Giản đồ trạng thái của hợp kim hai cấu tử

- Thép sau cùng tích với thành phần ≥ 0,90%C (thường chỉ tới 1,50%, cá biệt có thể tới 2.0 -2,2%) tức ở bên phải điểm S có tổ chức peclit + xêmentit thứ hai thường ở dạng lưới sáng bao

bọc lấy peclit tấm như ở hình 3.23.

Gang tương ứng với giản đồ pha Fe - C (Fe - Fe3C) là gang trắng, rất ít được sử dụng do quá

cứng, giòn, không thể gia công cắt được. Theo sự khác nhau về tổ chức ta gặp ba loại gang trắng

sau.

pdf30 trang | Chia sẻ: NamTDH | Lượt xem: 2352 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giản đồ trạng thái của hợp kim hai cấu tử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
- Xêmentit cùng tích được tạo thành do chuyển biến cùng tích austenit → peclit. Loại xêmentit này có vai trò rất quan trọng, được trình bày ở mục tiếp theo. Grafit chỉ được tạo thành trong hợp kim Fe - C cao và chứa lượng đáng kể silic, là pha quan trọng trong tổ chức của gang. 5. Các tổ chức hai pha Peclit (có thể ký hiệu bằng P, [Feα + Fe3C]). Peclit là hỗn hợp cùng tích của ferit và xêmentit được tạo thành từ austenit với 0,80%C và ở 727oC như phản ứng (3.3). Trong peclit có 88% ferit và 12% xêmentit phân bố đều trong nhau, nhờ kết hợp giữa một lượng lớn pha dẻo với lượng nhất định pha cứng, peclit là tổ chức khá bền, cứng nhưng cũng đủ dẻo, dai đáp ứng rất tốt các yêu cầu của vật liệu kết cấu và công cụ. Peclit và các biến thể của nó (xoocbit, trôxtit, bainit) có mặt trong hầu hết các hợp kim Fe - C. Người ta phân biệt hai loại peclit tấm và peclit hạt. Peclit tấm (hình 3.20a) thường gặp hơn cả, có cấu trúc tấm (lớp hoặc phiến), tức là hai pha này đều ở dạng tấm nằm đan xen đều nhau, nên trên mặt cắt ngang để lại các vạch theo cùng một hướng hay đa hướng, trong đó các vạch tối mỏng (với lượng ít hơn) là xêmentit, vạch sáng dày (với lượng nhiều hơn, gọi là nền) là ferit nên tổng thể có dạng vân. Peclit hạt (hình 3.20b) ít gặp hơn, có cấu trúc hạt tức xêmentit ở dạng thu gọn nhất (bề mặt ít nhất) - hạt xêmentit phân bố đều trên nền ferit. Giữa hai loại này có sự khác biệt nhỏ về cơ tính: so với peclit hạt, peclit tấm có độ bền, độ cứng cao hơn, độ dẻo, độ dai thấp hơn đôi chút. Austenit đồng nhất dễ tạo thành peclit tấm, còn austenit kém đồng nhất dễ tạo thành peclit hạt. Peclit hạt ổn định hơn peclit tấm nên khi nung lâu ở nhiệt độ tương đối cao (ví dụ 600 - 700oC) peclit tấm có xu hướng chuyển thành peclit hạt. Hình 3.20. Tổ chức tế vi của peclit tấm (a) và peclit hạt (b) (x500). Lêđêburit [có thể ký hiệu bằng Le, hay (γ + Xe) hay (P + Xe)]. Hình 3.21. Tổ chức tế vi của lêđêburit - (P+Xe) (x500). Lêđêburit là hỗn hợp cùng tinh của austenit và xêmentit tạo thành từ pha lỏng với 4,3%C ở 1147oC nhờ phản ứng (3.2), tuy nhiên khi làm nguội tiếp tục lại có phản ứng cùng tích (3.3) để austenit chuyển biến thành peclit nên tổ chức tế vi cuối cùng quan sát được (hình 3.21) là hỗn hợp của peclit tấm (các hạt tối nhỏ) trên nền xêmentit sáng. Lêđêburit cứng và giòn (vì có quá nhiều, tới 2/3, là xêmentit) và chỉ có trong hợp kim Fe - C ở dạng gang trắng, ít gặp. Các tên gọi pha và tổ chức kể trên với các nghĩa và xuất xứ như sau: để kỷ niệm các nhà khoa học lỗi lạc trong ngành là Robert Austen (người Anh) cho austenit, Ledebur (người Đức) cho lêđêburit; từ bản chất hay đặc trưng tính chất là ferrum (sắt, tiếng latinh) cho ferit, pearl (vân) cho peclit, cement (ximăng, cứng) cho xêmentit. IV. Quá trình kết tinh của hợp kim Fe – C 1. Phần trên của gi đồ Phần trên của giản đồ trạng thái Fe – C ứng với sự kết tinh từ trạng thái lỏng thấy có ba khu vực rõ rệt ứng với ba khoảng thành phần cacbon khác nhau. Khu vực có thành phần 0,1 – 0,51%C (có phản ứng bao tinh). Tất cả các hợp kim có thành phần cacbon 0,1 – 0,51%C khi kết tinh sẽ xảy ra phản ứng bao tinh: δH + LB → γJ. Lúc đầu, khi làm nguội đến đường lỏng AB, hợp kim lỏng sẽ kết tinh ra dung dịch rắn trước. Khi nhiệt độ hạ xuống tới 1499oC (ứng với đường HB), hợp kim có hai pha là dung dịch rắn δ chứa 0,10%C và dung dịch rắn ôstenit chứa 0,16%C: Các hợp kim có 0,1 – 0,16%C sau phản ứng bao tinh còn thừa pha δ và khi làm nguội tiếp, pha này tiếp tục chuyển biến thành pha γ. Các hợp kim có 0,16 – 0,51%C sau phản ứng bao tinh còn thừa pha lỏng L, và sau khi làm nguội tiếp theo pha lỏng tiếp tục chuyển biến thành pha γ. Như vậy, cuối cùng hợp kim 0,10 – 0,51%C khhi làm nguội xuống dưới đường NJE chỉ có tổ chức một pha ôstenit. Khu vực có thành phần 0,51 – 2,14%C kết thúc kết tinh bằng sự tạo thành dung dịch rắn ôstenit. Hợp kim thành phần 2,14 – 4,3%C: khi làm nguội hợp kim tới đường lỏng BC nó sẽ kết tinh ra ôstenit. Làm nguội tiếp tục, ôstenit có thành phần thay đổi theo đường JE, hợp kim lỏng còn lại thay đổi theo đường BC. Khu vực có thành phần 0,51 – 2,14%C kết thúc kết tinh bằng sự tạo thành dung dịch rắn ôstenit. Hợp kim có thành phần 2,14 – 4,3%C, kết thúc kết tinh bằng sự kết tinh của dung dịch lỏng có thành phần ứng với điểm C ra hai pha: ôstenit có thành phần ứng với điểm E và xêmentit ở 1147oC. Hỗn hợp cùng tinh lêđêburit Sau khi kết tinh xong hợp kim này có tổ chức ôstenit + lêđêburit (γ + Xe). Khu vực có thành phần 4,3 – 6,67%C (kết tinh ra xêmentit thứ nhất). Phần hợp kim 4,3 – 6,67%C: khi hợp kim được làm nguội tới đường lỏng DC nó kết tinh ra xêmentit và gọi là xêmentit thứ nhất. Khi làm nguội tiếp tục sẽ phản ứng tạo nên cùng tinh lêđêburit xảy ra ở 1147oC. Sau khi kết tinh xong, hợp kim này có tổ chức xêmentit thứ nhất + lêđêburit (γ + Xe). Tóm lại: khi kết tinh từ pha lỏng, trong hợp kim Fe – C có xảy ra các quá trình sau: kết tinh ra δ (< 0,51%C) và phản ứng cùng tinh (2,14 – 6,67%C). 2. Phầ dưới của gi đồ Phần dưới của giản đồ ứng với những chuyển biến ở trạng thái rắn. Có ba pha chuyển biến đáng chú ý sau đây xuất phát từ ôstenit. Sự tiết ra xêmentit thứ hai từ ôstenit Các hợp kim có thành phần cacbon lớn hơn 0,8% khi làm nguội từ 1147oC đến 727oC, ôstenit của nó bị giảm thành phần cacbon theo đường ES, do vậy, sẽ tiết ra xêmentit mà ta gọi là xêmentit thứ hai. Cuối cùng ở 727oC, ôstenit có thành phần cacbon 0,8% ứng với điểm S. Sự tiết ra ferit từ ôstenit Các hợp kim có thành phần cacbon nhỏ hơn 0,8% khi làm nguội từ 911oC ÷ 727oC, ôstenit của nó sẽ tiết ra ferit là pha ít cacbon, do vậy ôstenit còn lại giàu cacbon theo đường GS. Cuối cùng ở 727oC hợp kim gồm hai pha là ferit ứng với điểm P (0,02%C) và ôstenit ứng với điểm S (0,8%C). Như vậy khi làm nguội tới 727oC trong tổ chức của mọi hợp kim Fe – C đều chứa ôstenit với 0,8%C (ứng với điểm S). Chuyển biến cùng tích: ôstenit thành peclit. Tại 727oC ôstenit có thành phần 0,8%C sẽ chuyển biến thành peclit là hỗn hợp của hai pha ferit và xêmentit. Như đã nói ở trên, chuyển biến này có ở trong mọi hợp kim Fe – C. V. Tổ chức tế vi của các hợp kim Fe – C 1. g t g g Thép và gang đều là hợp kim Fe - C (ngoài ra có thể có ít nhiều các nguyên tố khác), trong đó phân biệt ít hơn 2,14%C là thép, nhiều hơn 2,14%C là gang. Một cách gần đúng có thể thấy điểm E trên giản đồ pha phân biệt hai loại vật liệu này: bên trái E là thép, bên phải E là gang. Chính điều này đã giải thích được các đặc điểm cơ bản khác nhau giữa chúng. Như vậy tất cả các thép dù với lượng cacbon, tổ chức và cơ tính rất khác nhau ở nhiệt độ thường và tương đối cao (< 727oC), nhưng một khi đã được nung nóng cao hơn đường GSE tương ứng, đều chỉ có một pha duy nhất là austenit với độ dẻo rất cao nên rất dễ biến dạng. Chính vì vậy thép được coi là vật liệu dẻo, được cung cấp dưới dạng bán thành phẩm cán nóng (dây, thanh, ống, tấm, hình...) rất tiện lợi cho sử dụng. Các thép ít cacbon mềm và dẻo cũng có khả năng biến dạng nguội. Tính đúc của thép nói chung là thấp (do nhiệt độ chảy cao, không có tổ chức cùng tinh) và ít được sử dụng để chế tạo vật đúc. Ngược lại với thép, khi nung nóng, gang không thể đạt được tổ chức một pha austenit mà bao giờ cũng còn xêmentit (hay grafit) nên không thể đem biến dạng nguội lẫn nóng, song bù lại nó có nhiệt độ chảy thấp hơn, trong tổ chức có cùng tinh với khả năng điền đầy khuôn cao. Chính vì vậy gang là vật liệu đúc, chỉ được cung cấp dưới dạng vật đúc (các sản phẩm định hình như chi tiết máy phức tạp: thân bệ, hộp, vỏ hay đơn giản nhống...). Gang có thành phần càng gần cùng tinh tính đúc càng cao. Nói chung tính dẻo của gang rất thấp, mặc dù một số loại có tính dẻo nhất định song không bao giờ được đem biến dạng dẻo. Khi lượng cacbon nằm trong vùng giáp ranh giữa thép và gang (1,80 - 2,20%) cả tính đúc lẫn tính chịu biến dạng dẻo đều kém và lúc đó xếp hợp kim Fe - C đó vào loại nào là tùy thuộc vào các thành phần khác, cách tạo hình và công dụng. Như vậy cũng không loại trừ một số rất ít trường hợp gang có 1,80 - 2,00%C, thép lại có 2,20 - 2,40%C. 2. ạ t g g t g đồ pha Fe – C Căn cứ vào tổ chức khác nhau trên giản đồ pha ta có ba loại thép và ba loại gang khác nhau. Thép tương ứng với giản đồ pha Fe - C là loại hợp kim ngoài Fe với C < 2,14% ra chỉ chứa lượng không đáng kể các nguyên tố khác (xem mục 5.1.1a), được gọi là thép cacbon hay thép thường, gồm ba loại nhỏ sau đây. - Thép trước cùng tích với lượng cacbon biến đổi từ 0,10 đến 0,70%, tức ứng với bên trái điểm S có tổ chức ferit (sáng) + peclit (tối) mà các tổ chức tế vi được trình bày ở hình 3.22. Phần lớn thép thường dùng nằm trong loại nhỏ này song tập trung hơn cả vào loại ≤ 0,20%C rồi tiếp đến 0,30 - 0,40%C. Theo tính toán từ quy tắc đòn bảy, khi lượng cacbon tăng lên thì trên tổ chức tế vi tỷ lệ phần peclit (màu tối) cũng tăng lên, còn phần ferit (màu sáng) giảm đi. Nếu không chứa cacbon (hay quá ít, 0,02 - 0,05%) có thể coi là sắt nguyên chất với tổ chức hầu như ferit (hình 3.19a) tức chỉ có các hạt sáng. Với 0,10%C (hình 3.22a) phần tối (peclit tấm) chiếm khoảng 1/8, với 0,40%C (hình 3.22b) là 1/2 và với 0,60%C (hình 3.22c) là 3/4, cuối cùng là 0,80%C (hình 2.20a) thì toàn bộ là màu tối (peclit tấm). Vậy đối với loại thép này lượng cacbon của nó được tính bằng tỷ lệ phần tối nhân với 0,80%. - Thép cùng tích với thành phần 0,80%C (có thể xê dịch một chút) tức ứng với điểm S có tổ chức chỉ gồm peclit. Hình 3.22. Tổ chức tế vi của các thép trước cùng tích (x500): a. 0,10%C, b. 0,40%C, c. 0,60%C. - Thép sau cùng tích với thành phần ≥ 0,90%C (thường chỉ tới 1,50%, cá biệt có thể tới 2.0 - 2,2%) tức ở bên phải điểm S có tổ chức peclit + xêmentit thứ hai thường ở dạng lưới sáng bao bọc lấy peclit tấm như ở hình 3.23. Gang tương ứng với giản đồ pha Fe - C (Fe - Fe3C) là gang trắng, rất ít được sử dụng do quá cứng, giòn, không thể gia công cắt được. Theo sự khác nhau về tổ chức ta gặp ba loại gang trắng sau. - Gang trắng trước cùng tinh với thành phần cacbon ít hơn 4,3% ở bên trái điểm C, có tổ chức peclit + xêmentit thứ hai + lêđêburit (hình 3.24a). - Gang trắng cùng tinh có 4,3%C ứng đúng điểm C hay lân cận, với tổchức chỉ là lêđêburit (hình 3.21). - Gang trắng sau cùng tinh với thành phần > 4,3%C ở bên phải điểm C, có tổ chức lêđêburit + xêmentit thứ nhất (hình 3.24b). Hình 3.23. Tổ chức tế vi của thép sau cùng tích (1,20%C) (x500). Hình 3.24. Tổ chức tế vi của gang trắng (x500): trước cùng tinh (a) và sau cùng tinh (b) 3. đ ểm tới hạn của thép Như thấy rõ từ giản đồ pha Fe - C (hình 3.18), trong khu vực của thép có rất nhiều đường ứng với các chuyển biến pha khác nhau. Để đơn giản hóa việc gọi tên các chuyển biến pha này người ta ký hiệu (đánh số) các đường tương ứng bằng chữ A (từ tiếng Pháp arrêt có nghĩa là dừng, vì khi có chuyển biến pha nhiệt độ biến đổi chậm lại đôi khi dừng hẳn) với các số thứ tự 0, 1, 2, 3, 4, và cm, chúng được gọi là các điểm (hay nhiệt độ) tới hạn. Các điểm tới hạn thường dùng nhất gồm: A1 - đường PSK (727oC) ứng với chuyển biến austenit ←→ peclit, có trong mọi loại thép. A3 - đường GS (911 - 727oC) ứng với bắt đầu tiết ra ferit khỏi austenit khi làm nguội hay kết thúc hòa tan ferit vào austenit khi nung nóng, chỉ có trong thép trước cùng tích. Acm - đường ES (1147 - 727oC) ứng với bắt đầu tiết ra xêmentit khỏi austenit khi làm nguội hay kết thúc hòa tan xêmentit vào austenit khi nung nóng, chỉ có trong thép sau cùng tích. [Các điểm tới hạn khác là A0 (210oC) - điểm Curi của xêmentit, A2 (768oC) - điểm Curi của ferit, A4 - đường JN (1499 - 1392oC) ứng với chuyển biến γ ←→ δ]. Có thể dễ dàng xác định (gần đúng) giá trị của A3 và Acm của các thép có thành phần cacbon khác nhau theo giản đồ pha Fe - C bằng cách gióng hay tính toán với quy ước các đường tương ứng GS và ES là thẳng. Tuy nhiên các điểm tới hạn tìm được này chỉ đúng với trạng thái cân bằng (nung nóng hay làm nguội vô cùng chậm), không phù hợp với các trường hợp nung nóng, làm nguội thông thường và nhanh. Cũng giống như các hiện tượng quá nguội (khi kết tinh), quá nung (khi nấu chảy) các điểm tới hạn này cũng thấp xuống hoặc cao lên khi làm nguội hoặc nung nóng; tốc độ càng cao sự cách biệt này càng lớn. Để phân biệt cùng một điểm tới hạn cho hai trường hợp: nung nóng và làm nguội, người ta thêm chữ c (chauffage) khi nung nóng, thêm chữ r (refroidissement) khi làm nguội. Với cùng một thép bao giờ cũng có: Ac1 > A1 > Ar1; Ac3 > A3 > Ar3..., trong đó A tính theo giản đồ pha còn Ac cao hơn và phụ thuộc vào tốc độ nung, Ar thấp hơn và phụ thuộc vào tốc độ nguội, tốc độ càng cao sự sai khác càng mạnh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgian_do_trang_thai_cua_hop_kim_hai_cau_tu_8176.pdf
Tài liệu liên quan