Dạy tiếng M’nông là một nhiệm vụ quan trọng của Trung tâm
Giáo dục thường xuyên - Ngoại ngữ, Tin học tỉnh Đắk Nông.
Thông qua bài viết, nhóm tác giả trình bày thực trạng dạy tiếng
M’nông tại Trung tâm Giáo dục thường xuyên - Ngoại ngữ, Tin
học tỉnh Đắk Nông. Đồng thời, đề xuất một số giải pháp nâng
cao hiệu quả dạy tiếng M’nông cho cán bộ công chức, viên chức
của tỉnh, góp phần quan trọng trong nâng cao chất lượng đội
ngũ, giúp họ thực hiện thành công nhiệm vụ được giao.
6 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 16/05/2022 | Lượt xem: 352 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả dạy tiếng M’nông tại Trung tâm Giáo dục Thường xuyên - Ngoại ngữ, Tin học tỉnh Đắk Nông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỐ 03(27), THÁNG 9 – 2020
92
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY TIẾNG M’NÔNG
TẠI TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN - NGOẠI NGỮ, TIN HỌC
TỈNH ĐẮK NÔNG
SOLUTIONS TO IMPROVE M’NONG LANGUAGE EFFICIENCY
AT CONTINUING EDUCATION CENTER - FOREIGN LANGUAGE AND INFORMATION
TECHNOLOGY IN DAK NONG PROVINCE
LÊ ĐỨC ÁNH(*), NGUYỄN THỊ THU, PHAN THỊ THÚY
(*)Trung tâm GDTX - Ngoại ngữ, Tin học tỉnh Đăk Nông, leducanh90@gmail.com
THÔNG TIN TÓM TẮT
Ngày nhận: 17/9/2020
Ngày nhận lại: 21/9/2020
Duyệt đăng: 25/9/2020
Mã số: TCKH-S03T9-B33-2020
ISSN: 2354 – 0788
Dạy tiếng M’nông là một nhiệm vụ quan trọng của Trung tâm
Giáo dục thường xuyên - Ngoại ngữ, Tin học tỉnh Đắk Nông.
Thông qua bài viết, nhóm tác giả trình bày thực trạng dạy tiếng
M’nông tại Trung tâm Giáo dục thường xuyên - Ngoại ngữ, Tin
học tỉnh Đắk Nông. Đồng thời, đề xuất một số giải pháp nâng
cao hiệu quả dạy tiếng M’nông cho cán bộ công chức, viên chức
của tỉnh, góp phần quan trọng trong nâng cao chất lượng đội
ngũ, giúp họ thực hiện thành công nhiệm vụ được giao.
Từ khóa:
Dạy tiếng M’nông; Trung tâm
Giáo dục thường xuyên - Ngoại
ngữ, Tin học tỉnh Đăk Nông; phát
triển ngôn ngữ M’nông.
Key words:
Solution; M’nong language;
continuing education center -
foreign language and information
technology in Dak Nong province.
ABSTRACTS
Teaching M’nong language is an important activity at the
continuing education center - foreign language and information
technology in Dak Nong province. Through the article, the
author presents a number of solutions to improve the
effectiveness of teaching M’nong language for civil servants
and officials to overcome the language barrier in
communication, study and work; used to propagate and
mobilize M’nong people to implement the guidelines and legal
policies of the Party and the State; at the same time, raising the
awareness of preserving and promoting the good traditional
cultural values of the M’nong people contributes to building the
spirit of great national unity.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tiếng nói, chữ viết là một trong những đặc
trưng văn hóa vô cùng quan trọng của mỗi dân
tộc. Nó là phương tiện giao tiếp, giao lưu, ghi lại
lịch sử quá trình hình thành, phát triển của dân tộc
đó, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Tiếng nói và
chữ viết là phương tiện để bảo tồn, phát huy, phát
triển vốn văn hóa truyền thống của dân tộc. Nó là
yếu tố văn hóa đặc trưng để phân biệt dân tộc này
với dân tộc khác. Đảng và Nhà nước ta luôn quan
tâm và thực hiện chính sách nhất quán về xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
LÊ ĐỨC ÁNH – NGUYỄN THỊ THU – PHAN THỊ THÚY
93
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đặc biệt là đồng bào
các dân tộc Tây Nguyên. Quyết định số 124/QĐ-
TTg, ngày 16/01/2014 của Thủ tướng chính phủ
về việc phê duyệt đề án tiếp tục củng cố, kiện toàn
chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên 2014-2020
đã khẳng định nhiệm vụ bảo tồn tiếng nói chữ viết
các dân tộc thiểu số là một nhiệm vụ thường
xuyên và quan trọng của các cấp, các ngành ở mỗi
địa phương (Chính phủ, 2014).
Đắk Nông là tỉnh thuộc vùng Tây Nguyên,
được thành lập vào ngày 01/01/2004 theo Nghị
quyết số 22/2003/QH11 ban hành ngày
26/11/2003 của Quốc hội trên cơ sở chia
tách tỉnh Đắk Lắk thành hai tỉnh Đắk Lắk và Đắk
Nông. Theo thống kê của Tổng cục thống
kê Việt Nam, tính đến ngày 01/4/2009, toàn
tỉnh Đắk Nông có 40 dân tộc. Trong đó, đông
nhất là người Kinh với 332.431 người, xếp thứ 2
là người M’nông với 39.964 người, vị trí thứ 3
là người Nùng với 27.333 người, người Mông ở
vị trí thứ 4 với 21.952 người, cùng với các dân
tộc khác như người Tày với 20.475 người, người
Dao có 13.932 người, người Thái có 10.311
người, người Mạ có 6.456 người, Ê Đê có 5.271
người, người Hoa có 4.686 người, người
Mường có 4.070 người,... cùng một số dân tộc ít
người khác. Điều đó cho thấy số lượng người
M’nông chiếm số dân đông nhất trong số các dân
tộc thiểu số đồng thời là người bản địa tại Đắk
Nông (wikipedia.com/daknong).
Chính vì vậy, việc tổ chức, nghiên cứu và
dạy tiếng nói, chữ viết M’nông được các cấp, các
ngành quan tâm từ nhiều năm nay, nhằm khắc
phục tình trạng bất đồng ngôn ngữ trong giao
tiếp, học tập công tác và nghiên cứu; Sử dụng để
tuyên truyền và vận động người M’nông thực
hiện chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng,
Nhà nước và phát truyển kinh tế vùng theo xu
hướng hội nhập; Đồng thời, nâng cao ý thức bảo
tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp của đồng bào M’nông góp phần
xây dựng tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Một
trong những giải pháp đó là tổ chức dạy học tại
Trung tâm Giáo dục thường xuyên - Ngoại ngữ,
Tin học tỉnh và Trung tâm học tập cộng đồng.
Tuy nhiên, đội ngũ giáo viên dạy tiếng M’nông
còn hạn chế, nhận thức của người học về việc
học tiếng dân tộc chưa cao, còn học đối phó để
hoàn thiện bằng cấp, Tài liệu học tập, sách
giáo khoa còn khó khăn. Những vấn đề trên dẫn
đến việc tổ chức dạy tiếng M’nông tại Trung tâm
Giáo dục thường xuyên - Ngoại ngữ, Tin học
tỉnh Đắk Nông còn nhiều hạn chế. Việc đưa ra
các giải pháp khoa học nhằm nâng cao hiệu quả
dạy học tiếng M’nông cho cán bộ, công chức,
viên chức là một việc làm hết sức cần thiết.
2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIẢNG DẠY
TIẾNG M’NÔNG TẠI TRUNG TÂM GIÁO
DỤC THƯỜNG XUYÊN - NGOẠI NGỮ,
TIN HỌC TỈNH ĐẮK NÔNG
Thực hiện Quyết định số 01/2007, ngày
02/01/2007 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về Quy
chế tổ chức và hoạt động của Trung tâm Giáo
dục thường xuyên tỉnh, Trung tâm đã tổ chức
dạy tiếng dân tộc thiểu số tại địa phương, các lớp
dạy tiếng M’nông tại đơn vị, đã thu hút đông đảo
các cán bộ công chức, viên chức ở các cơ quan,
ban ngành, đặc biệt cán bộ, công chức và những
người hoạt động không chuyên trách cấp xã theo
đề án 124 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông;
Các chiến sĩ công an; cán bộ quản lý giáo dục,
giáo viên các trường Phổ thông dân tộc nội trú,
trường Mầm non, tiểu học có nhiều người
M’nông theo học.
Tuy nhiên, số lượng giáo viên dạy tiếng
M’nông còn thiếu về số lượng và chất lượng, đến
năm 2018, Trung tâm có 01 biên chế giáo viên.
Trước đó, Trung tâm hợp đồng giáo viên ngoài
để giảng dạy và mời giáo viên người dân tộc
M’nông thỉnh giảng. Trình độ chuyên môn
nghiệp vụ sư phạm còn hạn chế do phần lớn giáo
viên không được đào tạo chính quy. Phương
pháp dạy học chủ yếu là phương pháp dạy học
truyền thống: thầy giảng, trò nghe, học trong
giáo trình; chưa cung cấp cho học viên phương
pháp tự học, tự đánh giá kết quả học tập, rèn
TẠP CHÍ KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỐ 03(27), THÁNG 9 – 2020
94
luyện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Việc rèn
luyện kỹ năng giao tiếp qua các hoạt động tham
quan, nghiên cứu thực tế không được tổ chức ở
tất cả các khóa học do kinh phí hạn chế, chỉ tổ
chức được một số lớp theo đề án 124.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho
việc đào tạo tiếng M’nông như sách giáo khoa,
tài liệu, tư liệu, báo khoa học hỗ trợ chưa đáp
ứng được so với nhu cầu việc dạy và học.
Bên cạnh đó, học viên theo học chủ yếu là
vừa làm vừa học, công việc chuyên môn nhiều,
nên không thể tham gia đầy đủ các buổi học. Một
bộ phận cán bộ công chức học xong tiếng
M’nông nhưng không có điều kiện áp dụng
thường xuyên nên không phát huy được tác
dụng. Một số bộ phận học viên có động cơ học
tiếng M’nông chưa đúng đắn như nhằm mục tiêu
chuẩn hóa, miễn giảm trong thi nâng ngạch công
chức, bổ nhiệm nên thường chú trọng bằng cấp,
ít quan tâm đến chất lượng và quy chế học tập.
Từ năm 2017 đến nay, Trung tâm đã tổ
chức được 10 khóa bồi dưỡng tiếng M’nông, cấp
chứng chỉ cho 1.568 lượt người. Cụ thể, năm
2017, Trung tâm tổ chức bồi dưỡng 4 khóa, cấp
chứng chỉ cho 671 học viên; Năm 2018, tổ chức
bồi dưỡng 1 khóa, cấp chứng chỉ cho 39 học
viên; Năm 2019, tổ chức bồi dưỡng 3 khóa, cấp
chứng chỉ cho 542 học viên; Năm 2020, tổ chức
bồi dưỡng 2 khóa, cấp chứng chỉ cho 316 học
viên. Hiện tại, còn số lượng gần 200 học viên
đăng ký khóa bồi dưỡng này, tuy nhiên, do thực
hiện giãn cách để phòng chống dịch Covid-19
nên việc học tập đang bị gián đoạn (Trung tâm
Giáo dục thường xuyên - Ngoại ngữ, Tin học
tỉnh Đăk Nông, 2020). Nhu cầu học tiếng
M’nông của cán bộ, công chức, viên chức đang
có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên, trong tình hình
khó khăn về thời tiết, đường xá đi lại khó khăn,
cùng những diễn biến phức tạp của dịch Covid-
19 và dịch bạch hầu, việc đưa ra các giải pháp
để cán bộ công chức, viên chức vẫn có thể hoàn
thành nhiệm vụ chuyên môn, vừa tham gia học
tiếng M’nông để phục vụ công tác là việc hết sức
quan trọng và cần thiết.
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU
QUẢ DẠY TIẾNG M’NÔNG TẠI TRUNG
TÂM GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN -
NGOẠI NGỮ, TIN HỌC TỈNH ĐẮK NÔNG
3.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, đổi mới
nhận thức của người học
Mục đích của giải pháp nhằm nâng cao
nhận thức của toàn xã hội về công tác bảo tồn và
phát huy những giá trị văn hóa của người
M’nông. Đặc biệt là tiếng nói và chữ viết. Đổi
mới, nâng cao nhận thức về phát triển giáo dục
tiếng M’nông cho cán bộ và người dân, đồng
thời thấy rõ mục đích của việc dạy học tiếng
M’nông là nâng cao dân trí, bảo tồn phát triển
văn hóa dân tộc và phát triển kinh tế vùng để hội
nhập, chứ không phải là để biết. Tuyên truyền,
mở rộng và đa dạng hóa loại hình dạy tiếng
M’nông tại đơn vị.
Trung tâm cần xây dựng kế hoạch tăng
cường các nội dung giáo dục, tuyên truyền thông
tin làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức của
người học; Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả
hệ thống Đảng, đoàn thể, các phòng, tổ chuyên
môn trong công tác tuyên truyền và lan tỏa thông
tin đến người học. Thực hiện đồng bộ và hiệu
quả các biện pháp như tổ chức hội thảo, tuyên
truyền trong các dịp lễ khai giảng, bế giảng khóa
học, các buổi làm việc giữa lãnh đạo Trung tâm,
giáo viên phụ trách lớp với học viên. Đăng tải
các văn bản, thông tư, quyết định của Chính phủ,
Ủy ban nhân dân tỉnh và Sở Nội vụ tỉnh trên
website, facebook, zalo, vnptioffice.vn, gmail,...
cùng thông báo tuyển sinh để người học nắm
được và tin tưởng vào việc học tiếng M’nông.
Bên cạnh đó, cần thường xuyên khai thác các
phương tiện thông tin đại chúng từ tỉnh đến cơ
sở để tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân.
Để thực hiện được điều này, cần có sự phối
hợp chặt chẽ giữa các Trung tâm Giáo dục
thường xuyên - Ngoại ngữ, Tin học tỉnh với các
Sở/Ban ngành, đặc biệt là Sở Nội vụ trong việc
LÊ ĐỨC ÁNH – NGUYỄN THỊ THU – PHAN THỊ THÚY
95
thực hiện đề án 124, các trường nội trú và các
đơn vị giáo dục có sử dụng tiếng M’nông trên
địa bàn tỉnh Đắk Nông.
3.2. Đổi mới nội dung, chương trình, phương
pháp và đa dạng hình thức tổ chức lớp học
Mục đích của giải pháp này nhằm tạo tâm
thế học tập cho người học, giúp học viên ý thức
được nhiệm vụ học tập, hứng thú với học bài
mới. Chủ động học tập và lĩnh hội kiến thức, ứng
dụng trong thực tế công việc tại đơn vị, có thể
giao tiếp và trao đổi công việc với người bản địa.
Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người
học trong quá trình tham gia đào tạo, bồi dưỡng.
Giáo viên cần vận dụng tốt các phương
pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động
của người học, tập trung vận dụng những
phương pháp đặc trưng của môn học như thực
hành giao tiếp, đóng vai, rèn luyện theo mẫu,
phân tích ngôn ngữ, thảo luận, đặt câu hỏi và
giải quyết các vấn đề trong dạy học, Phối hợp
linh hoạt những phương pháp trên sẽ phát huy
được hết khả năng của người học trong mỗi bài
học từ đó tạo cho người học niềm hứng thú
trong học tập.
Đa dạng hình thức học tập: Với tổng số 435
tiết, thời lượng học trong 6 tháng, học viên có
thể lựa chọn các hình thức học như sau:
Thứ nhất, học tập trung trên lớp (có thể học
buổi tối từ thứ 2 đến thứ 6 hoặc các buổi sáng,
chiều, tối thứ 7 và chủ nhật), đây là hình thức
phổ biến nhất. Học viên có thể giao tiếp trực tiếp
với giáo viên về các vấn đề học tập. Tuy nhiên,
thời lượng học tập có hạn nên giáo viên cần tạo
không khí sinh động, hiệu quả và để người học
làm quen với việc tự học, phát huy tốt khả năng
của mỗi cá nhân. Trong khi giảng dạy, cần giúp
học viên nắm chắc phương ngữ từng bài.
Thứ hai, tổ chức hình thức học trực tuyến
qua các phần mềm miễn phí như: TranS;
TeamLink; Google Classroom; Microsoft
Teams; Facebook Workplace; Skype; Zoom.
Hình thức này thu hút được đông đảo học viên.
Đặc biệt là những học viên ở xa, việc đi lại gặp
nhiều khó khăn và tình hình dịch bệnh diễn biến
phức tạp như hiện nay thì hình thức này là lựa
chọn của nhiều học viên. Các học viên có thể
tham gia học theo đúng tiến độ, không bị gián
đoạn việc học tập do giãn cách xã hội để phòng
dịch. Hơn nữa, cả giáo viên và học viên có thể
rèn luyện việc ứng dụng công nghệ thông tin
trong công tác giảng dạy, học tập.
Trong quá trình học, giáo viên hướng dẫn
học viên tự học bằng cách trang bị cho học viên
các tài liệu cần thiết như: Tài liệu học tiếng
M’nông do Y Thịnh chủ biên; Tài liệu ôn tập
tiếng M’nông trên
tap-tieng-mnong.htm; Tra từ điển tiếng Việt -
M’nông trên
vi_vi.html; Đồng thời tra cứu "Từ điển Việt -
M'nông, M’nông - Việt trên điện thoại Android
bằng cách vào mục Google Play chọn tìm kiếm
Từ điển Việt-M'nông, M'nông-Việt rồi bấm cài
đặt. Người học có thể tra cứu khoảng 13.000 từ.
Ngoài ra, tùy theo điều kiện cụ thể, Trung
tâm có thể phối hợp với Sở Nội vụ, Trường Dân
tộc nội trú của tỉnh, và các bon, xã tại địa
phương tổ chức cho học viên tham quan, đi thực
tế gặp gỡ, giao lưu với người dân M’nông để
nâng cao khả năng nghe, nói và phát âm.
Trung tâm cần xây dựng kế hoạch dạy tiếng
M’nông và phổ biến rộng rãi trên phương tiện
thông tin đại chúng, đồng thời, trang bị tài liệu
học tập cho học viên. Giáo viên giảng dạy cần
căn cứ vào chương trình, nội dung bài học xây
dựng kế hoạch giảng dạy và giáo án chi tiết cho
từng bài học. Học viên học tập trung cần sắp xếp
tham gia học đầy đủ, nghiên cứu tài liệu tự học,
tự bồi dưỡng thêm. Học viên học trực tuyến cần
có phương tiện học tập như máy tính, điện thoại,
có cài đặt mạng internet.
3.3. Trang bị thêm cơ sở vật chất, thiết bị và
tài liệu học tập
Hàng năm, Trung tâm Giáo dục thường
xuyên - Ngoại ngữ, Tin học tỉnh cần xây dựng
kế hoạch đầu tư thêm cơ sở vật chất, trang thiết
TẠP CHÍ KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỐ 03(27), THÁNG 9 – 2020
96
bị trong các phòng học dạy tiếng M’nông. Phân
công giáo viên giảng dạy tiếng M’nông biên
soạn lại tài liệu giảng dạy phù hợp với tình hình
thực tế và đối tượng người học tại địa phương.
Lãnh đạo Trung tâm trình các cấp có thẩm quyền
phê duyệt và triển khai thực hiện. Đây là một
trong những nội dung cần được quan tâm và
được xem là nhiệm vụ hàng năm tại đơn vị.
Trung tâm cần chủ động xây dựng kế hoạch, huy
động nguồn tài chính và nguồn lực vật chất một
cách chủ động theo hướng dẫn của các văn bản
pháp luật.
3.4. Thực hiện chế độ, chính sách tạo động lực
làm việc cho giáo viên dạy tiếng M’nông
Việc thực hiện chế độ chính sách nhằm tạo
động lực sẽ làm đội ngũ giáo viên phấn khởi, tự
giác học tập, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng
giảng dạy đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân
lực cho địa phương.
Trung tâm cần nghiên cứu chế độ lương,
thực hiện đúng, đầy đủ và kịp thời chế độ chính
sách cho giáo viên dạy tiếng M’nông. Xây dựng
kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng giáo viên nói chung
và giáo viên dạy tiếng M’nông nói riêng. Tổ
chức các hoạt động nghiên cứu khoa học, hội
thảo, ngoại khóa về dạy học tiếng M’nông. Phân
công cán bộ, giáo viên phụ trách tiếng M’nông
nghiên cứu thực tế địa phương để thu thập tiếp
thu những ý kiến góp ý, bổ sung đổi mới chương
trình, tài liệu, phương pháp dạy học tại đơn vị.
Tranh thủ các nguồn lực đào tạo, bồi dưỡng giáo
viên. Đảm bảo tốt các quyền lợi vật chất của giáo
viên để họ an tâm công tác, tham gia học tập, bồi
dưỡng; Thực hiện cân đối hợp lý thu chi, học
phí, chi phí liên kết đào tạo và các nguồn thu
khác, lập quỹ phát triển sự nghiệp, trong đó có
chi phí cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng giáo
viên. Tạo bầu không khí phấn khởi, hưng phấn,
đoàn kết, thân ái và ý thức trách nhiệm trong
công tác. Trung tâm cần chủ động xây dựng kế
hoạch, huy động nguồn tài chính và nguồn lực
vật chất một cách chủ động theo hướng dẫn của
các văn bản pháp luật. Đồng thời, đưa vào quy
chế chi tiêu nội bộ và phổ biến công khai tới toàn
thể cán bộ, giáo viên, nhân viên tại đơn vị.
3.5. Tăng cường kiểm tra, đánh giá
Việc tăng cường kiểm tra, đánh giá sẽ giúp
cơ quan quản lý các cấp quản lý tốt việc tổ chức
dạy và cấp chứng chỉ tiếng M’nông cho cán bộ
công chức, viên chức. Tránh trường hợp cấp
phát chứng chỉ tràn lan, người học không đảm
bảo kiến thức để thực hiện công việc.
Trung tâm cần xây dựng quy chế kiểm tra,
đánh giá giáo viên định kỳ theo quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo phù hợp với thực tiễn giáo
viên về trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm,
phẩm chất chính trị đạo đức, khả năng ứng dụng
công nghệ thông tin trong đổi mới phương pháp
giảng dạy, khả năng tự học, tự bồi dưỡng và
nghiên cứu khoa học. Tổ chức kiểm tra, đánh giá
thông qua phiếu điều tra, phiếu thăm dò hoặc
trao đổi trực tiếp. Thu thập thông tin bằng nhiều
hình thức, lập thống kê theo biểu mẫu để có đánh
giá khách quan. Có hình thức khen thưởng, động
viên khích lệ kịp thời nếu đánh giá là tốt và kiểm
điểm, xử lý nếu việc thực hiện có sai phạm nhằm
thúc đẩy hoạt động dạy học tiếng M’nông phát
triển theo hướng tích cực, nề nếp, kỷ cương. Thể
hiện trách nhiệm của các cấp quản lý đối với
công tác dạy tiếng dân tộc thiểu số tại đơn vị.
Quá trình kiểm tra, đánh giá phải đảm bảo
tính công khai, khách quan, dân chủ, công bằng.
Đảm bảo khơi dậy được ý thức trách nhiệm của
tập thể và từng cá nhân, phát huy được nhiệt
huyết và ý thức trách nhiệm của từng giáo viên.
4. KẾT LUẬN
Việc tổ chức dạy tiếng M’nông tại Trung
tâm Giáo dục thường xuyên - Ngoại ngữ, Tin
học tỉnh Đắk Nông đã thực hiện đúng tinh thần
chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, các cấp, các ngành
ở địa phương; đáp ứng nguyện vọng thiết tha của
người M’nông, góp phần bảo tồn, phát huy
những giá trị văn hóa tốt đẹp của tỉnh nhà và phát
truyển kinh tế vùng theo xu hướng hội nhập.
Trong chặng đường 10 năm qua, trên 2.000 cán
bộ công chức, viên chức đã được cấp chứng chỉ
LÊ ĐỨC ÁNH – NGUYỄN THỊ THU – PHAN THỊ THÚY
97
tiếng M’nông. Đa số các học viên được cấp
chứng chỉ đạt được các yêu cầu cơ bản về kỹ
năng nghe hiểu, đọc hiểu, nói đúng, viết đúng và
có thể giao tiếp thông thường. Ngoài ra, học viên
còn hiểu được văn hóa truyền thống và phong
tục, tập quán của người M’nông. Tuy nhiên, còn
một bộ phận học viên chưa nghe, nói thành thạo
và còn một số khó khăn, hạn chế bất cập. Trong
công tác đào tạo bồi dưỡng cần thực hiện đồng
bộ các giải pháp trên kết hợp với việc thường
xuyên sơ kết, tổng kết, xem xét, đánh giá, rút
kinh nghiệm và phát huy những mặt đã làm
được, hạn chế những khuyết điểm và vận dụng
sáng tạo tại địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Quyết định số 01/2007, ngày 02/01/2007 về Quy chế tổ chức và
hoạt động của Trung tâm giáo dục thường xuyên.
2. Chính phủ (2014), Quyết định số 124/QĐ-TTg, ngày 16/01/2014 về việc Phê duyệt đề án tiếp tục
củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở vùng Tây Nguyên 2014-2020.
3. Trung tâm Giáo dục thường xuyên - Ngoại ngữ, Tin học tỉnh Đăk Nông (2020), Báo cáo tổng kết
giai đoạn 2015-2020, phương hướng nhiệm vụ giai đoạn 2020 - 2025, Gia Nghĩa, Đăk Nông.
4. te_chinh tri.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giai_phap_nang_cao_hieu_qua_day_tieng_mnong_tai_trung_tam_gi.pdf