CHƢƠNG II CHOÒNG KHOAN
2.1 CÔNG DỤNG VÀ PHƢƠNG PHÁP PHÂN LOẠI CHOÒNG
2.1.1 Công dụng của choòng.
2.1.2 Phƣơng pháp phân loại choòng
Do tính chất đa dạng của phương pháp khoan, tính chất cơ lý của đất đá và
yêu cầu về kỹ thuật địa chất cũng như kỹ thuật thi công nên mũi khoan được
chế tạo theo nhiều dạng khác nhau về nguyên tắc phá huỷ đất đá cũng như về
cơ quan cấu trúc, vì vậy việc phân loại choòng khoan cũng được thực hiện
theo nhiều quan niệm:
2.1.2.1Theo cấu trúc choòng đƣợc chia ra:
Choòng cánh dẹt,
Choòng chóp xoay,
Choòng kim cương.
Theo công dụng mà choòng đƣợc chia ra:
Choòng phá mẫu,
Choòng lấy mẫu,
Choòng đặc biệt (choòng mở lỗ, choòng bậc, choòng doa rộng,
choòng để khoan định hướng.
Theo cấu trúc lỗ thoát nƣớc mà choòng đƣợc chia ra:
Choòng có vòi phun thuỷ lực,
Choòng có nước chảy đều.
Theo tính chất phá huỷ đất đá mà choòng đƣợc chia ra:
Choòng mềm,
Choòng cứng,
Choòng trung bình,
Choòng kề cận mài mòn và ít mài mòn.2.2 Các loại choòng trong khoan dầu khí:
2.2.1 Cấu tạo chung
2.2.1.1Cấu trúc
Cấu trúc của một choòng khoan bao gồm 3 bộ phận chính: phần hoạt động, hệ
thống dẫn dung dịch, phần lắp nối. Riêng choòng chóp xoay có thêm một bộ
phận đặc thù đó là hệ thống ổ tựa.
2.2.1.2Phần hoạt động
Là phần trực tiếp tác dụng với đất đá nhờ các răng dạng nêm, lưỡi cắt, răng
hợp kim cứng định hình hoặc kim cương. Các răng này được bố trí trên các
mặt tiếp xúc với đáy và thành lỗ khoan nhằm tạo cho lỗ khoan có hình dạng
và kích thước nhất định.
2.2.1.3Hệ thống dẫn dung dịch
Được bố trí ở khoảng trống giữa thân choòng và được dẫn xuống đáy nhằm
đáp ứng yêu cầu làm sạch đáy lỗ khoan và làm mát choòng khoan. Nếu vận
tốc dòng dung dịch khi đi qua khỏi vòi nhỏ hơn 70m/s thì được xem là hệ
thống rửa thường, (vòi được dẫn liền với thân), nếu lớn hơn 70130m/s được
gọi là choòng có vòi phun thuỷ lực. Vòi được chế tạo bằng vật liệu bền, chịu
mài mòn cao như hợp kim gốm, thép gió thành một chi tiết riêng có thể thay
thế được.
2.2.1.4Phần lắp nối
Là phần nối giữa choòng khoan với phần dưới của cột cần khoan, truyền năng
lượng cần thiết cho phần hoạt động. Trong khoan dầu được nối bằng ren là
chủ yếu, có thể bằng ren trong hoặc ren ngoài.
89 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 21/05/2022 | Lượt xem: 445 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giáo trình Công nghệ khoan dầu khí (Phần 2) - Lê Quang Duyến, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a dưới. Khi bơm xong rút chốt (8) để giải
phóng rút trám trên và tiếp tục bơm dung dịch ép
qua đường ống trên (2).
5.2.2.4 Nút trám xi măng
Để tránh cho dung dịch xi măng khỏi bị
trộn lẫn với dung dịch khoan và dung dịch ép do
sự tiếp xúc giữa chúng, bên trong ống
chống người ta dùng nút trám để cách ly chúng. Trong quá trình trám xi măng
thông thường người ta dùng hai nút trám. Nút trám dưới dùng để quét sạch
dung dịch khoan ra khỏi mặt trong cột ống chống. Nút trên để
1 3
1
2
2
a. b.
Hình 5.14 Các nút trám xi măng
a. Nút dưới: 1. Màng ngăn; 2. Thân cao
su;
3. Khung nhôm.
b. Nút trên: 1. Thân cao su ; 2. Lõi nhôm
ngăn cách giữa vữa xi măng và
dung dịch ép khi bơm ép. Có
nhiều loại nút trám khác nhau như
nút làm bằng gỗ, bằng chất dẻo...
Thông thường được sử dụng rộng
rãi nhất là các nút cao su có lõi
nhôm (Hình 5.14). Nút dưới cho
phép tự chọc thủng qua màng
ngăn khi tăng áp suất dư tại thời
điểm nó tỳ lên vòng dừng.
5.2.3 Các phƣơng pháp trám xi măng
Trong công tác trám xi măng chúng ta có thể phân biệt các loại trám
sau đây:
Trám ban đầu: Được tiến hành ngay sau khi thả ống chống vữa xi
măng được bơm ép ra bên ngoài cột ống chống.
Trám bổ sung: Hay gọi là trám sửa chữa được tiến hành trong trường
hợp trám ban đầu không thành công.
Trám đặc biệt: Được tiến hành trám trong những trường hợp đặc biệt
như đổ cầu xi măng, trám những vùng mất nước...
Trong phạm vi bài giảng chúng ta chỉ đề cập đến các phương pháp trám
xi măng ban đầu.
4.2.3.1 Phƣơng pháp trám một tầng
Đây là phương pháp trám xi măng phổ biến nhất, quá trình trám được
tiến hành như sau:
Sau khi rửa sạch lỗ khoan (hình 5.15a) thì tiến hành kiểm tra tất cả mọi
thiết bị. đường ống từ xe trám xi măng đến đầu trám xi măng cần được thử rò
với áp suất lớn hơn áp suất bơm trám tối đa là 1,5 lần, cần phải duy trì áp suất
thử trong vòng 3 phút.
Trước khi bơm vữa xi măng vào bên trong ống, thả nút trám dưới,
bơm chất lỏng đệm, bơm vữa xi măng xuống lỗ khoan theo đường ống
phía dưới của đầu bơm trám (hình 5.15b).
a. b. c. d. e.
Hình 5.15 Quá trình trám xi măng một tầng
Sau khi kết thúc giai đoạn bơm dung dịch xi măng, tiến hành giải
phóng nút trên ở đầu bơm trám. Nút trám trên được ép ra khỏi đầu bơm trám
và vữa xi măng dịch chuyển xuống phía chân ống giữa hai nút trám (hình
5.15c). Tại thời điểm nút trám dưới tỳ lên vòng dừng, dưới tác dụng của áp
suất dư, nút này tự chọc thủng, vữa xi măng đi qua nó, qua van ngược xuống
đế và dâng lên ở khoảng không vành xuyến (hình 5.15d).
Tiếp tục bơm dung dịch ép (chất lỏng bơm đẩy) cho đến khi nút trên tỳ
lên nút dưới (hình 5.15e) và đây là thời điểm kết thúc quá trình trám. ở thời
điểm này áp suất trên áp kế tăng lên đột ngột. Trị số tăng áp suất phụ thuộc
vào người phụ trách công tác trám xi măng thông thường không lớn hơn 5
10at so với áp suất cực đại trước khi các nút trám chập nhau. Sau khi quá
trình trám xi măng kết thúc, lỗ khoan được giữ yên tĩnh, các van ở đầu trám
xi măng được khoá kín trong thời gian cần thiết để cho dung dịch xi măng
đông rắn.
Tốc độ dâng lên của dung dịch xi măng ở ngoài ống chống không được
nhỏ hơn 1,5m/s đối với ống chống dẫn hướng và trung gian, không nhỏ hơn
1,8 2m/s đối với ống chống khai thác.
5.2.3.2 Trám xi măng hai tầng
1
2
1. ống chống 6
2. Đầu nối 4
3. Lỗ thoát bên cạnh
4. ỗng lót trên 3
5. ống lót dưới
6. Chốt tự cắt 5
Phương pháp trám xi
măng hai tầng được áp dụng
trong những giếng khoan có độ
sâu lớn và phải trám với một
khối lượng dung dịch xi măng
lớn. Dùng phương pháp trám xi
măng hai tầng cho phép giảm áp
suất cực đại trong giai đoạn cuối
của quá trình bơm trám. Ở
những giếng khoan có nhiệt độ ở
đáy cao, thời gian ngưng kết cao
dung dịch xi măng bị giảm đi
rất
Hình 5.16 Đầu trám phân tầng
a. b. c.
Hình 5.17 Quá trình trám xi măng phân tầng
nhiều. Dùng phương pháp trám xi măng 2 tầng có thể rút ngắn thời gian cho
phép bơm trám.
Để trám xi măng hai tầng cần đặt trong cột ống chống một đầu nối
chuyên dụng (hình 5.16).
Quy trình trám xi măng hai tầng được tiến hành như sau (hình 5.17):
Thả cột ống chống có lắp đầu định hướng, chân đế, ống chân đế, van
ngược và mufta chuyên dụng và tiến hành bơm rửa lỗ khoan để chuẩn bị trám.
Trước khi thả xuống lỗ khoan, đầu nối chuyên dụng phải được thử trên mặt
đất. Chuẩn bị lỗ khoan xong bơm phần vữa xi măng thứ nhất, sau đó thả nút
trám dưới (nút tám dưới được chế tạo để có khả năng chui qua đầu nối chuyên
dụng dễ dàng), sau đó bơm phần dung dịch ép thứ nhất đã tính toán và thả nút
đóng (hình 5.17a). Tiếp theo sau nút đóng bơm phần vữa xi măng trám tầng 2
và thả nút trám trên và bơm tiếp phần dung dịch ép để trám tầng theo tính
toán (hình 5.17b). Nút này được ép xuống phía dưới nhờ lượng dung dịch ép
thứ hai. Nút đóng đi xuống và đến một thời điểm nhất định nó sẽ tỳ lên đế
của ống lót dưới (5). Do tác dụng của cột nước và áp lực bơm, ống lót dưới
cắt đứt các chốt định vị (6) rồi dịch chuyển xuống phía dưới và được giữ lại ở
đế. Các lỗ thoát xung quanh (3) được mở ra. Giai đoạn trám thứ nhất kết thúc
và bắt đầu trám ở giai đoạn 2. Vữa xi măng trám phần trên chui ra ngoài qua
lỗ thoát (3) và được ép lên trên bên ngoài cột ống chống. Nút trám trên bị ép
dần xuống và tỳ lên đế của ống lót trên (4). Do tác dụng của áp lực, ống lót
(4) cắt các chốt định vị (6) và chuyển động xuống phía dưới đóng kín các lỗ
thoát (3) (hình 5.17c). Ở thời điểm đó áp suất ở đầu bơm trám tăng lên đột
ngột và việc trám xi măng kết thúc. Sau khi xi măng đã đông rắn, tháo đầu
trám xi măng, thả cần khoan và choòng khoan để khoan phá các nút trám và
cốc xi măng trong chân đế, kiểm tra độ cao dâng lên của phần vữa xi măng
thứ nhất và thứ hai.
5.2.3.3 Trám xi măng ống chống phần dƣới có lắp ống lọc
Khi khoan vào các vỉa dầu khí có lưu lượng nhỏ. Nếu sử dụng các
phương pháp trám xi măng thông thường thì có nguy cơ làm "xi măng hoá"
các tầng chứa và vì thế mà làm giảm rất nhiều năng suất của giếng khoan.
Trong trường hợp đó người ta lắp ở phần dưới của cột ống khai thác, trong
khu vực vỉa dầu khí bằng ống đục lỗ (ống lọc) và tiến hành
trám xi măng có măng rét. Trang bị phần dưới
của cột ống chống khi trám có măng rét như hình
5.18.
Trong quá trình trám, vữa xi măng chảy từ
trong ống chống ra ngoài, qua lỗ thoát (1), các lỗ
này nằm bên trên ống lọc. phía dưới lỗ có lắp
một van thuận (2), van này chỉ cho chất lỏng
chảy từ dưới lên, còn phía bên ngoài thì lắp
1
2
Hình 5.18 Măng rét
1.Lỗ thoát; 2. Van thuận
măng rét hình phễu. Công dụng của măng rét là
ngăn không cho vữa xi măng không chảy xuống
phía dưới phần ống lọc.
Măng rét là một cái phễu làm bằng vật
liệu đàn hồi, cao 6070cm. Đường kính trên của măng rét lớn hơn đường kính
của lỗ khoan một ít. Măng rét được mở ra dưới tác dụng của dòng chất lỏng.
5.2.2.4 Trám xi măng cột ống chống lửng
Để treo cột ống chống lửng
vào vành đá xi măng cũng như
phục vụ cho quá trình trám xi
măng cột ống chống này, người ta
sử dụng đầu nối chuyên dụng đặc
biệt (hình 5.19) để nối ống chống
với cần khoan.
Phương pháp trám xi măng
với đầu nối này được tiến hành như
sau:
1
2
5
1. Đầu nối với cần khoan
3
2. Bi
4
3. ống lót
4. Lỗ thoát xung quanh
6
5. Chốt định vị
6. Mufta ren trái.
7
7. Đế
8. ống chống
8
Hình 5.19 Đầu nối trám ống chống
lửng
Bơm vữa xi măng đã tính toán vào bên trong cần khoan và sau đó bơm
tiếp dung dịch ép để ép vữa xi măng qua van ngược và đế ống chống để dâng
lên bên ngoài ống chống. Thả viên bi (2), thời gian thả viên bi cần tính toán
sao cho khi vữa xi măng dâng lên ở chiều cao cần thiết, viên bi sẽ tỳ lên ống
lót (3) dưới tác dụng của áp lực dư chốt (5) bị cắt, ống lót (3) chuyển dịch
xuống phía dưới và dừng lại ở đế (7), lỗ thoát (4) được mở ra.
Dung dịch ép sẽ chui qua lỗ thoát (4) và quét sạch phần dung dịch xi
măng dâng lên phía trên đầu nối. Để viên bi làm việc đúng thời điểm, người
ta tính thời gian chuyển động của viên bi trong dung dịch ép và khoảng thời
gian này người ta bơm lượng dung dịch ép cuối cùng với vận tốc lớn nhất của
thiết bị bơm trám.
3.2.7 toán trám xi măng
5.2.4.1 Xác định lƣợng nƣớc và xi măng cần thiết để trộn
Để tính toán lượng nước và xi măng khô
cần thiết để pha chế chúng ta cần tính toán thể
tích của dung dịch xi măng cần thiết để trám.
Theo hình 5.20 ta có:
hDHDDHDDV tnttnlkdx 2222122
4
(5.34)
trong đó
Dlk: Đường kính lỗ khoan
Dlk = K.Dc (5.35)
K: Hệ số mở rộng thành,
H H2
Hc
H1
h
Hình 5.20 Thể tích vữa
trám
Dc: Đường kính choòng,
Dn, Dt: Đường kính ngoài và đường kính trong của ống chống,
Dtt: Đường kính trong của ống trước đó,
Hc. Chiều cao trám xi măng,
h: Chiều cao cốc xi măng,
Trong quá trình trám khi nút xi măng trên chuyển động bên trong cột
ống nó sẽ nạo màng sét bên trong cột ống. Do đó phần dung dịch xi măng
bơm sau cùng dễ bị trộn lẫn với dung dịch sét này. Để đảm bảo chất lượng đá
xi măng ở phần dưới ống chống. Phần vữa xi măng này được giữ lại bên
trong ống với một chiều cao h =20 30m và được gọi là cốc xi măng.
5.2.4.2 Lƣợng xi măng khô, lƣợng nƣớc, dung dịch ép cần thiết
Lƣợng xi măng khô cần thiết để pha chế
dx
dx
dxxx V
m
KVqKG
1
.. 22
(5.36)
Với
K2: Hệ số hao hụt xi măng bột, K2 = 1,03 1,06
m: Tỷ lệ nước và xi măng bột để pha chế,
qx: Lượng xi măng để điều chế 1 m
3
vữa xi măng,
dx: Trọng lượng riêng của vữa xi măng.
Thể tích nƣớc cần thiết để pha chế
Vn = m .Gx (5.37)
Thể tích của dung dịch ép
Thể tích dung dịch ép bơm sau dung dịch xi măng được tính tương ứng
với thể tích bên trong cột ống chống kể từ vòng dừng đến miệng:
hHDV ttbde
2
4
(5.38)
trong đó
: Hệ số nén của dung dịch = 1,03 1,05,
Dttb: Đường kính bên trong trung bình của cột ống chống.
hH
DlDlDl
D tnnttttb
22
22
2
112 ... (5.39)
với l1, l2...ln, D1, D2...Dn: Chiều dài và đường kính bên trong của các đoạn
ống.
5.2.4.3 Áp suất cực đại ở đầu bơm trám
Áp suất làm việc cực đại ở đầu bơm trám đạt được tại thời điểm cuối
của quá trình trám, khi mà nút trám trên tỳ lên nút trám dưới ở vòng dừng. Áp
suất này bao gồm 2 thành phần chính:
Pmax = Pth + Pcl (5.40)
trong đó
Pth: Áp suất tiêu thụ để thắng sức cản thuỷ lực trong quá trình tuần
hoàn xác định theo (5.10)
Pcl: Áp suất sinh ra do sự chênh lệch trọng lượng riêng giữa vữa xi
măng và dung dịch ép:
10
dedcdedxc
cl
HHhH
P
(5.41)
Nếu d = de thì
10
dedxc
cl
hH
P
(5.42)
Thiết bị bơm trám được chọn dựa theo áp suất cực đại trong quá trình
bơm trám.
5.2.4.4 Kiểm tra chất lƣợng trám xi măng
Trám xi măng xong các van trên đầu trám được đóng lại, giếng khoan
được giữ yên tĩnh trong thời gian chờ cho dung dịch xi măng đông
O T
Mực xi măng
rắn. Thời gian đông rắn phụ thuộc vào chất
lượng xi măng, tỉ lệ nước - xi măng, chiều
sâu lỗ khoan, công dụng của cột ống chống
được trám xi măng, nhiệt độ và áp suất ở
đáy lỗ khoan.
Trong mọi điều kiện, thời gian
đông rắn không quá 24h. Quá trình đông
rắn xi măng là quá trình toả nhiệt. Vì vậy,
thành lỗ khoan, ống chống và dung dịch ở
trong và ngoài ống chống đều được sấy
nóng lên.
H
Hình 5.21 Biểu đồ nhiệt kiểm
tra chất lƣợng trám xi măng
Theo các số liệu thực tế, do quá trình toả nhiệt này mà áp lực ở đầu
trám tăng lên và đạt trị số khá lớn. Trong trường hợp áp lực tăng đến trị số
nguy hiểm đối với ống chống đang trám thì phải giảm áp lực bằng cách
mở các van của đầu trám.
Sau thời gian đông rắn dung dịch xi măng, người ta thả nhiệt kế xuống
lỗ khoan để xác định độ cao dâng lên thực tế của dung dịch xi măng ở ngoài
cột ống.
Quá trình đông rắn của dung dịch xi măng sẽ toả nhiệt nhiều nhất vào
thời gian 5 - 10h sau khi quấy trộn. Vì vậy muốn xác định độ cao của xi măng
cần phải thả nhiệt kế điện xuống lỗ khoan trong vòng 24 h kể từ lúc kết thúc
trám. Ranh giới trên của xi măng được xác định bởi sự tăng nhiệt độ một cách
đột ngột (hình 21).
Để xác định chiều cao trám Hc cũng như độ đồng đều của vành đá xi
măng, hiện nay người ta sử dụng rộng rãi phương pháp phóng xạ. Thực chất
của phương pháp này là dùng dung dịch xi măng có cho thêm chất phóng xạ
để trám lỗ khoan và sau khi xi măng đã đông rắn ở chung quanh ống chống,
người ta ghi lại đường cong biểu thị sự thay đổi cường độ của tia phóng xạ
gama theo độ sâu lỗ khoan. Phương pháp này thu được kết quả rõ ràng,
không phụ thuộc vào độ sâu lỗ khoan, lượng xi măng trám và thời gian từ lúc
bắt đầu trám đến lực bắt đầu đo. Ngoài ra phương pháp này còn có khả năng
nghiên cứu sự phân bố đều của vữa xi măng ở ngoài cột ống.
Sau khi xác định được độ cao của vữa xi măng, lắp các thiết bị miệng
giếng khoan và thả choòng mũi nhọn vào ống chống để khoan phá các nút
trám, cốc xi măng đã đông cứng, các chi tiết ở phần chân của ống chống. Sau
đó thử độ kín của cột ống khai thác bằng phương pháp bơm ép nhờ các xe
trám xi măng .
Trong các lỗ khoan thăm dò, ngoài phương pháp ép có thể dùng
phương pháp hạ thấp mực nước để thử.
aaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaaa
3.2.8 Phân loại các phƣơng pháp gia cố giếng khoan.
3.2.9 Chống ống và trám xi măng.
3.2.9.1 Chống ống giếng khoan.
3.2.9.2 Trám xi măng giếng khoan.
Tên đề tài: “các giải pháp chống phun cho công nghệ dƣới cân bằng”
A.Giới thiệu về công nghệ khoan dƣới áp suất cân bằng.
B.Các thiết bị kiểm soát giếng khoan.
Khác với công nghệ khoan trên cân bằng truyền thống, trong công nghệ khoan dưới
cân bằng luôn có dòng chất lưu chảy từ vỉa vào giếng do áp suất thuỷ tĩnh của cột dung
dịch tạo ra ở đáy giếng luôn nhỏ hơn áp suất của vỉa (Ptt <Pv). Dòng chảy đó có áp
suất cao, nó có thể tạo ra hiện tượng phun trào lên bề mặt. Sẽ là một việc rất nguy
hiểm nếu điều đó xảy ra vì :
+ Sẽ gây thiệt hại lớn về kinh tế.
+ Gây nguy hiểm đến tính mạng của con người.
+Gây ô nhiễm môi trường.
Vì vậy khi khoan dưới cân bằng người ta bắt buộc phải sử dụng các thiết bị kiểm soát
giếng như một biện pháp chính để chống phun. Các thiết bị trực tiếp kiểm soát giếng
bao gồm:
+ Các thiết bị phụ trợ (Auxiliary Well Control Equipement).
+ Thiết bị chống phun trào ( BOP-BlowOut Preventer).
Sau đây nhóm tôi xin trình bày sơ lược về các loại thiết bị trên.
1.Các thiết bị phụ trợ (Auxiliary Well Control Equipement).
1.1.Van phao cần khoan ( Drill Pipe Float Valves).
Loại van này thường được lắp trực tiếp trên choòng khoan. Bình thường ta có thể coi
nó như một loại van một chiều. Chúng chỉ cho phép dung dịch trong cần đi xuống và
đóng lại ngay khi dừng bơm. Khi kéo hoặc thả cần, chức năng chính của chúng là ngăn
ngừa dòng chất lỏng phun ngược lên trong cần khoan. Ngoài ra , chúng còn giúp kiểm
soát dòng chảy ở đáy cần khi kéo thả hoặc đóng giếng. Kiểu van này có hai loại thong
dụng là:
+ Van phao lò xo (Spring-LoadedFloatvalves).
+ Van phao dạng bản lề (flapper- type FloatValves).
1.2. Đối áp trong cần loại Gray (Gray inside BOP).
Đối áp loại van Gray được đặt ở đỉnh cột cần khoan khi dầu khí xâm nhập trong quá
trình nâng thả bộ dụng cụ, cho phếp hạ bộ khoan cụ trong giếng khoan đóng. Điểm đặc
biệt trong cấu tạo của loại này là chúng có một bộ phận để xả đặc biệt. Do đó nó sẽ xả
được dòng chất lưu xâm nhập khi kéo thả cần, bảo vệ các bộ phận phía trên nó.
1.3. Van bảo vệ cần nặng (Kelly Guard Valves).
Van bảo vệ cần nặng của hãng Hydril là một van cầu được vận hành bằng tay để đóng
các giếng có dòng chất lỏng phun trong cần. Loại van này làm cho việc kiểm soát và
ngăn ngừa dung dịch phun ra trở nên dễ dàng hơn. Van bảo vệ cần nặng được lắp ở
trên hoặc dưới cần nặng. Ngoài chức năng ngăn dòng chất lỏng phun lên, loại van này
còn ngăn dung dịch chảy xuống dưới trong quá trình tiếp cần. Áp suất làm việc của
loại này có thể đạt tới 15 000 psi. Loại van này còn được gọi là van vòi cần chủ đạo.
1.4 Van thả (Drop-Downcheck-Guard Valves)
Là một loại van kiểm tra và bảo vệ được thả vào cần khoan. Ban đầu van này được giữ
trên mặt , khi nào cần thiết thì nó được thả xuống. Đây là một phương tiện giúp người
thợ khoan kiểm soát áp xuất trong cần. Nó không cho chất lưu phun lên nhưng đồng
thời lại cho phép dung dịch được bơm xuống để tuàn hoàn. Chỉ có ống nối lửng được
lắp vào cột cần khoan , khi cần kiểm soát áp suất van này được thả xuống. Nó sẽ tự
động bám chặt trong ống lửng và nằm chắc tại đó. Van này có thể đóng kím được tới
áp suất 10 000 psi. Nó được kéo lên bằng dây cáp hoặc kéo cả cột cần lên.
1.5.Van an toàn của cần khoan( Drillpipe safety valves).
Chưa dịch được (What must I do now?)
2. Thiết bị chống phun trào ( BOP-BlowOut Preventer).
Bộ thiết bị chống phun trào dung để bịt kín nhanh chóng và chắc chắn miệng giếng khi
trong đó có hoặc không có cột ống ; để điều tiết tuần hoàn dung dịch đối áp lên vỉa và
bơm áp vào vỉa; để dẫn dòng chất lưu phun từ vỉa lên đến vị trí an toàn. Ngoài ra nó
còn dùng trong khoan thổi khí; để thực hiện tuần hoàn ngược HIện nay các bộ đối
áp BOP gồm có những loại như là:
+ Đối áp dạng ngàm ( Ram BOPs): Bịt toàn bộ giếng hoặc có lỗ để đóng giếng khi có
cột cần trong giếng
+ Đối áp dạng vành khăn( Annular BOP) hay còn gọi là đối áp vạn năng(Spherical
preventer ), dạng túi( Bag ): để bịt kín giếng khi trong đó có hoặc không có bất kì phần
nào của cột cần trong giếng.
+ Đối áp quay( RBOP- Rotating Blowout Preventer): để là kín miệng giếng khi cần
khoan vẫn quay trong giếng.
Tất cả các BOP được điều chỉnh bằng thuỷ lực. Khi mà đã đóng đối áp cầu hoặc đối áp
ngàm thì ta không thể quay cột cần nữa, lúc đó ta chỉ có thể kéo cột cần lên.
Trong những giàn khoan nổi ngoài biển như tàu khoan, tàu nửa chìm thì cụm đối áp
BOP được lắp vào giếng và đặt ở dưới đáy biển và được nối với bề mặt bằng ống bao.
Cụm BOP đó thường có kích thược to hơn loại có cùng áp suất làm việc được đặt trên
bề mặt. Thường có một hệ thống cho phép cụm đối áp BOP với các thiết bị khác một
cách nhanh chóng khi có vấn đề gì ở bên trên. Ngoài hệ thống diều khiển thuỷ lực
thông thường còn có một hệ thống âm thanh cho phép nhanh chóng đóng kín các BOP
khi mà chúng ngừng kết nối với bề mặt.
Hiện nay, có ba hang chính sản xuất các thiết bị đối áp loại này. Đó là CAMERON,
SHAFFER, và HYDRIL.
2.1. Đối áp dạng ngàm ( Ram BOPs).
Loại đối áp này có thể đóng giếng ở áp suất bề mặt lớn hơn loại vành khăn, cỡ 15000
psi.
Nó được dùng để đóng các giếng có dòng chất lưu phun ngược lên.
Đối áp dạng ngàm gồm những loại sau:
+ Đối áp lá chắn (Blind Rams): dùng để bịt toàn bộ miệng giếng khi không có cột cần,
thường dùng cho các giàn khoan ngoài biển.
+ Đối áp dạng lưỡi cắt ( Shear Rams ): đóng kín toàn bộ giếng bằng cách cắt dứt cần
khoan trong giếng.
+ Đối áp ôm cần ( Pipe Rams ): đóng kín giếng bằng cách ôm lấy cần khoan.
+ Đối áp có khích thước thay đổi (Variable Rams): có thể đóng kín giếng bằng cách
ôm láy những cần có kích thước khác nhau hoặc những đoạn đầu nối có kích thước
thay đổi.
Thời gian đóng giếng đối với đối áp dạng ngàm : Theo Viện Dầu Khí Quốc Gia Hoa
Kì, thì thời gian đóng giếng tối đa của đối áp dạng ngàm là 30 giây đối với loại ở trên
mặt và 45 giây đối với loại dưới biển.
( trình bày 1 số loại ngàm bằng hình powpoint, hỏi a.trung thêm về vị trí đặt và loại
nào kín nhất, chắc chăn nhất).
2.2. Đối áp vành khăn( Annular Preventer).
Nó có thể đóng giếng với bất kì loại cần khoan nào, thậm chí cả giếng trống. Nó cho
phếp thao tác cột cần khoan qua lớp màng trong khi giếng khoan vẫn đóng.
Đối áp vành khăn thường được đặt ở trên cùng của cụm đối áp BOP. Nó có thể làm
việc được khi áp suất bề mặt lên tới 5000 psi. Loại đối áp này chỉ được sử dụng khi có
hiện tượng chất lưu trong vỉa chảy chàn ra (Kick).
Thời gian đóng của đối áp dạng vành khăn: theo quy định của API thì thời gian đóng
tối đa cho phép đối với loại đặt trên bề mặt là 45 giây, đối với loại đặt dưới biển là 60
giây.
(hình sẽ được chình bầy băng powpoint )
2.3. Đầu quay (Rotating Head).
Đầu quay là những của rẽ nhánh làm việc ở áp suất thấp. Chúng không được sử dụng ở
những nơi có áp suất bề mặt vượt quá vài trăm psi. Hơn nữa đĩa cao su trong đầu quay
rất nhanh mòn. Do đó sử dụng đầu quay trong khoan rất nguy hiểm , ẩn chứa nhiều rủi
do. Từ đó người ta đã nghĩ ra loại đối áp quay (Rotating Blowout Preventer).
2.4. Đối áp quay (Rotating BOP).
Trong khi khoan dưới cân bằng thì bộ đối áp thông thương được đưa ra nhưng nó
không được sử dụng vì bộ đối áp thông thường không được tạo hình để cho phép bộ
khoan cụ có thể dễ quay và di chuyển theo phương thẳng đứng. Trong trường hợp này
, một đầu quay đặc biệt hay còn gọi là đối áp quay được sử dụng. Nó cho phép xoay và
thao tác cột cần khoan. Nó được lắp ở phía trên các đối áp thông thường. Áp suất làm
việc của loại đối áp này lên tới 15 000 psi. Đối áp quay sử dụng các thiết bị bịt kín
được kích bằng thuỷ lực,các thiết bị này được đặt trên những ổ bi đũa lớn. Áp suất dầu
kích các bộ phận bịt kín bằng cao su ép vào cần khoan hoặc cần nặng. Áp suất thuỷ lực
đó sẽ tự động được biến đổi khi áp suất trong giếng khoan thay đổi.
3. cách bố trí các đối áp
Hiệp hội quốc tế các nhà thầu khoan (IADC) khuyến cáo 5 nhóm đầu giếng tùy theo
áp suất làm việc và chủng loại đối áp:
Bảng 6 áp suất làm việc và chủng loại đối áp
Điều kiện làm việc Áp suất làm việc( psi) Cách bố trí
Nhẹ 2 000 2 đối áp dạng ngàm hoặc
1 đối áp vạn năng (hình A
)
Áp suất thấp
Áp suất trung bình
3 000
5 000
2 đối áp dạng ngàm và 1
đối áp vạ năng (hình B)
Áp suất cao 10 000 3 BOP dạng ngàm và 1
đối áp vạn năng 5000 psi
( hình C)
Áp suất rất cao 15 000 3 BOP dạng ngàm và 1
đối áp vạn năng tối thiểu
10 000 psi (hình C )
S S
H- A
S
S
S
H- C
S
S
H- B
Tài liệu tham khảo
1. A.G.Kalinin và nnk ( Bản dịch) Cẩm nang Kỹ sư- Công nghệ khoan các giếng sâu.,
Nhà XB KHKT HN-2006.A.W., Jones, B.R., 1971,
2. Trần Xuân Đào nnk Thiết kế công nghệ khoan các giếng Dầu và Khí (), Nhà
XBKHKT Hà Nội 2002.
3. Dipl.-Ing. Wolfgang F. Prassl Drilling Engineering Curtin University of echnology
Phụ lục1:
TIẾNG ANH THÔNG DỤNG TRÊN GIÀN KHOAN
Tiếng Anh Tiếng Việt
WOB: weight on bit Tải trọng đáy
WOB increasing Tải trọng đáy tăng
Mudlogging Trạm carota khí
Tripping kéo thả
Drilling screen to Màn hình khoan
Rig floor Màn hình sàn khoan
Daily report Nộp báo cáo hàng ngày đi !
Perform(ing) 2 stands round trip Kéo dạo 2 cần dựng
Drop(ping) single shot survey Thả đo độ lệch trong cần
Recover(ing) single shot, miss-run Không lấy được máy đo độ lệch ra khỏi
cần
Without excess drag Không hề bị vướng
Monitor(ing) well on trip tank Theo dõi (quan sát) giếng khoan qua bể
kéo thả
Mix(ing) and treat(ting) mud Trộn và xử lý dung dịch
Fill(ing) every joint Rót dung dịch vào giếng sau mỗi ống
chống
Displace(ing) hole with sea water Thay dung dịch bằng nước biển
Rig Giàn khoan
Drill ship Tàu khoan
Jack-up Giàn khoan tự nâng (thường là tự hành)
Semi-submersible rig or “Semi-sub” Giàn khoan nửa nổi nửa chìm
Platform, Fixed rig Giàn khoan cố định
Drill barge Phà khoan
Derrick Tháp khoan
Rig floor Sàn khoan
Monkey board Chuồng cu
Dog hole Lỗ cần vuông
Mouse hole Lỗ cần phụ
V-door Cầu trượt
Head cat Tời phụ
Blow-out preventer (BOP) Van đối áp
Ram Má ôm cần
Choke line Đường làm việc
Kill line Đường dập giếng
Bit Choòng khoan
Nozzle(s) Lỗ thuỷ lực (của choòng)
Opener Choòng mở rộng thành giếng
Crosser over (X/O) (pin, box) Đầu nối
Stabiliser Định tâm
Drill collar (DC) Cần nặng
Non-magnetized drill collar (NMDC) Cần nặng không nhiễm từ
Universal bottom hole orientation (UBHO) Cần tạo góc xiên
Jars Búa
Mud motor ( down hole motor) Động cơ đáy
Over shot Giỏ chụp vật rơi (kẹt)
Junk sub basket Giỏ hứng vật rơi
Finger basket Giỏ chụp có răng
Heavy weight drill pipe (HWDP) Cần khoan nặng
Drill pipe (DP) Cần khoan ( cần thường)
Single Cần lẻ
Stand (STD) Cần dựng
Pipe connection, connection Sự tiếp cần
Lay down single Tháo cần
Make up stands Lắp cần dựng
Kelly Cần vuông (cần chủ lực)
Kelly down Ngập cần vuông
Bottom hole assembly (BHA) Bộ khoan cụ
Drill string Cột cần khoan
Make up BHA Lắp bộ khoan cụ
Kelly bushing Đệm cần vuông
Run in (the) hole (RIH) Thả cần
Pull out of (the) hole (POOH) Kéo cần
Circulate Bơm rửa
Circulate bottom’s up for sample Bơm rửa lấy mẫu đáy
Tripping Kéo thả cần
Pump(ing) slug Bơm dung dịch nặng
Circulate(ing) via choke line Tuần hoàn qua đường làm việc (trong
trường hợp áp suất vỉa cao)
Carry out (perfom) wiper trip, wiper trip Kéo thả thông
Short trip Dạo cần
Dir ectional well Giếng khoan định hướng
Kelly cock Van cần vuôn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_cong_nghe_khoan_dau_khi_phan_2_le_quang_duyen.pdf