Giải pháp phát triển thị trường hàng hoávà dịch vụ trong tkqđ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Kinh tế Việt Nam trong TKQĐ lên CNXH

- Vai trò của thị truờng hàng hoá dịch vụ trong kinh tế thị trường

- Những nhân tố chính góp phần xây dựng và phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ .

- Tìm hiểu rõ những vấn đề liên quan đến phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.

- Chính sách của nhà nước

- Đưa ra được thực trạng phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ.

- Chính sách của Nhà nước liên quan đến thị trường hàng hoá dịch vụ

- Đưa ra giải pháp phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ

- Những thành tựu đạt được sau 20 năm đổi mới

- Định hướng phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ

 

 

doc20 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1324 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giải pháp phát triển thị trường hàng hoávà dịch vụ trong tkqđ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN NHÓM 11 TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ ĐỀ TÀI: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG HÀNG HOÁVÀ DỊCH VỤ TRONG TKQĐ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM I. ĐỀ CƯƠNG SƠ LƯỢC 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI - Đề tài phù hợp với thực trạng phát triển thị trường Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là thị trường hàng hoá và dịch vụ - Để từ đó đưa ra được giải phát thích hợp để phát triển thị trường. - Đề tài đã được sự thống nhất của cả nhóm. 2. NỘI DUNG CHÍNH - Kinh tế Việt Nam trong TKQĐ lên CNXH - Vai trò của thị truờng hàng hoá dịch vụ trong kinh tế thị trường - Những nhân tố chính góp phần xây dựng và phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ . - Tìm hiểu rõ những vấn đề liên quan đến phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. - Chính sách của nhà nước - Đưa ra được thực trạng phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ. - Chính sách của Nhà nước liên quan đến thị trường hàng hoá dịch vụ - Đưa ra giải pháp phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ - Những thành tựu đạt được sau 20 năm đổi mới - Định hướng phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ 3.KẾT LUẬN II. NỘI DUNG 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI - Đề tài phù hợp với thực trạng phát triển thị trường Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là thị trường hàng hoá và dịch vụ - Để từ đó đưa ra được giải phát thích hợp để phát triển thị trường. - Đề tài đã được sự thống nhất của cả nhóm. 2. NỘI DUNG CHÍNH 2.1 Kinh tế Việt Nam trong TKQĐ lên CNXH Nước ta đã lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội từ cuối những nǎm 70, khi hầu hết các chỉ tiêu của kế hoạch 5 nǎm 1976 - 1980 đều không thực hiện được. Khủng hoảng đã diễn ra trong lúc tình hình rất không thuận lợi cho ta, đặc biệt là tình hình các nước XHCN khác lúc này cũng đang bị khủng hoảng nghiêm trọng. Những tìm tòi, thử nghiệm trong thời kỳ 1979 - 1986 đã chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho việc Đảng ta đưa ra đường lối đổi mới tại Đại hội VI (12-1986). Đại hội VI đã thực sự mở ra một bước ngoặt trên con đường quá độ lên CNXH ở nước ta. Thời kỳ quá độ lên CNXH của nước ta bao gồm nhiều chặng đuờng. Chặng đường đầu của thời kỳ quá độ đã kết thúc vào nǎm 1996: từ đó chuyển sang chặng đường mới, được gọi là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, kéo dài từ nǎm 1996 đến nǎm 2020. Thực tiễn công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ cho phép Đảng ta rút ra những kết luận mới về thời kỳ quá độ, tiếp tục làm sáng tỏ thêm con đường đi lên CNXH của nước ta. Trích lời Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trả lời phỏng vấn phóng viên Hãng Ria- Novosti thường trú tại Hà Nội(Ngày 02 tháng 7 năm 2001) “Chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp với thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam, thời kỳ xuất hiện nhiều hình thức kinh tế quá độ đan xen. Chủ trương này ra đời từ quá trình đổi mới, từ quá trình xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, từ bối cảnh khắc phục tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng chúng tôi chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc. Trên cơ sở mô hình tổng quát của nền kinh tế thị trường, đường lối kinh tế của nước chúng tôi được xác định trong hai thập niên đầu của thế kỷ XXI là : đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đưa nước chúng tôi trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nhanh , có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.” 2.2 Vai trò của thị trường hàng hoá, dịch vụ trong nền kinh tế thị trường Thị trường: - Chuyển việc mua bán hàng hoá từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang mua bán theo cơ chế thị trường, giá cả được hình thành trên cơ sở cung cầu. Nét nổi bật trong đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước về Thương nghiệp là xoá bỏ cơ chế bù lỗ. - Chuyển thị trường từ trạng thái chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính "tự cấp, tự túc" sang tự do lưu thông theo quy luật kinh tế thị trường và theo pháp luật. - Doanh nghiệp Nhà nước được sắp xếp lại, đội ngũ các nhà quản lý được đào tạo trong cơ chế mới, ý thức về hiệu quả được tăng cường hơn. Sau khi có Quyết Định 12 TW của Bộ Chính trị Thương nghiệp ở thị trường nội địa phát triển có chất lượng hơn, phù hợp với quy luật kinh tế thị trường, mặt khác nhà nước cũng đã tạo được cơ sở pháp lý phù hợp. Quản lý Nhà nước về Thương mại được xác lập, chủ yếu theo pháp luật và định hướng để các doanh nghiệp mọi thành phần kinh tế hoạt động. a-Việc tổ chức thị trường, thiết lập các kên lưu thông đã chuyển theo quy luật phân công lao động trong chu trình tái sản xuất xã hội, đã hình thành các kênh lưu thông từ sản xuất, xuất nhập khẩu đến người tiêu dùng. b- ở khu vực đô thị đã hình thành nhiều mô hình tổ chức kinh doanh văn minh, hiện đại như siêu thị, cửa hàng tự chọn. Hệ thống chợ được hình thành và xây dựng mới ở cả thành thị, nông thôn và miền núi. Đối với Thị trường miền núi vẫn tiếp tục thực hiện chính sách trợ giá đối với một số mặt hàng thiết yếu. c- Đối với các vật tư chủ yếu để bảo đảm giá cả ổn định Nhà nước quy định giá trần bán lẻ tối đa đối với xi măng, thép, xăng dầu, phân bón. d- Thương nghiệp quốc doanh được sắp xếp lại theo hướng tạo nguồn hàng bán buôn, tham gia kinh doanh bán lẻ đối với một số mặt hàng thiết yếu, đã thu hẹp lại về số lượng nhất là doanh nghiệp thương nghiệp ở huyện. - Vai trò của thương mại Thương mại là động lực của toàn cầu hóa. Trong 20 năm (1955 - 1975) thương mại thế giới trong sản phẩm chế tạo đã tăng hơn 100 lần (từ 95 tỉ USD tới 12 nghìn tỉ USD), nhanh hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng toàn bộ của kinh tế thế giới. Kể từ năm 1960, thương mại đã được tạo thuận lợi để phát triển do có các thỏa thuận toàn cầu về việc giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối với việc xuất khẩu các sản phẩm chế tạo, đặc biệt tới các nước giàu. Chất lượng cuộc sống của người dân Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc tăng lên nhanh chóng do những nước này đã cố gắng tăng vai trò của họ trong hệ thống thương mại thế giới bằng việc đặt mục tiêu vào xuất khẩu sang các nước giàu. Trong những năm hậu "chiến tranh lạnh", các công ty đa quốc gia (các công ty hoạt động xuyên biên giới) trở nên toàn cầu hóa hơn do đặt các nhà máy sản xuất ở nước ngoài để lợi dụng chi phí lao động rẻ và gần với thị trường hơn. Hiện nay, toàn cầu hóa thậm chí khó nhận diện hơn do 1/3 thương mại được thực hiện trong phạm vi các công ty, ví dụ Toyota chở phụ tùng ô tô từ Nhật Bản sang Mỹ để lắp ráp. Một số công ty đa quốc gia khác, chẳng hạn như Ép-pồ (Apple), đã chuyển phần lớn sản xuất tới châu Á. - Vai trò của ngành du lịch + Kính thính các ngành sản xuất vật chất phát triển + Sử dụng tốt hơn nguồn lao động trong nước, tạo việc làm cho người dân 2.3 Những nhân tố chính góp phần xây dựng thị trường hàng hoá và dich vụ trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam - Việc chuyển dần từ cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường tạo tự do hoá giá cả, khôi phục các quan hệ hàng hoá tiền tệ cho thị trường hàng hoá và dịch vụ có cơ hội phát triển. Đại hội đảng VI ( tháng 12/1986 ) đã quyết định : “ xoá bỏ chế độ tập chung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN ”. ( Đảng Cộng Sản Việt Nam, tài liệu đã dẫn, tr.98 ). Trong nền kinh tế tập chung trước đây, Nhà nước quy định giá cả thu mua nông sản của nông dân, giá cả với hầu hết các hàng hoá vật tư, nguyên liệu nhiên liệu là đầu vào của sản suất và quản lý phân phối các loại hàng hoá này thông qua các hệ thống các cơ quan cung ứng vật tư của nhà nước. Giá cả hàng hoá tiêu dùng nói chung cũng đều do nhà nước qui định và được phân phối bằng tem phiếu và thông qua mạng lưới mậu dịch quốc doanh và hợp tác xã mua bán (gọi là thị trường có tổ chức). Cơ chế giá cả đó làm cho nền kinh tế mang tính hiện vật, hạn chế các qui luật của kinh tế thị trường và giảm hiệu quả kinh tế. Đổi mới cơ chế hình thành và quản lý giá cả đã được đề ra ở đại hội đảng VI: “Chính sách giá cả phải vận dụng tổng hợp các qui luật, trong đó qui luật giá trị có tác dụng trực tiếp. Giá cả phù hợp với giá trị, đồng thời phải phù hợp với sức mua của đồng tiền… Phải phấn đấu thi hành chính sách một giá kinh doanh:. Cải cách giá cả được thực hiện căn bantrong những năm 1987-1990, cụ thể là: + Xoá bỏ cơ chế định giá nông sản bán theo nghĩ vụ đối với nông dân. Nông dân sau khi hoàn thành nghĩa vụ về thuế, có quyền tư do bán sản phẩm trên thị trường. Năm 1987-1988, nhà nước dùng vật tư đổi lấy nông sản hoặc mua bằng tiền mặt theo khung giá theo trung ương chỉ đạo (giá mua nông sản đã được tăng lên), đến đầu năm 1988, Nhà nước đã không còn định ra khung giá và toàn bộ cơ chế mua bán nông sản đã do thị truờng quyết định. + Điều chỉnh giá bán lẻ hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ những năm 1986-1988 được thực hiện theo chính sách hai giá: giá cung cấp những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu theo định hướng của nhà nước, có phân biệt nhóm các hàng hoá tiêu dùng quan trọng theo khung giá chỉ đạo của nhà nước, chủ yếu các hàng hoá nhập khẩu hoặc sản suất trong nước nhưng được nhà nước cung ứng vật tư theo giá thấp hơn giá thị trường tự do. Ngoài uỷ ban vật giá nhà nước và Bộ Nội thương, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh , thành phố cũng có quyền định giá bán lẻ kinh doanh thương nghiệp đối với nhiều loại hàng hoá cho phù hợp với tình hình sản suất và thị trường ở địa phương. Đến quý II năm 1989, Nhà nước xoá bỏ toàn bộ hệ thống giá cả cung cấp đối với hàng hoá bán lẻ theo định lượng. + Giá cả vật tư cung ứng của Nhà nước được điều chỉnh (tăng dần) theo sự điều chỉnh giá mua nông sản và giá vật tư nhập khẩu để giảm bao cấp của Nhà nước đối với tư liệu sản xuất. Thực hiện chính sách hai giá đối với vật tư mang tính chiến lược. Đến đầu năm 1990, các loại vật tư có hai giá đều được điều chỉnh thành một giá kinh doanh sát với giá thị trường. Như vậy đến năm 1990. nước ta đã cơ bản xoá bỏ cơ chế Nhà nước định giá và bao cấp qua giá. Chức năng định giá được trả lại cho thị trường. Nhờ đó thị trường được khôi phục, các qui luật kinh tế thị trường hoạt động trở thành cơ chế vận hành nền kinh tế. Quá trình cải cách giá cả góp phần thúc đẩy phân phối và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả hơn. - Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Đại hội VI đã xem xét một cách căn bản vấn đề cải tạo xã hội Chủ Nghĩa và đã đưa ra quan điểm mới về nền kinh tế nhiều thành phần: “Đi đôi với việc phát triển kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, tăng cường nguồn tích luỹ tập chung của Nhà nước và tranh thủ vốn nước ngoài, cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác”. (Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội VI. Tạp chí cộng sản số 1-1987, trang 42). Quan điểm của Đảng về xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần là xuất phát từ thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nam. Nó cho phép có nhiều hình thức sản suất kinh doanh theo quy mô thích hợp với từng khâu của quá trình tái sản xuất và lưu thông, nhằm khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế, đồng thời là cơ sở để phát triển nền kinh tế thị trường hàng hoá và dịch vụ. - Doanh Ngiệp nhà nước được sắp xếp lại, đội ngũ các nhà quản lý được đào tạo theo cơ chế mới. Trước đổi mới, các xí nghiệp quốc doanh nắm giữ một khối lượng lớn tài sản cố định và vốn lưu động, với gần 3 triệu lao động, tạo ra khoảng 35-40% tổng sản phẩm xã hội và đóng góp trên 50% ngân sách Nhà nước. Trong nhiều ngành công nghiệp, các xí nghiệp quốc doanh chiếm từ 70% đến 100% sản lượng. Tuy nhiên, các xí nghiệp quốc doanh gặp rất nhiều khó khăn, nhiều cơ sở kinh doanh yếu kém, thua lỗ hoặc không có lãi. Vì vậy, đổi mới các xí nghiệp quốc doanh (sau này gọi là doanh nghiệp Nhà nước) là một trong những nội dung cơ bản trong quá trình đổi mới và được thực hiện từng bước. 2.4 Chính sách của nhà nước Trong Cương lĩnh được thông qua tại Đại hội VII. Đảng ta bước đầu đã phác họa ra mô hình CNXH với sáu đặc tnmg của xã hội XHCN mà nhân dân ta cần xây dựng. Đó là một xã hội :  - Do nhân dân lao động làm chủ.  - Có một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.  - Có nền vǎn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.  - Con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo nǎng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân.  - Các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.  - Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.  Sáu đặc trưng trên đây, bao quát cả sáu lĩnh vực : chính trị, kinh tế, vǎn hóa, con người, dân tộc, quốc tế. Gọi là đặc trưng, bởi lẽ đây là những khác biệt so với mọi kiểu loại xã hội đã từng tồn tại trong lịch sử, những khác biệt đem lại sự giải phóng hoàn toàn và triệt để cho dân tộc, cho xã hội và cho con người.  Đảng ta cũng đã nêu ra bảy phương hướng cơ bản cần phải nắm vững trong quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc. Những phương hướng này cũng chính là con đường đưa chúng ta đi tới mục tiêu của CNXH, con đường để từng bước hiện thực hóa mô hình CNXH đã vạch ra.  Quá trình phác họa mô hình CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta gắn liền với việc đổi mới nhận thức của Đảng ta về CNXH, và từng bước kiểm nghiệm những nhận thức mới trong thực tiễn. Tiêu chuẩn để đánh giá những nhận thức mới ấy là ở kết quả đã giành được trong thực tiễn đổi mới, qua đó những nhận thức mới lại tiếp tục được bổ sung, hoàn chỉnh. Riêng về mặt kinh tế, những nhận thức mới được thể hiện tập trung ở những điểm chủ yếu sau đây:  - Muốn đi tới mục tiêu CNXH, phải thoát ra khỏi nền kinh tế kế hoạch theo kiểu cũ, phải kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp để phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị truờng có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Nói gọn lại thì đây là nền kinh tế thị trường định huớng XHCN.  Chính sách kinh tế nhiều thành phần là nhất quán và lâu dài, nhằm giải phóng lực lượng sản xuất phát huy mọi nǎng lực sản xuất để phục vụ mục tiêu xây dựng CNXH. Kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế hợp tác đã ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.  - Trong xây dựng kinh tế ở thời kỳ quá độ lên CNXH, phải lấy công nghiệp hóa làm nhiệm vụ trung tâm, nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, không ngừng nâng cao nǎng xuất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.  - Quan hệ sản xuất XHCN phải được thiết lập từng bước từ thấp đến cao, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, với sự đa dạng về hình thức sở hữu. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Việc cải tạo XHCN không phải chỉ tập trung trong vài ba nǎm như trước, mà là công việc của suốt thời kỳ quá độ lên CNXH.  - Trong hoạt động kinh tế, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích làm giàu hợp pháp, chính sách kinh tế phải gắn với chính sách xã hội, phát triển kinh tế phải đi đôi với thực hiện công bằng xã hội, hạn chế và ngǎn chặn sự phân cực xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.  - Tǎng cường vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước, khai thác triệt để mặt tích cực của kinh tế thị trường để hoạt động kinh tế có hiệu quả, bảo đảm kinh tế tǎng trưởng cao và phát triển bền vững: đồng thời phải khắc phục, ngǎn ngừa và hạn chế những tác động tiêu cực của kinh tế thị truờng với các tệ nạn như gian dối, lừa lọc, chụp giật, ma phia, tham nhũng, buôn lậu, tâm lý chạy theo đồng tiền, suy thoái về đạo đức, lối sống...  - Mở rộng quan hệ quốc tế đa phương, đa dạng, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, với chiến lược đúng đắn và lộ trình thích hợp, theo tinh thần "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước, vì hòa bình, độc lập, và phát triển". Trong xây dựng kinh tế, phải dựa vào nguồn lực bên trong là chính, đồng thời tranh thủ tối đa những nguồn lực từ bên ngoài.  - Thời kỳ quá độ lên CNXH của nước ta bao gồm nhiều chặng đuờng. Chặng đường đầu của thời kỳ quá độ đã kết thúc vào nǎm 1996: từ đó chuyển sang chặng đường mới, được gọi là thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, kéo dài từ nǎm 1996 đến nǎm 2020. Thực tiễn công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ cho phép Đảng ta rút ra những kết luận mới về thời kỳ quá độ, tiếp tục làm sáng tỏ thêm con đường đi lên CNXH của nước ta... 2.5. Thực trạng phát triển thị trường hàng hoá, dịch vụ ở Việt Nam. ( tài liệu theo tổng cục thống kê ) Nhận thức rõ vị trí của thị trường trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương và quyết sách lớn để thị trường phát triển lành mạnh, đúng hướng. Sự thay đổi về quan điểm và chính sách kinh tế đã đem lại những tác động tích cực trên thị trường hàng hoá, dịch vụ. Thị trường hàng hoá, dịch vụ nước ta từ sau năm 1986 đã có sự biến đổi về chất và phát triển vượt bậc về lượng. Qua 17 năm đổi mới (1986- 2003) ta có thể khái quát tình hình thị trường hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam như sau: - Một là, thị trường được thống nhất trong toàn quốc và bước đầu hình thành hệ thống thị trường hàng hoá với các cấp độ khác nhau. Thực hiện tự do hoá thương mại, tự do hoá lưu thông đã làm cho hàng hoá giao lưu giữa các vùng, các địa phương không bị ách tắc và ngăn trở. Trên nền tảng tự do hoá đã khai thác được các tiềm năng và thế mạnh của từng vùng, từng địa phương, từng doanh nghiệp. Quá trình tích tụ và tập trung trên thị trường đã dẫn tới hình thành các trung tâm thương mại quốc gia và vùng. Đó là cửa ngõ giao lưu hàng hoá, trung tâm phát luồng hàng hoá và tác dụng như đòn xeo thúc đẩy kinh tế khu vực phát triển - Hai là, trên thị trường đã có đủ các thành phần kinh tế, đông đảo thương nhân với các hình thức sở hữu khác nhau. Các doanh nghiệp Nhà nước chi phối 70- 75% khâu bán buôn, tỷ trọng bán lẻ chỉ còn 20- 21% trong tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ. Hệ thống hợp tác xã còn phát huy được vai trò ở nông thôn, miền núi song chỉ còn chiếm trên dưới 1% tổng mức bán lẻ trên thị trường. Lực lượng đông đảo nhất trên thị trường là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và tư thương, tiểu thương. Khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã tham gia vào thị trường nội địa, chiếm tỷ trọng khoảng 3% trong tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ (xem bảng 1) Bảng 1: Tổng mức bán lẻ hàng hoá phân theo thành phần kinh tế (giá hiện hành)  Đơn vị: Tỷ đồng Nguồn: Niên giám Thống kê 2001 và kinh tế Việt Nam & thế giới 2003- 2004 Năm Tổng số Trong đó Quốc doanh Tập thể Tư nhân Tổng số Tỷ trọng (%) Tổng số Tỷ trọng (%) Tổng số Tỷ trọng (%) 1990 19031,2 5788,7 30,4 519,2 2,7 519,2 66,9 1991 33403,6 9000,8 26,9 662,4 2,0 662,4 71,1 1992 51214,5 12370,6 24,2 563,7 1,1 563,7 74,7 1993 67273,3 14650,0 21,8 612,0 0,9 612,0 77,3 1994 93940,0 22921 24,4 751,5 0,8 751,5 74,8 1995 121160,0 27367,0 23,6 1060,0 0,9 1060,0 75,5 1996 145874,0 31123,0 23,3 1358,0 0,9 1358,0 75,8 1997 161899,7 32369,2 22,0 1244,6 0,8 1244,6 77,2 1998 185598,7 36093,8 19,4 1212,6 0,7 1212,6 79,9 1999 200923,7 37500,0 18,6 1400,0 0,7 1400,0 80,7 2000 220400 39231,2 17,8 1763,2 0,8 1763,2 81,4 2001 245300 40965,1 16,7 2453,0 1,0 2453,0 82,3 2002 277000 45428 16,4 3601 1,3 3601 82,3 2003 310500 50301 16,2 4036,5 1,3 4036,5 82,5 Bảng 2: Kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam từ 1980- 2003 Năm ĐVT Tổng KNXK Kim ngạch xuất khẩu Kim ngạch nhập khẩu 1980 Triệu R- USD Triệu USD 1.652,8 3386 13142 1985 25559 6985 18574 1990 51564 24040 27524 1991 44252 20871 23381 1992 51214 25807 25407 1993 69092 29852 39240 1994 98801 36000 50000 1995 136043 54489 81554 1996 183995 72559 111436 1997 207773 91850 115920 1998 208560 93610 114950 1999 231590 115230 116360 2000 301192 144827 156365 2001 31189 15027 16162 2002 35830 16530 19300 2003 44875 19880 24995 - Ba là, quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường đã thay đổi một cách cơ bản từ chỗ thiếu hụt hàng hoá sang  trạng thái đủ và dư thừa. Điều này hoàn toàn phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường- Quy luật cung cầu trong điều kiện tự do hoá. Nhiều mặt hàng trước đây phải nhập khẩu thì đến nay sản xuất nội địa đã bảo đảm yêu cầu trong nước và có thể xuất khẩu như  gạo, đường, xi măng… Quá trình thương mại hoá các yếu tố kinh tế đem lại sự cởi trói các nhu cầu. Nhu cầu đa dạng, phát triển và thu nhập tăng lên đã làm cho cầu thị trường phong phú và biến đổi khôn lường. Những nhà kinh doanh thành đạt đều phải xuất phát từ đòi hỏi của khách hàng, bảo đảm chất lượng hàng hoá, giá cả phù hợp và có dịch vụ tối ưu. Cuộc cạnh tranh về chất lượng và giá cả từng bước nhường chỗ cho cuộc cạnh tranh bằng dịch vụ. Từ chỗ dịch vụ chỉ là hoạt động yểm trợ bán hàng đã phát triển thành địa hạt của các nhà đầu tư kinh doanh. Ngành kinh doanh dịch vụ ra đời đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của nền sản xuất xã hội - Bốn là, thị trường trong nước bước đầu đã có sự thông thương với thị trường quốc tế. Dù ở mức độ còn hạn chế nhưng sự tác động của tăng trưởng hay suy thoái trên thị trường quốc tế đã bắt đầu ảnh hưởng đến thị trường trong nước. Điều này không chỉ diễn ra đối với những hàng hoá xuất nhập khẩu mà cả hàng hoá nội địa. Đó là tín hiệu tốt lành với nền kinh tế vì nó tạo cơ hội cho các nhà kinh doanh Việt Nam, đồng thời nó cũng tạo ra áp lực và nguy cơ lớn cho sản xuất và kinh doanh trong nước. Điều này cũng cho thấy rằng sự hội nhập của thị trường trong với thị trường khu vực và quốc tế là tất yếu. Vấn đề là chủ động đón nhận và có phương thức ứng xử thích hợp để chuyển từ ngoại lực thành nôị lực. Trong điều kiện hiện tại của nước ta vấn đề chiếm lĩnh thị trường nội địa, chính sách thay thế hàng nhập khẩu có vị trí đặc biệt quan trọng. Do chính sách của nền kinh tế, hàng hoá ngoại nhập tràn ngập thị trường nội địa. Hàng ngoại đang có ưu thế so với hàng sản xuất trong nước. Thêm vào đó là sự yếu kém về chất lượng, giá cả, quy cách, chủng loại của hàng nội địa và tâm lý sùng bái hàng ngoại đã làm cho hàng nội yếu thế. Đây là nguy cơ làm cho hàng loạt chủ thể kinh doanh trong nước bị phá sản và nhiều mặt hàng sản xuất trong nước mất thị phần ngay trên đất nước minih khi nước ta thực hiện AFTA/CEPT vào năm 2006, tham gia APEC và WTO Năm là, thị trường quốc tế của VIệt Nam đã có bước phát triển cả về lượng và chất - Năm là, thị trường quốc tế của Việt Nam phát triển với tốc độ cao trong những năm gần đây. Chính sách mở cửa nền kinh tế, phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá của Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành công. Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với 221 nước và vùng lãnh thổ của cả 5 châu lục, trong đó xuất khẩu  tới 219 nước, nhập khẩu từ 151 nước; có 151 nước Việt Nam xuất siêu, 70 nước Việt Nam nhập siêu. Quy mô xuất khẩu liên tục tăng và năm 2003 đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu ở mức cao. Năm 2000 tăng 25,5% so với năm 1999, năm 2001 tăng 3,8%, năm 2002 tăng 11,2%; năm 2003 tăng 19%. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người tăng liên tục: năm 2000 đạt 186,6 USD/người; năm 2001 là 191 USD/người; năm 2002 là 209,5 USD/người; năm 2003 là 246,4 USD/người. Mặt hàng xuất khẩu được mở rộng về danh mục chủng loại, tăng quy mô về lượng và thay đổi cơ cấu tích cực, chất lượng hàng xuất khẩu được nâng cao Điểm nổi bất trong xuất khẩu của Việt Nam những năm qua là đã xuất khẩu đến được thị trường đích và nhập khẩu được từ thị trường nguồn. Nhiều mặt hàng chủ lực của Việt Nam đã có tiếng trên thị trường quốc tế - Sáu là, sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với thị trường và thương mại đã có nhiều đổi mới. Đổi mới trước hết là cơ chế quản lý thị trường. Từ cơ chế trực tiếp can thiệp, kiểm tra kiểm soát thị trường là chủ yếu chuyển sang cơ chế tác động gián tiếp và tạo lập môi trường chính sách cho kinh doanh trên thị trường. Các chính sách quản lý và công cụ quản lý của Nhà nước đối với thị trường được nghiên cứu kỹ và thông thoáng hơn. Nhà nước đã tạo lập được môi trường pháp lý cho các hạot động

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGI7842I PHP PHT TRI7874N TH7882 TR4317900NG HNG HOV.doc