Thống kê của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Trung ương cho thấy, sau cổ phần hóa, quy mô, hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp hầu hết đều tăng rõ rệt. Vốn điều lệ bình quân của các doanh nghiệp tăng 44%, doanh thu tăng 23,6%, lợi nhuận tăng 140%, hơn 90% số công ty CPH làm ăn có lãi, nộp ngân sách nhà nước tăng 24,9%, cô tức bình quân đạt hơn 17% năm.
Từ năm 1992 đến nay, cả nước đã có trên 1000 doanh nghiệp Nhà nước(DNNN) được chuyển đổi sở hữu, trong đó cổ phần hoá gần 900 doanh nghiệp, số còn lại là chuyển giao, bán và khoán kinh doanh.
Chương trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, mà trọng tâm là cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được triển khai thí điểm từ năm 1992. Mục đích của chương trình này là tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có chủ sở hữu là người lao động, để quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, tạo cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp, đồng thời giúp doanh nghiệp có thể huy động vốn trong toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp. Song do chưa có đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này và chưa có hướng dẫn cụ thể nên từ năm 1992 đến hết năm 1997, cả nước mới có 38 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa.
Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước thực sự có bước chuyển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần vào tháng 6/1998, trong đó nêu rõ các chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động tại các doanh nghiệp cổ phần hoá. Nghị định này đã trở thành đòn bẩy đưa lộ trình cổ phần hoá đi nhanh hơn. Từ năm 1998 đến đầu năm 2002, cả nước đã cổ phần hoá trên 800 doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này hoạt động trên 3 lĩnh vực chính thương mại, công nghiệp và xây dựng và được phân bổ ở khắp các vùng, miền trong cả nước.
14 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1092 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Giải pháp phương hướng, nhiệm vụ đến 2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
A/ Mở đầu
B/ Nội dung
Lý luận chung
Đánh giá về thực trạng
Giải pháp
C/ Kết luận
A/ Mở đầu
Thống kê của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Trung ương cho thấy, sau cổ phần hóa, quy mô, hiệu quả hoạt động các doanh nghiệp hầu hết đều tăng rõ rệt. Vốn điều lệ bình quân của các doanh nghiệp tăng 44%, doanh thu tăng 23,6%, lợi nhuận tăng 140%, hơn 90% số công ty CPH làm ăn có lãi, nộp ngân sách nhà nước tăng 24,9%, cô tức bình quân đạt hơn 17% năm.
Từ năm 1992 đến nay, cả nước đã có trên 1000 doanh nghiệp Nhà nước(DNNN) được chuyển đổi sở hữu, trong đó cổ phần hoá gần 900 doanh nghiệp, số còn lại là chuyển giao, bán và khoán kinh doanh.
Chương trình sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, mà trọng tâm là cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước được triển khai thí điểm từ năm 1992. Mục đích của chương trình này là tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có chủ sở hữu là người lao động, để quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn, tạo cơ chế quản lý năng động cho doanh nghiệp, đồng thời giúp doanh nghiệp có thể huy động vốn trong toàn xã hội để đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh, thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp. Song do chưa có đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề này và chưa có hướng dẫn cụ thể nên từ năm 1992 đến hết năm 1997, cả nước mới có 38 doanh nghiệp Nhà nước được cổ phần hóa.
Tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước thực sự có bước chuyển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định về việc chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần vào tháng 6/1998, trong đó nêu rõ các chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động tại các doanh nghiệp cổ phần hoá. Nghị định này đã trở thành đòn bẩy đưa lộ trình cổ phần hoá đi nhanh hơn. Từ năm 1998 đến đầu năm 2002, cả nước đã cổ phần hoá trên 800 doanh nghiệp, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp này hoạt động trên 3 lĩnh vực chính thương mại, công nghiệp và xây dựng và được phân bổ ở khắp các vùng, miền trong cả nước.
B nội dung
I. Lý luận chung
Theo đánh giá của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước, việc chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần không chỉ giúp Nhà nước bảo tồn nguồn vốn mà còn tăng đáng kể tỉ suất lợi nhuận trên đồng vốn. Các doanh nghiệp hoạt động năng động, nhạy bén và tự chủ hơn trong kinh doanh. Quá trình cổ phần hoá đã thu hút rộng rãi các nguồn vốn của người lao động cả trong doanh nghiệp và ngoài xã hội, nhờ đó doanh nghiệp có vốn đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển sản xuất kinh doanh theo chiều sâu. Qua khảo sát hơn 400 doanh nghiệp cổ phần hoá ở 15 tỉnh, thành phố, doanh thu hàng năm của các doanh nghiệp này tăng trung bình 20%, thu nhập của người lao động tăng 21%.
Mặc dù các văn bản quy phạm pháp luật về cổ phần hoá đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần, nhưng vẫn chưa theo kịp với yêu cầu và đòi hỏi thực tế. Đây là nguyên nhân chính làm cho các doanh nghiệp Nhà nước trong diện cổ phần hoá còn băn khoăn và các doanh nghiệp đã cổ phần hoá gặp không ít vướng mắc. Bên cạnh đó, việc thiếu nguồn tài chính để xử lý công nợ cho doanh nghiệp khi cổ phần hoá, định giá doanh nghiệp chưa phù hợp với cơ chế thị trường, thiếu công khai minh bạch trong cổ phần hoá đã làm cho tiến độ cải cách doanh nghiệp chậm hơn so với kế hoạch
THỰC TRẠNG
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đang được thực hiện một cách phổ biến trên phạm vi cả nước. Vậy đó có phải là kết quả của đổi mới tư duy về sở hữu nhà nước, là khâu đột phá vào sở hữu nhà nước hay không? Sau khi cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp đó có còn thuộc thành phần kinh tế nhà nước nữa không? Vai trò làm chủ của người lao động được thể hiện như thế nào ở doanh nghiệp đó
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là đột phá vào sở
hữu nhà nước của chủ nghĩa xã hội (CNXH) mô hình cũ, theo tư duy mới của Đảng ta về sở hữu xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong quá trình tìm tòi, thể nghiệm và cụ thể hóa con đường đi lên CNXH ở nước ta. Vì thế, cổ phần hóa DNNN thực sự là một nhiệm vụ chính trị quan trọng, rất nhạy cảm.
Doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận trong thành phần kinh tế nhà nước. Việc sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa DNNN là nhằm trực tiếp nâng cao hiệu quả của DNNN, bảo đảm DNNN làm tốt nhiệm vụ nòng cốt, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, và qua đó, phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế khác.
Cổ phần hóa DNNN cũng như cổ phần hóa các doanh nghiệp nói chung trong các thành phần kinh tế khác là xử lý về mặt quan hệ sản xuất để phát triển lực lượng sản xuất, kết hợp chặt chẽ lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Cổ phần hóa góp phần tích cực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH): các doanh nghiệp động viên và tập trung được những khoản vốn lớn để đổi mới công nghệ, đào tạo và đào tạo lại nhân lực… Đẩy mạnh CNH, HĐH, tiếp cận những thành tựu của lực lượng sản xuất, làm động lực đẩy mạnh cổ phần hóa, không ngừng hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp. Như vậy, giữa cổ phần hóa và CNH, HĐH có mối liên quan chặt chẽ, không thể tách rời.
Tiêu chí quan trọng nhất đánh giá thành công của cổ phần hóa DNNN là hiệu quả của các DNNN đã cổ phần hóa. Hiệu quả này phản ánh lợi ích không chỉ của bản thân DNNN mà của cả các thành phần kinh tế khác, đồng thời cũng là tác động tích cực trở lại của các thành phần kinh tế khác đối với DNNN đã cổ phần hóa. Đương nhiên, cổ phần hóa mới chỉ là xử lý về mặt sở hữu; còn phải xử lý về mặt quản lý và phân phối, mà then chốt là quản lý, mới phát huy được hiệu quả của DNNN cổ phần hóa.
Thành công của cổ phần hóa DNNN là một thành công “kép”, nghĩa là nó làm cho lực lượng sản xuất không chỉ phát triển theo hướng hiện đại, mà còn theo định hướng XHCN. Bởi vì, đây là những doanh nghiệp cổ phần thuộc thành phần kinh tế nhà nước, với vị trí, vai trò và trách nhiệm của chúng. Vấn đề là, trong quá trình huy động các nguồn vốn để cổ phần hóa DNNN, phải xác định cơ cấu sở hữu và chủ sở hữu của doanh nghiệp cổ phần như thế nào đó cho hợp lý, để doanh nghiệp cổ phần vẫn thuộc thành phần kinh tế nhà nước, không phải thuộc thành phần kinh tế khác - điều mà dư luận rộng rãi rất quan tâm.
Tôi cho rằng, trong đổi mới tư duy về CNXH, có lẽ điều khó khăn nhất, nhưng quyết định là đổi mới tư duy về sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân, mà ta vẫn gọi là “công hữu XHCN” (không phải là công hữu cộng sản chủ nghĩa phủ định chế độ tư hữu mà C.Mác và Ph.Ăng-ghen nêu trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”). Chế độ sở hữu XHCN “truyền thống” đã phát huy rõ rệt mặt tích cực trong những điều kiện nhất định, nhưng lại bộc lộ mặt tiêu cực trong những điều kiện khác, dần dần được coi là “vô chủ”, thiếu động lực, và do vậy, nó nhất thiết phải đổi mới. Cổ phần hóa DNNN chính là đột phá vào mặt tiêu cực này. Cho nên, giải quyết nó không hề đơn giản. Trong quá trình giải quyết nó, phải thực sự cầu thị, thận trọng, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, luôn luôn giữ vững định hướng XHCN, nhất là khi nước ta đã trở thành thành viên của WTO.
Doanh nghiệp cổ phần “đa chủ sở hữu” có trong nhiều hình thức sở hữu (đa sở hữu) cũng bao gồm nhiều loại. Có loại cổ đông gồm những nhà tư bản và những người lao động (không nói đến những người lao động làm thuê); nhưng nếu do hình thức sở hữu tư nhân chi phối thì thuộc thành phần kinh tế tư nhân. Có loại cổ đông gồm nhà nước, người lao động và tư nhân, như những doanh nghiệp cổ phần đã hình thành trong quá trình cổ phần hóa DNNN ở nước ta trong thời gian qua. Nhưng về mặt lý luận, không phải doanh nghiệp cổ phần nào gồm ba chủ sở hữu như vậy đều là DNNN, mà có thể thuộc các thành phần kinh tế khác, tùy theo hình thức sở hữu nào chi phối trong cơ cấu sở hữu của những doanh nghiệp cổ phần đó.
Doanh nghiệp cổ phần có nhiều loại hình rất phong phú và thường có nhiều biến động trong kinh tế thị trường. Có những trường hợp khó xếp vào thành phần kinh tế nào. Người ta thường lấy hình thức sở hữu chi phối làm tiêu chí chủ yếu để phân chia loại hình doanh nghiệp cổ phần. Tuy nhiên, không nên rập khuôn, máy móc khi áp dụng tiêu chí này.
Trong quá trình cổ phần hóa DNNN, cần tiếp tục có chủ trương, chính sách làm cho người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần giữ được và phát triển cổ phần, phát triển cổ đông là những người lao động trong doanh nghiệp; bảo đảm quyền sở hữu trực tiếp của người lao động trong doanh nghiệp cổ phần - cơ sở vật chất của quyền làm chủ doanh nghiệp cổ phần của người lao động.
Trong nền kinh tế thị trường, vốn xã hội dành cho sản xuất, kinh doanh được lưu thông trong toàn xã hội, trong các tầng lớp dân cư. Nhiều người dân, cả những người lao động có tài sản, tham gia đầu tư, sở hữu cổ phiếu. Hầu hết các doanh nghiệp cổ phần đều tham gia thị trường chứng khoán, và tùy theo diễn biến của thị trường chứng khoán mà thay đổi về chủ sở hữu, trong đó có thể có cả hình thức sở hữu chi phối của doanh nghiệp. Do yêu cầu mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ hiện đại…, yêu cầu tập trung những khoản vốn lớn, rất lớn, nên đã hình thành dần những công ty cổ phần, những tập đoàn tư bản độc quyền xuyên quốc gia và đa quốc gia. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty cổ phần đã trải qua một thời gian dài, gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong văn minh công nghiệp và từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ, trong sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản truyền thống sang chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản hiện đại.
- Trong quá trình cổ phần hóa DNNN thời gian qua, đã hình thành những doanh nghiệp cổ phần bao gồm ba chủ sở hữu: nhà nước, người lao động trong doanh nghiệp và cổ đông ngoài doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp tuy gồm ba chủ sở hữu nói trên, nhưng nếu hình thức sở hữu chi phối trong mỗi doanh nghiệp khác nhau hoặc thay đổi, thì sẽ hình thành những doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Vậy thế nào là doanh nghiệp cổ phần thuộc thành phần kinh tế nhà nước?
Trong những doanh nghiệp cổ phần có ba chủ sở hữu, nếu sở hữu của tập thể người lao động chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tập thể; nếu sở hữu nhà nước và sở hữu tư bản tư nhân chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư bản nhà nước. Còn trường hợp sở hữu tư bản tư nhân chi phối thì doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư bản tư nhân (ở đây, Nhà nước và người lao động đầu tư vào doanh nghiệp tư nhân). Đó thường là tình hình sau cổ phần hóa, người lao động không có điều kiện mua và giữ cổ phiếu của mình, thậm chí phải bán cổ phiếu để cải thiện đời sống (chứ không phải không nhận thức được quyền làm chủ của mình), nên trong cơ cấu sở hữu của doanh nghiệp cổ phần, sở hữu tư nhân dần dần chi phối (một hoặc nhiều chủ tư nhân). Và như vậy, cổ phần hóa biến thành tư nhân hóa!
Những doanh nghiệp cổ phần là những “trí nghiệp” có tương lai rực rỡ trong kinh tế tri thức. Với giá trị chất xám của mình, những “trí nghiệp” có tác dụng giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Đương nhiên, mọi doanh nghiệp đều phải tiếp cận những thành tựu của cách mạng tin học, từng bước góp phần xây dựng và phát triển kinh tế tri thức, nhằm mở rộng sản xuất, kinh doanh theo hướng hiện đại.
Từ sự phân tích ở trên, chúng ta thấy rằng, trong nhiệm vụ cổ phần hóa DNNN, vai trò chủ sở hữu của người lao động trong doanh nghiệp là một vấn đề cực kỳ quan trọng, là cốt lõi trong tư duy mới về sở hữu nhà nước, sở hữu toàn dân, hay về công hữu của chủ nghĩa xã hội.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng còn có chủ trương đúng là phát triển mạnh mẽ các doanh nghiệp cổ phần; thông qua việc đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN và phát triển các doanh nghiệp cổ phần khác trong các thành phần kinh tế, để hình thức kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế nước ta. Qua đây, chúng ta có điều kiện huy động nhiều, rất nhiều vốn trong các tầng lớp dân cư, cả vốn nước ngoài, tạo nên chế độ đa sở hữu, đồng sở hữu, sự xen kẽ các hình thức sở hữu khác nhau trong các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, giữa các thành phần kinh tế. Từ đó, tạo nên sự thống nhất về lợi ích kinh tế, làm cơ sở vật chất cho sự thống nhất dân tộc và hội nhập quốc tế. Các doanh nghiệp nói chung, các DNNN nói riêng cần tìm những đối tác chiến lược trong và ngoài nước để mở rộng sản xuất, kinh doanh theo đường lối kinh tế của Đảng và phù hợp với thông lệ quốc tế. Đương nhiên, mặt thống nhất nào cũng có mặt đối lập của nó trong mâu thuẫn, do đó cần có cách xử lý khôn ngoan để phát triển mặt thống nhất là chính.
Phát huy hiệu quả của DNNN cổ phần hóa, làm nòng cốt phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; phát triển mạnh mẽ các doanh nghiệp cổ phần trong tất cả các thành phần kinh tế, lấy kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể làm nền tảng, chính là thực hiện về mặt kinh tế đại đoàn kết dân tộc, lấy liên minh công nhân, nông dân và trí thức làm nền tảng. Hơn thế, đó còn là nhằm thực hiện mục tiêu đưa nhân dân lao động lên làm chủ, bảo đảm mọi người lao động đều có cơ sở vật chất của mình; bảo đảm nền dân chủ XHCN được xây dựng và củng cố bằng cơ sở vật chất của CNXH, dù còn ở trình độ phát triển chưa cao.
Phát huy hiệu quả của DNNN cổ phần hóa, làm nòng cốt phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; phát triển mạnh mẽ các doanh nghiệp cổ phần trong tất cả các thành phần kinh tế, lấy kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể làm nền tảng, chính là thực hiện về mặt kinh tế đại đoàn kết dân tộc, lấy liên minh công nhân, nông dân và trí thức làm nền tảng. Hơn thế, đó còn là nhằm thực hiện mục tiêu đưa nhân dân lao động lên làm chủ, bảo đảm mọi người lao động đều có cơ sở vật chất của mình; bảo đảm nền dân chủ XHCN được xây dựng và củng cố bằng cơ sở vật chất của CNXH, dù còn ở trình độ phát triển chưa cao.
GIẢI PHÁP
Phương hướng, nhiệm vụ đến 2010
Theo số liệu tổng hợp từ các Bộ, địa phương, tổng công ty 91, đến nay, cả nước còn 2.176 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước với tổng số vốn nhà nước gần 260 nghìn tỷ đồng. Trong đó, 1.546 doanh nghiệp hoạt động sản xuất, kinh doanh, 335 doanh nghiệp quốc phòng an ninh và sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích và 295 nông, lâm trường quốc doanh. Phân theo cơ quan chủ sở hữu, có 301 doanh nghiệp thuộc tổng công ty 91; 408 doanh nghiệp thuộc tổng công ty 90; 307 doanh nghiệp thuộc các Bộ, ngành; 1.160 doanh nghiệp thuộc địa phương.
Với những bối cảnh và yêu cầu nêu trên, phấn đấu đến cuối năm 2009, cơ bản hoàn thành việc sắp xếp DNNN. Cụ thể là:
a) Tiếp tục cổ phần hóa các công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, địa phương:
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh: tiến hành cổ phần hóa toàn bộ, kể cả doanh nghiệp hoạt động ở địa bàn khó khăn. Có chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế, thu hút các nhà đầu tư có tiềm năng đến mua cổ phần của các doanh nghiệp cổ phần hoá ở địa bàn này. Những doanh nghiệp có khó khăn về tài chính cần cơ cấu lại trước khi chuyển đổi sở hữu.
Những doanh nghiệp kết hợp kinh tế với quốc phòng, kinh tế với an ninh thuộc Bộ Quốc phòng và Bộ Công an hoạt động trong lĩnh vực may mặc, xây lắp, thương mại... sẽ cổ phần hóa; trường hợp thật cần thiết Nhà nước mới giữ cổ phần chi phối. Có chính sách, chế độ lương hợp lý đối với số sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp làm việc trong các doanh nghiệp cổ phần hoá.
Những công ty không còn vốn nhà nước thì bán, giải thể hoặc phá sản.
Đối với những doanh nghiệp quy mô nhỏ, có cùng ngành nghề hoặc có mối quan hệ về công nghệ, thị trường... với các doanh nghiệp khác thì xem xét sáp nhập, hợp nhất, không phụ thuộc vào doanh nghiệp do địa phương hay do Trung ương quản lý để hình thành những doanh nghiệp quy mô lớn hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con.
Sau khi tổ chức lại sẽ tiến hành cổ phần hóa công ty mẹ. Việc sáp nhập, hợp nhất không được làm ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất, kinh doanh, tài chính của đơn vị nhận sáp nhập, hợp nhất; phải tiến hành xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính, lao động trước khi thực hiện phương án sáp nhập, hợp nhất. Tránh tình trạng thực hiện sáp nhập một số DNNN quản lý yếu kém, kinh doanh thua lỗ vào các DNNN đang kinh doanh có hiệu quả làm giảm sức mạnh của đơn vị tiếp nhận.
Đối với doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích: Chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn 1 thành viên các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh thực hiện sản xuất, cung ứng sản phẩm dịch vụ công ích, nhiệm vụ quốc phòng an ninh ;
Thực hiện cổ phần hóa với lộ trình phù hợp, trước mắt Nhà nước giữ cổ phần chi phối đối với các doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích theo phương thức đặt hàng, giao kế hoạch quy định tại Nghị định số 31/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2005.
Cổ phần hóa, Nhà nước không cần nắm giữ cổ phần hoặc chỉ nắm giữ cổ phần ở mức thấp (< 35%) tại các doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích theo phương thức đấu thầu, đặt hàng quy định tại Nghị định nói trên.
b) Đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hóa các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước:
Các tổng công ty nhà nước là lực lượng chủ lực trong nền kinh tế quốc dân, chiếm tới 87% tổng vốn nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp, riêng các tổng công ty 91 chiếm 71,6%. Những năm trước đây chúng ta chủ yếu sắp xếp, cổ phần hóa những doanh nghiệp quy mô nhỏ, có một số ít doanh nghiệp quy mô vừa và lớn nhằm thu gọn đầu mối. Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu... và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, cần thực hiện mạnh việc sắp xếp, cổ phần hóa các tổng công ty nhà nước, coi đây là khâu đột phá trong cơ cấu lại, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, thực hiện đổi mới quản trị công ty, cải cách hành chính, góp phần phòng và chống tham nhũng có hiệu quả.
Việc cổ phần hóa các tập đoàn, tổng công ty là vấn đề mới mẻ, hệ trọng, khó khăn và phức tạp. Vì vậy, cần phải có quan điểm, phương pháp, bước đi phù hợp, chắc chắn, giữ vững ổn định sản xuất, không gây tác động đến môi trường đầu tư, đời sống người lao động và xã hội. Khẩn trương phân loại rõ những tập đoàn, tổng công ty nhà nước cần nắm giữ 100% vốn; những tập đoàn, tổng công ty cần cổ phần hoá. Nhà nước chỉ nắm giữ 100% vốn đối với các tập đoàn, tổng công ty hoạt động có hiệu quả, được Nhà nước giao quản lý, khai thác và phân phối một bộ phận tài nguyên quốc gia, làm công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô.
Các tổng công ty nhà nước là những doanh nghiệp có quy mô lớn, đa số hoạt động có hiệu quả, tuy nhiên, vẫn còn một số tổng công ty kết quả sản xuất, kinh doanh còn thấp. Để cổ phần hóa một cách hiệu quả, cần phân thành hai loại: loại hoạt động có hiệu quả thì tiến hành cổ phần hóa ngay, loại hiệu quả chưa cao thì cần làm rõ nguyên nhân để có biện pháp nâng cao hiệu quả trước khi cổ phần hóa như: đầu tư, sắp xếp lại, lành mạnh hóa tình hình tài chính, đổi mới tổ chức cán bộ.
c) Cổ phần hoá các ngân hàng thương mại, các công ty bảo hiểm:
Ngân hàng thương mại nhà nước là loại doanh nghiệp đặc thù, là một kênh cung cấp vốn quan trọng nhất cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng. Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại nhà nước có vốn điều lệ và hệ số an toàn vốn còn thấp, năng lực quản lý, trình độ công nghệ còn yếu, các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng còn nghèo, mới tập trung chủ yếu vào hoạt động cấp tín dụng. Ngân hàng thương mại nhà nước nhìn chung chưa thật sự đáp ứng nhu cầu vay vốn, mối quan hệ giữa ngân hàng và doanh nghiệp chưa thật sự bình đẳng, vừa là đối tác, vừa là bạn hàng, gắn bó chặt chẽ với nhau để hoạt động và phát triển. Trong các năm 2007 - 2010, cần tập trung chỉ đạo đổi mới và phát triển ngân hàng thương mại nhà nước
Đối với Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam, cần khẩn trương thực hiện đề án cổ phần hóa Tổng công ty này và hình thành Tập đoàn Tài chính bảo hiểm Bảo Việt mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt. Đối với Công ty Bảo hiểm Dầu khí, cần xây dựng đề án cổ phần hóa, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt ngay trong đầu năm 2007 và đi vào thực hiện. Việc cổ phần hóa hai công ty bảo hiểm nhà nước này phải chú trọng tới ổn định và phát triển thị trường bảo hiểm trong nước, đồng thời có biện pháp nhanh chóng vươn ra thị trường quốc tế.
Đối với các công ty dịch vụ tài chính, cần tiến hành rà soát để đề ra và thực hiện lộ trình cổ phần hóa phù hợp với đặc thù của loại hình doanh nghiệp này và yêu cầu phát triển thị trường tài chính.
Tổng hợp lại, theo phương án trên, từ nay đến hết năm 2010, sẽ cổ phần hóa khoảng 1.500 doanh nghiệp và đến cuối năm 2010 cả nước có 554 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, trong đó 26 tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn; 178 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng, sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ thiết yếu; 200 nông, lâm trường; 150 doanh nghiệp thành viên các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
KẾT LUẬN
- Trước mắt chúng ta là cả một nhiệm vụ nặng nề và khó khăn nhưng rất vẻ vang. Đó là tiếp tục sắp xếp, đổi mới, cổ phần hóa, nhằm phát huy hiệu quả sản xuất, kinh doanh của mấy nghìn DNNN,
chủ yếu là những doanh nghiệp lớn, những tập đoàn kinh tế, những tổng công ty nắm giữ phần vốn chủ yếu của Nhà nước trong các doanh nghiệp. Đồng thời, tiếp tục triển khai việc cổ phần hóa doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế khác.
Tôi cho rằng, để làm tốt nhiệm vụ này, cần qua thực tiễn, tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế, nhất là đổi mới tư duy về sở hữu nhà nước, về sở hữu toàn dân, công hữu, gắn liền với việc bổ sung, hoàn chỉnh cơ chế, chính sách, chú ý vấn đề chủ sở hữu cổ phần của cá nhân và tập thể người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa. Đồng thời, tập trung nghiên cứu xử lý vấn đề quản lý tại những DNNN cổ phần hóa, và cả quản lý những tài sản thuộc sở hữu toàn dân, công hữu - là vấn đề không ít khó khăn và phức tạp, liên quan đến nhiều bộ phận cấu thành trong hệ thống chính trị.
Trên con đường quán triệt và không ngừng hoàn thiện đường lối kinh tế của Đảng, nhất là khi nước ta đã gia nhập WTO, cần tổng kết đúng đắn quá trình cổ phần hóa DNNN trong thời gian qua cũng như toàn bộ nhiệm vụ đó sau này. Đó sẽ là một cơ sở thực tiễn phong phú và một cơ sở lý luận có tính thuyết phục để xây dựng chiến lược doanh nghiệp nói chung, DNNN nói riêng, kết hợp chặt chẽ với đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng kinh tế tri thức, góp phần tích cực khắc phục lạc hậu, nghèo nàn, xây dựng đất nước phồn vinh, nhân dân ấm no, tự do, hạnh phúc, đồng thời góp phần quan trọng tiếp tục làm rõ thêm con đường đi lên CNXH ở Việt Nam
Trường Đại học kinh tế Quốc dân
Bộ môn Kinh tế - Chính trị
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
Đề tài : Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
Người thực hiện :Nguyễn Lan Hương
Lớp :Kinh doanh tổng hợp 2c
Hà Nội 2008
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C7893 ph7847n ha doanh nghi7879p nh n4327899c 7903 Vi7879t Nam.doc