Cơ hội học tập trực tuyến đã xuất hiện từ lâu và ngày càng tăng lên nhanh chóng. Việc
mở rộng giáo dục trực tuyến có nhiều lợi ích đáng chú ý, chẳng hạn như cải thiện tính linh
hoạt và sự thuận tiện cho cơ hội học tập của sinh viên so với việc cung cấp khóa học trực tiếp
truyền thống. Tuy nhiên, việc giảng dạy trực tuyến khác với môi trường học tập trực diện
truyền thống, đặc biệt là vì sinh viên phải tự điều chỉnh phần lớn việc học của mình. Việc
thiết kế một bài giảng trực tuyến và tiến hành các hoạt động dạy - học trực tuyến phù hợp cần
phải được nghiên cứu và đầu tư kỹ lưỡng để có được hiệu quả.
6 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 18/05/2022 | Lượt xem: 428 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Giảng dạy trực tuyến - Thiết kế khóa học thống kê trực tuyến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
57
ĐỔI MỚI GIẢNG DẠY MÔN LÝ THUYẾT XÁC SUẤT VÀ THỐNG KÊ ỨNG DỤNG
CHO SINH VIÊN KHỐI NGÀNH KINH TẾ, QUẢN TRỊ KINH DOANH VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC
Tóm tắt
Cơ hội học tập trực tuyến đã xuất hiện từ lâu và ngày càng tăng lên nhanh chóng. Việc
mở rộng giáo dục trực tuyến có nhiều lợi ích đáng chú ý, chẳng hạn như cải thiện tính linh
hoạt và sự thuận tiện cho cơ hội học tập của sinh viên so với việc cung cấp khóa học trực tiếp
truyền thống. Tuy nhiên, việc giảng dạy trực tuyến khác với môi trường học tập trực diện
truyền thống, đặc biệt là vì sinh viên phải tự điều chỉnh phần lớn việc học của mình. Việc
thiết kế một bài giảng trực tuyến và tiến hành các hoạt động dạy - học trực tuyến phù hợp cần
phải được nghiên cứu và đầu tư kỹ lưỡng để có được hiệu quả.
Từ khóa: Online teaching; online learning; teaching online statistics
1. Giới thiệu
Giảng dạy trực tuyến là một trải nghiệm khác với trải nghiệm giảng dạy trong môi trường
trực tiếp. Kiến thức và kỹ năng được phát triển để giảng dạy các lớp trực tiếp không được
chuẩn bị đầy đủ cho việc giảng dạy trực tuyến. Việc dạy các môn học về khoa học, công
nghệ, kỹ thuật và toán học hoàn toàn trực tuyến còn khó hơn vì các môn học này thường yêu
cầu nhiều hoạt động thực hành hơn và trình diễn trực tiếp. Mặc dù các khóa học trực tuyến
đã được mở tại một số cơ sở công lập và đa số là dịch vụ của nhiều cơ sở tư nhân tại nhiều
quốc gia từ rất sớm, tuy nhiên, việc tiếp cận và thừa nhận nó vẫn còn rất hạn chế, đặc biệt ở
Việt Nam, khi các văn bằng của các chương trình học từ xa, học trực tuyến chưa được coi
trọng bởi nhiều lý do khác nhau về chất lượng, về quan điểm và tư tưởng. Tuy nhiên, từ khi
đại dịch COVID-19 bùng phát trên toàn cầu, học tập trực tuyến được khuyến khích và thậm
chí bắt buộc tại nhiều nước trên thế giới. Tại Việt Nam, ở một số tỉnh/thành, ví dụ như Thành
phố Hồ Chí Minh, tất cả các lớp học từ cấp tiểu học đến sau đại học đều đang thực hiện giảng
dạy trực tuyến. Và có thể nhu cầu này sẽ được phát triển và nhân rộng trong tương lai, kể
cả sau khi dịch COVID-19 đã được khống chế, vì một số mặt tích cực. Tuy nhiên, việc phát
triển các chiến lược hướng dẫn và thiết kế các khóa học trực tuyến hiệu quả vẫn chưa thực
sự được chú trọng.
* Bộ môn Toán - Thống kê, Khoa Kinh tế - Luật, Trường Đại học Tài chính - Marketing
GIẢNG DẠY TRỰC TUYẾN - THIẾT KẾ KHÓA HỌC
THỐNG KÊ TRỰC TUYẾN
7.
TS. Võ Thị Bích Khuê*
58
ĐỔI MỚI GIẢNG DẠY MÔN LÝ THUYẾT XÁC SUẤT VÀ THỐNG KÊ ỨNG DỤNG
CHO SINH VIÊN KHỐI NGÀNH KINH TẾ, QUẢN TRỊ KINH DOANH VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC
Bài viết này đề cập đến vấn đề dạy học trực tuyến như là một nhu cầu từ lâu tại một số
nước, dựa trên một nghiên cứu của nhóm tác giả,1 và đưa ra ví dụ về dạy và học môn Thống
kê theo hình thức trực tuyến được thiết kế cho một khóa học của một lớp khoảng 30 sinh viên
ở chương trình đại học.2
2. Nội dung
2.1. Dạy học trực tuyến là một nhu cầu đã diễn ra rất sớm
Việc dạy học trực tuyến đã được tiến hành từ lâu và là nhu cầu của nhiều người. Trong
nghiên cứu của nhóm tác giả Everson, M. G, và Garfield, J. (2008) về kết quả khảo sát liên
quan đến việc sử dụng Internet trong dạy và học của các giảng viên ở môi trường đại học và
sau đại học, từ các tổ chức công (chiếm hơn 2/3 số người được hỏi), các tổ chức tư (chiếm
21% số người được hỏi) và một số người thuộc tình trạng không xác định được công hay tư
(chiếm 9%), khi được hỏi về kinh nghiệm của họ với các hình thức giảng dạy khác nhau, có
khoảng gần 40% đã dạy các khóa học trực tuyến một phần; 18% đã giảng dạy các khóa học
trực tuyến hoàn toàn (không có bất kỳ cuộc tiếp xúc nào trực tiếp giữa sinh viên và người
dạy); 19% đã thực hiện cả hai khóa học bán phần và hoàn toàn trực tuyến; 24% không có
kinh nghiệm giảng dạy trực tuyến. Khi được hỏi về kinh nghiệm tổng thể, những người tham
gia khảo sát đã có kinh nghiệm giảng dạy trực tuyến trung bình từ 4 đến 7 khóa học một phần
hoặc toàn bộ, khoảng 70% có bằng tiến sĩ, còn lại đa số là những người có bằng thạc sĩ. Cuộc
khảo sát đã cho một số kết quả như sau:
- Hơn 80% số người được hỏi chỉ ra rằng, dạy học trực tuyến là tốn nhiều thời gian hơn
so với dạy các khóa học truyền thống.
- Tỷ lệ bỏ học cao hơn ở các khóa học trực tuyến hoàn toàn so với các khóa học trực
tuyến một phần: 10% hoàn toàn trực tuyến các khóa học bị tiêu hao 50%, trong khi chỉ
2% những khóa học kết hợp bị tiêu hao ở cùng mức đó.
- 83% số người trả lời cuộc khảo sát này cho biết, họ tổ chức cung cấp nền tảng dựa
trên website hoặc hệ thống phần mềm học liệu cho phát triển các khóa học trực tuyến
hoặc nâng cao các khóa học trong khuôn viên trường với hình thức học trực tuyến.
Những người được hỏi cho biết rằng, họ thích phần mềm học liệu trực tuyến dễ dàng
sử dụng, nhất quán, đáng tin cậy, có thể tùy chỉnh, linh hoạt, toàn diện, chuyên nghiệp
về ngoại hình, tích hợp, an toàn, tập trung vào người học và hữu ích về mặt sư phạm.
Nhiều công cụ và hỗ trợ cụ thể các tính năng đã được đề cập.
- Có nhiều phản ứng trái chiều về: Liệu việc học có được cải thiện trong môi trường trực
tuyến hay không? Kết quả cho thấy, có 32% đồng ý với điều đó, 29% không đồng ý
và 40% không chắc chắn. Nhiều giảng viên ủng hộ bằng cử nhân và thạc sĩ được đào
1 Everson, M. G, & Garfield, J. (2008), An Innovative Approach to Teaching Online Statistics Courses. Technology
Innovations in Statistics Education, 2(1). Retrieved from https://escholarship.
org/uc/item/2v6124xr
2 Bonk, C. J. (2001), Online Teaching in an Online World. Bloomington, IN: CourseShare.com
59
ĐỔI MỚI GIẢNG DẠY MÔN LÝ THUYẾT XÁC SUẤT VÀ THỐNG KÊ ỨNG DỤNG
CHO SINH VIÊN KHỐI NGÀNH KINH TẾ, QUẢN TRỊ KINH DOANH VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC
tạo hoàn toàn trực tuyến (tương ứng là 44% và 45%) so với bằng tiến sĩ (19%). Trên
thực tế, 62% phản đối việc lấy bằng tiến sĩ hoàn toàn trực tuyến.
- 80% tin rằng, công nhận giáo dục từ xa là cần thiết cho chất lượng khóa học cao.
Nghiên cứu được thực hiện từ năm 2008 và trong thời gian qua, hình thức giảng dạy trực
tuyến vẫn phát triển và được nhân rộng với nhiều cấp học, nhiều chương trình khác nhau. Tuy
nhiên, ở một số nơi vẫn còn nhiều hạn chế và bất cập về chương trình, điều kiện cũng như
quan điểm trong việc đánh giá kết quả của hình thức dạy và học này. Việc dạy học trực tuyến
vẫn còn là khái niệm xa lạ đối với nhiều người, nhiều cấp học, ở cả phía người học, người
dạy, cấp quản lý, và chỉ dừng lại ở sự lựa chọn. Chỉ đến khi dịch COVID-19 bùng phát, để
hạn chế tiếp xúc, việc dạy học trực tuyến đã trở thành một hình thức bắt buộc. Việc chuyển
đổi hình thức giảng dạy trực tiếp sang trực tuyến gặp nhiều lúng túng, khó khăn về tất cả các
mặt: phương tiện, nội dung, hình thức, cách thức đến việc đánh giá kết quả của môn học.
Tùy theo điều kiện, và đặc biệt tùy theo tính chất của môn học, kinh nghiệm và thái độ của
người dạy và người học, việc chuyển đổi từ hình thức trực tiếp sang trực tuyến một cách đột
ngột đối với một số môn đặc thù có những khó khăn nhất định. Lấy ví dụ về một môn học
trong chương trình giáo dục đại học là Toán thống kê - môn học mà đa số người dạy áp dụng
theo phương pháp truyền thống khi truyền tải kiến thức lý thuyết cũng như thực hành nên lúc
đầu có thể còn lúng túng trong việc chuẩn bị vật liệu cho giảng dạy trực tuyến.
2.2. Dạy môn Thống kê trong môi trường trực tuyến
Nghiên cứu của Bonk, C. J. (2001) đã đề cập đến vấn đề dạy môn Thống kê trong môi
trường trực tuyến. Nghiên cứu nhấn mạnh đến sự tương tác giữa người dạy và người học, và
sự tương tác giữa những người học.
2.2.1. Vai trò của thảo luận trong các khóa học trực tuyến
- Cung cấp cho sinh viên cơ hội làm việc trong các nhóm thảo luận hợp tác là một yếu tố
quan trọng của các khóa học trực tuyến. Thảo luận giúp thúc đẩy ý thức cộng đồng trong môi
trường trực tuyến và giảng viên có thể tạo một diễn đàn, nơi sinh viên có thể chia sẻ ý kiến
cũng như ý tưởng, và cố gắng xây dựng sự hiểu biết của riêng mình về các khái niệm quan
trọng. Mặc dù trong khóa học trực tuyến, sinh viên không thể nhìn thấy nhau khi họ đang
tham gia thảo luận, tuy nhiên, cũng có những mặt lợi thế nhất định mà sinh viên có thể thu
hút những giảng viên đang cân nhắc sử dụng việc thảo luận theo hình thức của riêng họ: sinh
viên nhút nhát hoặc cảm thấy không thoải mái khi nói chuyện với bạn bè theo cách truyền
thống; lớp học có thể thoải mái hơn với tính ẩn danh của môi trường trực tuyến và điều này
có thể làm tăng khả năng những sinh viên này tham gia thảo luận; thảo luận liên quan đến
việc xây dựng và đăng các câu trả lời bằng văn bản, giúp sinh viên có thể phản ánh sâu sắc
hơn về tài liệu khóa học
- Một điều tích cực trong giảng dạy trực tuyến và sử dụng các cuộc thảo luận trực tuyến
là giảng viên có thể giám sát đồng thời tất cả các cuộc thảo luận nhóm từ đầu đến cuối, bằng
cách phân phòng cho từng nhóm, hoặc theo dõi qua các đoạn tin nhắn, một điều kiện mà họ
60
ĐỔI MỚI GIẢNG DẠY MÔN LÝ THUYẾT XÁC SUẤT VÀ THỐNG KÊ ỨNG DỤNG
CHO SINH VIÊN KHỐI NGÀNH KINH TẾ, QUẢN TRỊ KINH DOANH VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC
không thể có trong các lớp học trực tiếp, khi mà giảng viên chỉ có thể đi vòng quanh lớp học
trong lúc cuộc thảo luận diễn ra, có thể giám sát được ai có mặt, nhưng không thể giám sát
được cuộc thảo luận diễn ra như thế nào. Giảng viên có thể xem toàn bộ các cuộc thảo luận
và có thể can thiệp, khi cần thiết, nếu sinh viên đi chệch hướng thảo luận. Hơn nữa, nếu giảng
viên chấm điểm các cuộc thảo luận, có thể làm tăng động lực cho mỗi sinh viên khi tham
gia, và do đó, tất cả các sinh viên đều có cơ hội để suy nghĩ và thể hiện sự hiểu biết của họ
với mọi người.
Hãy thử lấy một ví dụ là trong một lớp học trực tuyến, sinh viên được yêu cầu làm
việc cộng tác trong học kỳ về một dự án nhóm. Thông thường, công việc này diễn ra trong
phòng thảo luận hoặc trò chuyện. Trong các khóa học khác, sinh viên có thể được yêu cầu
tham gia các buổi trò chuyện với giảng viên hàng tuần, trong đó, các câu hỏi được hỏi và
trả lời, hoặc họ có thể được yêu cầu thảo luận các khái niệm với các sinh viên khác trong
cuộc thảo luận được chỉ định cho các nhóm (như mô tả các bước thực hiện một bài tập ứng
dụng thống kê, trong đó nhấn mạnh vào việc hiểu ứng dụng của các kỹ thuật thống kê và
mức độ liên quan của số liệu thống kê). Sinh viên thảo luận về những cách mà họ có thể áp
dụng các kỹ thuật họ đang tìm hiểu về các nhóm thảo luận được chỉ định và họ trả lời các
câu hỏi của giảng viên, nhằm thúc đẩy họ suy nghĩ về việc sử dụng các khái niệm thống
kê trong các ngành nghề.
- Các khóa học sử dụng công nghệ cho phép sinh viên hợp tác và học hỏi lẫn nhau. Ngoài
việc học từ khóa học bắt buộc, các tài liệu được yêu cầu và giảng viên, công nghệ cũng được
sử dụng để minh họa rõ hơn các khái niệm thống kê quan trọng, cung cấp cho sinh viên các
công cụ để mô tả và phân tích dữ liệu.
2.2.2. Thiết kế lớp học trực tuyến đổi mới cho khóa học thống kê
Trong tài liệu “The GAISE project: Developing statistics education guidelines for pre
K-12 and college courses”, Franklin, C., và Garfield, J. (2006) đã đề xuất 6 kiến nghị của
GAISE nhằm tạo môi trường học tập trực tuyến:
Nhấn mạnh kiến thức về thống kê và phát triển tư duy thống kê nhằm giúp sinh viên hiểu
biết về mặt thống kê và học cách suy nghĩ, lập luận về thông tin thống kê bằng các bài đọc
trong sách, bài tập và hoạt động. Các cuộc thảo luận trực tuyến khuyến khích sinh viên giải
thích, lý luận và suy nghĩ, phát triển sử dụng các thuật ngữ thống kê quan trọng.
Sử dụng dữ liệu thực: Vào đầu khóa học, sinh viên được mời hoàn thành một cuộc khảo
sát trực tuyến. Các câu hỏi liên quan đến nhiều hoạt động trong lớp như: số lượng các trạng
thái cảm xúc, số quốc gia hoặc tỉnh/thành đã đến, số phút dành cho mạng xã hội mỗi ngày,
số giờ ngủ trung bình mỗi đêm trong tuần Các dữ liệu đều gần gũi và sinh viên đều có thể
tham gia tìm hiểu được. Giảng viên sẽ hướng dẫn nhập dữ liệu, biên dịch dữ liệu và nhập vào
chương trình phần mềm thống kê. Sau đó, sinh viên có thể dùng dữ liệu này trong khóa học.
Từ dữ liệu trong nhóm nhỏ lớp học, giảng viên có thể hướng dẫn sinh viên cách lấy dữ liệu
trong một quần thể lớn hơn.
61
ĐỔI MỚI GIẢNG DẠY MÔN LÝ THUYẾT XÁC SUẤT VÀ THỐNG KÊ ỨNG DỤNG
CHO SINH VIÊN KHỐI NGÀNH KINH TẾ, QUẢN TRỊ KINH DOANH VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC
Nhấn mạnh sự hiểu biết về khái niệm hơn là kiến thức thuần túy về các thủ tục nhằm tạo
môi trường thoải mái để sinh viên có thể đưa ra những suy nghĩ, những câu hỏi, ý tưởng phức
tạp bằng cách phỏng đoán hoặc đặt câu hỏi; không quá tập trung vào việc phân tích tập dữ
liệu, mà là kết quả đầu ra và cách nó nên được diễn giải thế nào. Thay vì cho ví dụ về các
câu hỏi nghiên cứu, có thể áp dụng cho các kỹ thuật phân tích cụ thể, sinh viên được yêu cầu
đưa ra các câu hỏi của riêng mình, phản biện các câu hỏi của các bạn. Sinh viên cũng được
khuyến khích để đưa ra giải thích các khái niệm theo sự hiểu biết của mình và lấy các ví dụ
minh họa.
Thúc đẩy việc học tập tích cực trong lớp học: Có những hoạt động trong môi trường trực
tiếp nhưng không thể tiến hành trong môi trường trực tuyến (lấy mẫu, thí nghiệm). Khi đó,
hãy để sinh viên thảo luận về cách thức thực hiện, tự tiến hành các hoạt động và thảo luận
kết quả trong nhóm.
Sử dụng công nghệ để phát triển sự hiểu biết khái niệm và phân tích dữ liệu: Sinh viên
có thể dùng dữ liệu đã được khảo sát đầu khóa học, dùng các phần mềm trong thống kê như:
SPSS, Eviews, R, Stata để khám phá và thảo luận kết quả trong nhóm.
Sử dụng đánh giá để cải thiện và đánh giá việc học tập của sinh viên: Các bài tập nhóm
cộng tác được sử dụng trong các khóa học trực tuyến cung cấp cho giảng viên nhiều cơ hội
kiểm tra, đánh giá việc học tập của sinh viên bằng cách yêu cầu sinh viên viết về hiểu biết của
mình đối với tài liệu khóa học, các quan niệm, ý tưởng, hoặc khái niệm, biện pháp thực hiện
các nhiệm vụ trong thống kê. Giảng viên cũng có thể hiểu hơn những quan niệm sai lầm, các
biện pháp sinh viên thực hiện để cố gắng sửa chữa những sai lầm hoặc đặt câu hỏi để sinh
viên có thể giải thích những quan điểm khó hiểu.
Sáu đề xuất của GAISE đã được dùng làm cơ sở cho tất cả các khóa học trực tuyến. Tuy
nhiên, để từng bước đạt được các khuyến nghị của GAISE, lớp học trực tuyến phải đảm bảo
những yêu cầu nhất định và tiến hành theo các yêu cầu sau:
- Mỗi lớp học giới hạn ở 30 sinh viên.
- Ngay sau khi khóa học bắt đầu, 5 - 6 sinh viên được chỉ định vào một nhóm thảo luận
để làm việc trong nửa đầu của khóa học và được chỉ định lại vào các nhóm thảo luận
mới trong nửa sau của khóa học. Như vậy, có 5 - 6 nhóm thảo luận nhỏ trong mỗi
khóa học.
- Sinh viên được yêu cầu hoàn thành một loạt bài tập nhóm nhỏ diễn ra trong phòng
thảo luận (khoảng 7 bài). Nhóm sẽ có thời gian một tuần để làm bài tập nhóm. Trong
quá trình đó, giảng viên vẫn tham gia vào quá trình thảo luận của nhóm và để nhóm
biết rằng, giảng viên biết được những gì họ đang thảo luận, cách họ suy nghĩ và lập
luận về vấn đề; cổ vũ khi nhóm đi đúng hướng, can thiệp, chỉ ra những sai lầm khi các
thành viên trong nhóm không chỉ ra được.
62
ĐỔI MỚI GIẢNG DẠY MÔN LÝ THUYẾT XÁC SUẤT VÀ THỐNG KÊ ỨNG DỤNG
CHO SINH VIÊN KHỐI NGÀNH KINH TẾ, QUẢN TRỊ KINH DOANH VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC
2.2.3. Đánh giá
Việc giảng dạy một khóa học trực tuyến có thể tốn nhiều thời gian do lượng đọc và viết
liên quan (của sinh viên và giảng viên) và môi trường trực tuyến có thể tạo ra thách thức cho
giảng viên. Tuy nhiên, giảng dạy một khóa học trực tuyến cũng có những lợi ích cần xem
xét. Mỗi giảng viên sẽ có thể phát triển theo nhiều cách khi bị đặt vào những tình huống và
điều chỉnh theo cách mà tài liệu được trình bày cho sinh viên. Một lợi ích nữa là giảng viên
có thể quan sát được cuộc thảo luận của các nhóm sinh viên và có những điều chỉnh phù hợp
mà việc giảng dạy trực tiếp không có cơ hội bao quát hết.
Mặc dù thiếu những khía cạnh của lớp học trực tiếp như: nói chuyện trực tiếp, tiếp xúc
với sinh viên theo cấp độ cá nhân hơn, thu hút sinh viên tham gia vào các nhóm thực hành,
tuy nhiên, việc lập kế hoạch cẩn thận, cộng tác, tập trung vào các cuộc thảo luận và đánh giá,
sửa đổi liên tục, một lớp thống kê trực tuyến sáng tạo có thể là một phương pháp hữu ích và
mang lại kinh nghiệm tích cực cho nhiều sinh viên.
3. Kết luận
Những thay đổi về tình hình xã hội, mục tiêu của sinh viên đại học ngày nay cũng như
những rào cản đối với sự phát triển chuyên môn rộng rãi và hiệu quả cho đội ngũ giảng viên
đã chứng tỏ nhu cầu cải cách đáng kể trong giáo dục từ xa. Điều đó phải xuất phát từ nhận
thức của sinh viên về học tập trực tuyến, cùng với việc cung cấp các cơ hội phát triển chuyên
môn chất lượng cho các giảng viên giảng dạy trực tuyến. Bên cạnh đó, cần phải có sự đầu tư
bài bản vào việc thiết kế bài giảng trực tuyến đối với từng môn học, từng chương trình học.
Giải quyết được những vấn đề đó, việc giảng dạy và học tập trực tuyến sẽ không còn là vấn
đề giải pháp tình huống mà sẽ trở thành xu thế trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bonk, C. J. (2001), Online Teaching in an Online World. Bloomington, IN: CourseShare.com
2. Everson, M. G, & Garfield, J. (2008), An Innovative Approach to Teaching Online
Statistics Courses. Technology Innovations in Statistics Education, 2(1).
org/10.5070/T521000031 Retrieved from https://escholarship.org/uc/item/2v6124xr
3. Franklin, C., & Garfield, J. (2006), The GAISE project: Developing statistics education
guidelines for pre K-12 and college courses. In G. Burrill (Ed.), Thinking and reasoning
with data and chance: 2006 NCTM yearbook (p. 435-475). Reston, VA: National
Council of Teachers of Mathematics.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giang_day_truc_tuyen_thiet_ke_khoa_hoc_thong_ke_truc_tuyen.pdf