu.
Tính đa hình của protein trong điện di sẽ cung cấp cho chúng ta thông tin dễ hiểu nhất
về những dòng biến dị có tính chất “allelic” như vậy. Đặc biệt trong trường hợp nghiên cứu về
tính miễn dịch (immunology).
Có hai cách để quan sát ảnh hưởng của chúng gây ra:
• Cách thứ nhất là so sánh giá trị trung bình của tính trạng nghiên cứu trong những kiểu
gen khác nhau trên cùng một locus. Thí dụ như ảnh hưởng của 10 loci qui định nhóm
máu của bò sữa bằng cách so sánh trọng lượng cơ thể, năng suất sữa, tỉ lệ chất béo
trong sữa của những cá thể bò với nhiều alen khác nhau (Robertson 1966).
• Cách thứ hai là theo dõi sự thay đổi tần suất gen ở locus protein do chọn lọc nhân tạo
đối với tính trạng số lượng. Thí dụ như: có ít nhất 3 trong 8 loci của enzyme có ảnh
hưởng đến năng suất cây bắp (Stuber và ctv. 1980)
Nếu một locus ảnh hưởng đến một tính trạng số lượng nào đó, thì ảnh hưởng này hầu
như không phải do một sản phẩm của gen gây ra. Những gen có tính chất điều tiết (regulatory
genes) điều khiển số lượng cần và đủ của sản phẩm gen, chính là nguồn của biến dị đối với
tính trạng số lượng này (Hedrick và McDonald 1980). Nhưng chúng ta còn có rất ít những
bằng chứng cụ thể. Tính kháng của aphid đối với thuốc trừ sâu nhờ sự điều tiết hàm lượng
esterase là một minh chứng
8-5-1. Tính trội và hoạt tính của enzyme
Biến thiên của giá trị thích nghi và những thành phần chính của nó đều do những gen
lặn có tính chất tự hũy diệt gây ra ở những tần suất thấp. trong khi đó, biến thiên của tính
trạng gần như không liên quan gì đến giá trị thích nghi, chủ yếu do các gen có một ít tính trội,
ở tần suất trung bình (Falconer 1989)
Hiện tượng này thể hiện từ những giá trị về hệ số di truyền, hoặc phương sai di truyền
của hoạt động gen không cộng tính, và sự suy thoái do cận giao
Tính trội có thể được kết luận trong trường hợp này. Trong quá trình biến dưỡng, mỗi
enzyme có chức năng trong mỗi giai đoạn khác nhau, trong một chuỗi biến đổi kế tiếp nhau.
Chúng ta xem xét những bước trong quá trình biến dưỡng mà sản phẩm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuong-8.pdf