Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng với bao trang sử chói lọi. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái đã trở thành sức mạnh của dân tộc ta, giúp chúng ta chiến thắng bao kẻ thù. Không những thế, tình cảm thiêng liêng cao quý đó còn trở thành niềm tự hào bao đời của những người con đất Việt. Từ những tháng ngày lao khổ đến giây phút vinh quang, từ ngày bị áp bức đến ngày giành lại nền độc lập, dân tộc ta đã phải trải qua bao thăng trầm, đã chịu quá nhiều nỗi đau và nước mắt. Và cũng chính từ trong quá trình dựng nước và giữ nước oanh liệt ấy, những truyền thống quý báu và phẩm chất tốt đẹp của nhân dân ta đã nở hoa, trong đó nổi bật là tư tưởng nhân văn nhân đạo, tinh thần đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau: “Bầu ơi thương lấy bí cùng”, “Thương người như thể thương thân” . Đó là nét đẹp nổi bật đáng tự hào của con người Việt Nam, nhất là trong cơn hoạn nạn, rủi ro. Lòng nhân ái của từng người con đất Việt đã gắn chặt vận mệnh của họ với sự sống còn, tồn vong của dân tộc, với sự hùng cường, thịnh trị của Tổ quốc. Càng yêu con người, càng thương con người, họ càng có thêm ý chí kiên cường, tinh thần bất khuất, dám xả thân, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, dám vươn lên để tìm con đường giải thoát cho dân tộc khỏi đói nghèo và xây dựng đất nước cường thịnh. Giống như bao người con đất Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong lòng một dân tộc giàu truyền thống nhân ái. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh lúc đầu thể hiện ở những yêu cầu nhân bản bao quát nhất. Đó là tư tưởng đòi lại cho con người những gì mà con người có quyền được hưởng, trước hết là quyền được sống, theo nghĩa "người ta sinh ra ai cũng có quyền được sống, được tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc". Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao hơn khi ở Người hội tụ những tư tưởng tiến bộ của toàn nhân loại, trong đó có các hệ tư tưởng nhân văn Phục Hưng, Khai sáng. Đặc biệt, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chỉ thật sự trở thành lý luận khoa học, học thuyết vững chắc khi Người thấm nhuần tư tưởng Cộng sản Chủ nghĩa của các lãnh tụ thiên tài: C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I Lênin.Vì vậy em chọn đề tài này nhằm làm rõ giá trị nhân văn trong tư tưởng của Người, tìm kiếm phương châm hành động với tình yêu thương con người trở thành lẽ sống, yêu thương con người gắn với lòng tin con người,dùng sức mạng con người để giải phóng và phục vụ con người của Bác.
18 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1250 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Giá trị nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I.Mở đầu
1.Lý do chọn đề tài:
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng với bao trang sử chói lọi. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái đã trở thành sức mạnh của dân tộc ta, giúp chúng ta chiến thắng bao kẻ thù. Không những thế, tình cảm thiêng liêng cao quý đó còn trở thành niềm tự hào bao đời của những người con đất Việt. Từ những tháng ngày lao khổ đến giây phút vinh quang, từ ngày bị áp bức đến ngày giành lại nền độc lập, dân tộc ta đã phải trải qua bao thăng trầm, đã chịu quá nhiều nỗi đau và nước mắt. Và cũng chính từ trong quá trình dựng nước và giữ nước oanh liệt ấy, những truyền thống quý báu và phẩm chất tốt đẹp của nhân dân ta đã nở hoa, trong đó nổi bật là tư tưởng nhân văn nhân đạo, tinh thần đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau: “Bầu ơi thương lấy bí cùng”, “Thương người như thể thương thân” . Đó là nét đẹp nổi bật đáng tự hào của con người Việt Nam, nhất là trong cơn hoạn nạn, rủi ro. Lòng nhân ái của từng người con đất Việt đã gắn chặt vận mệnh của họ với sự sống còn, tồn vong của dân tộc, với sự hùng cường, thịnh trị của Tổ quốc. Càng yêu con người, càng thương con người, họ càng có thêm ý chí kiên cường, tinh thần bất khuất, dám xả thân, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, dám vươn lên để tìm con đường giải thoát cho dân tộc khỏi đói nghèo và xây dựng đất nước cường thịnh. Giống như bao người con đất Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong lòng một dân tộc giàu truyền thống nhân ái. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh lúc đầu thể hiện ở những yêu cầu nhân bản bao quát nhất. Đó là tư tưởng đòi lại cho con người những gì mà con người có quyền được hưởng, trước hết là quyền được sống, theo nghĩa "người ta sinh ra ai cũng có quyền được sống, được tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc". Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh được nâng lên tầm cao hơn khi ở Người hội tụ những tư tưởng tiến bộ của toàn nhân loại, trong đó có các hệ tư tưởng nhân văn Phục Hưng, Khai sáng. Đặc biệt, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chỉ thật sự trở thành lý luận khoa học, học thuyết vững chắc khi Người thấm nhuần tư tưởng Cộng sản Chủ nghĩa của các lãnh tụ thiên tài: C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I Lênin.Vì vậy em chọn đề tài này nhằm làm rõ giá trị nhân văn trong tư tưởng của Người, tìm kiếm phương châm hành động với tình yêu thương con người trở thành lẽ sống, yêu thương con người gắn với lòng tin con người,dùng sức mạng con người để giải phóng và phục vụ con người của Bác.
2.Đối tượng , nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu:
- Về đối tượng nghiên cứu: Đó là tư tưởng nhân văn nhân đạo mà Người hướng đến xuyên suốt trong cuộc đời chính trị và nghệ thuật của mình.
- Về phương pháp luận, Hồ Chí Minh sử dụng phương pháp biện chứng duy vật hành động khoa học, không giáo điều, rập khuôn, máy móc hoặc xét lại, bảo thủ trì trệ. Hồ Chí Minh luôn nhắc chúng ta học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn, bất cứ ai làm việc gì, ở cấp bậc nào đều phải đi sâu nghiên cứu lý luận, không ngừng học tập nâng cao trình độ, đồng thời phải coi trọng tổng kết thực tiễn, bổ sung để làm sáng rõ cho lý luận.
- Nhiệm vụ trong tư tưởng Hồ Chí Minh là: Giáo dục toàn diện về mặt đạo đức giác ngộ Xã hội Chủ nghĩa, văn hóa, kỹ thuật, lao động và sản xuất nhằm tẩy sạch ảnh hưởng chế độ giáo dục nô dịch thực dân còn sót lại như: thái độ thờ ơ với xã hội, xa với đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp, dạy theo lối nhồi sọ... Cần xây dựng tư tưởng: dạy và học để phục vụ Tổ quốc, giáo dục phải toàn diện, phải nhằm mục tiêu đào tạo con người lao động mới.
3.Ý nghĩa đề tài:
- Ý nghĩa của đề tài soi đường cho Đảng và nhân dân trên con đường xây dựng đất nước, nâng cao tư duy lí luận, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo đức cách mạng năng lực công tác, thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng đại của Đảng và nhà nước ta.
II.Nội dung
1. Con người là vốn quý nhất - nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh dành tất cả tình thương yêu cho dân tộc Việt Nam. Khi trở thành lãnh tụ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người không màng danh lợi cá nhân, suốt đời chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, cho sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao quát toàn bộ Cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, đem lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng đó được kết tinh thành một tuyên ngôn bất hủ không chỉ đối với nhân dân Việt Nam mà còn đối với toàn thể loài người tiến bộ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do.”
Để thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam là "Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội". Giải phóng dân tộc là mục tiêu số một khi đất nước còn nô lệ. Vì vậy, ham muốn tột bậc của Người là "làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do" (Sđd, t4, tr161). “Độc lập, tự do” trở thành bản chất cao quý trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, trở thành ngọn cờ chiến đấu và mục tiêu suốt đời hy sinh, cống hiến của Người. Bởi đó là điều kiện tiên quyết đem lại hạnh phúc và tiến bộ cho nhân dân Việt Nam.
Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh vô cùng rộng lớn, nhưng tựu chung lại vẫn là tình yêu thương con người. Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh đã trở thành lẽ sống của Người, yêu thương con người gắn với tin ở con người, dùng sức của con người để giải phóng cho con người, vì con người và phục vụ con người.
1.1 Nhận thức về con người
Khác với một số quan niệm chưa đúng đắn về nhân dân lao động, về con người,tôn giáo, v.v.. Hồ Chí Minh đề cập con người cụ thể gắn với từng thời kì lịch sử; không có con người chung chung, trừu tượng phi nguồn gốc lịch sử hay con người kiểu tôn giáo. "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn… Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là cả loài người", Hồ Chí Minh đã từng nói như vậy, quan niệm “bốn bể đều là anh em” rất rõ ràng, cụ thể. Tình thương yêu con người của Hồ Chí Minh chính là sự đồng cảm với những người cùng chung cảnh ngộ, của những người dân mất nước, nô lệ, lầm than. Trái tim Người hoà nhịp với khát vọng cháy bỏng được giải phóng của các dân tộc bị áp bức. Người đau nỗi đau chung của nhân loại lầm than. Xuất phát từ tình yêu thương ấy mà Người đã đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc, giải phóng khỏi mọi áp bức, bất công. “Từ giải phóng những người nô lệ mất nước, những người lao động cùng khổ đến giải phóng con người”. Đó chính là mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định trong Lời ra mắt của báo “Người cùng khổ” (Le Paria) tại nước Pháp năm 1921.
Đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, từ khi về nước lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh lại dùng đến khái niệm "đồng bào", "quốc dân"... Khi miền Bắc quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Người dùng thêm nhiều khái niệm như "công nhân", "nông dân", "trí thức", "lao động chân tay", "lao động trí óc", "người chủ xã hội"...
1.2 Thương yêu con người, thương yêu nhân dân
Người từng nói: "Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề... là vấn đề ở đời và làm người ở đời và làm người phải là thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức". (Hồ Chí Minh: Nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb Pháp lý, H.1990, tr174).
Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh xuất phát từ tình yêu thương của những người đồng cảnh ngộ, mất nước, bị nô lệ, cùng chung số phận bị áp bức bóc lột, đi tìm lối thoát cho dân tộc. không chung chung, trừu tượng kiểu tôn giáo, mà luôn luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản, dành cho các dân tộc và con người bị áp bức, đau khổ. Khi bôn ba nơi hải ngoại, chứng kiến cảnh bị áp bức bóc lột của công nhân, của nhân dân lao động các nước Tư bản Chủ nghĩa, chứng kiến cảnh bị áp bức của nhân dân các thuộc địa khác, tình yêu thương con người ở Người mở rộng sang yêu thương những người cùng cảnh ngộ, những người lao động nghèo đói, những người thuộc các dân tộc Việt Nam. Xuất phát từ tình yêu thương ấy mà Người đã đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc, giải phóng khỏi mọi áp bức, bất công. Mục tiêu của Hồ Chí Minh đã từng nói rõ trong lời ra mắt của báo Người cùng khổ (Le Paria) năm 1921: "đi từ giải phóng những người nô lệ mất nước, những người lao động cùng khổ đến giải phóng con người". Hồ Chí Minh thương yêu con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng lớn, vừa gần gũi thân thương đối với từng số phận con người. Hồ Chí Minh luôn sống giữa cuộc đời và không có cái gì thuộc về con người đối với Hồ Chí Minh lại là xa lạ. Người quan tâm đến tư tưởng, công tác, đời sống của từng người, việc ăn, việc mặc, ở, học hành, giải trí của mỗi người dân, không quên, không sót một ai, từ những người bạn thuở hàn vi, đến những người quen mới. Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh luôn gắn liền với hành động cụ thể, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho con người.Với mục tiêu được xác định, Người trở về nước thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách áp bức của thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Với đường lối đúng đắn mà Người đề ra, tập hợp, đoàn kết toàn dân tộc vào một Mặt trận thống nhất và tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế, nhân dân ta đã đánh đuổi đế quốc thực dân, giải phóng dân tộc, nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất và xây dựng cuộc sống mới. Luôn thương yêu con người, nên Hồ Chí Minh luôn khát khao hòa bình, một nền hòa bình thật sự, trong độc lập, tự do. Trước cách mạng, trong kháng chiến, Hồ Chí Minh luôn có thái độ nghiêm túc, thận trọng đối với vấn đề khởi nghĩa, tranh thủ khả năng phát triển hòa bình để hạn chế sự đổ máu cho nhân dân ta và nhân dân các nước. Lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Người chủ trương chủ yếu sử dụng bạo lực chính trị. Đó là cuộc cách mạng ít đổ máu nhất. Sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được để tránh cuộc chiến tranh Việt - Pháp. Nhưng khi bọn thực dân hiếu chiến quyết gây ra chiến tranh để buộc dân ta sống kiếp đời nô lệ, mất nước thì Hồ Chí Minh kêu gọi cả dân tộc đứng lên chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì nền hòa bình và phẩm giá của nhân loại tiến bộ. Hồ Chí Minh coi sinh mạng con người là quý giá nhất. Theo Người, "không có một trận đánh đẫm máu nào là "đẹp" cả, mặc dù thắng lớn. Người quý trọng sứcdân, của dân; trọng người tài, đức, trân trọng "người tốt, việc tốt" dù rất nhỏ".Người trân trọng từng ý kiến của dân, lắng nghe dân, học hỏi dân, bàn bạc với dân, tự phê bình trước dân, trả lời ý kiến của dân, tôn trọng và chấp hành nghiêm minh pháp luậtNgay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Người đề ra những nhiệm vụ cấp bách là diệt giặc đói và diệt giặc dốt cùng với việc chống giặc ngoại xâm. Trước mắt phải xóa đói nghèo, làm cho kinh tế phát triển "làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu và người khá giàu thì giàu thêm" (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t5, tr65). Kinh tế có phát triển, đời sống đồng bào có ấm no thì đất nước mới cường thịnh. Người từng nói: Tôi thấy các cháu bụng ỏng, mắt choẹt, tôi hết sức đau lòng". Người yêu cầu những người lãnh đạo chính quyền phải chăm lo đến đời sống nhân dân, phải chăm lo từ việc "tương cà, mắm muối của dân", không được áp bức quần chúng nhân dân.
Người chăm lo đến việc nâng cao dân trí, chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ, phát triển giáo dục. Người từng nói "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Người yêu cầu đảng cầm quyền phải chăm lo đến nâng cao trình độ học vấn cho nhân dân, chăm lo phát triển mọi mặt của dân tộc ta. Người thường nói chế độ thực dân đã dùng mọi thủ đoạn ngu dân để đầu độc dân tộc ta, để hủ hóa nhân dân ta bằng những thói xấu như lười biếng, gian xảo, tham ô. Cho nên phải làm sao để dân tộc Việt Nam trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập, "sánh vai với các cường quốc năm châu". Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh không chỉ giới hạn ở nhân dân Việt
Nam mà ở tình bác ái bao la. Người từng vạch rõ: "Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ... Phải thực hành chữ Bác-Ái" (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, H.1995, t5, tr644). Người còn nói
"Lòng yêu thương của tôi đối với nhân dân và nhân loại không bao giờ thay đổi" và trước lúc đi xa, Người viết "Đầu tiên là vấn đề con người" và "Cuối cùng tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế".Chăm lo, bồi dưỡng, phát huy sức mạnh của con người, tin tưởng vững chắc vào khả năng và phẩm giá tốt đẹp của con người. Cách mạng Tháng Tám thành công, tại cuộc họp đầu tiên của ủy ban nghiên cứu kế hoạch, kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là: "Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành". Người còn nói: "Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi... Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì . Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ".
1.3 Tin vào sức mạnh, phẩm giá và tính sáng tạo của con người
Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng kiệt xuất của các anh hùng, hào kiệt của dân tộc như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi... về sức mạnh của nhân dân "Khoan thư sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ", "đẩy thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân". Người còn kế thừa tư tưởng nhân văn "lấy dân làm gốc" và chủ nghĩa nhân đạo hiện thực của học thuyết Mác để hình thành tư tưởng nhân văn mới, tin tưởng mãnh liệt vào sức mạnh, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân và lòng tôn trọng, kính trọng nhân dân lao động. Người nói "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân".
Trong điều kiện bị đế quốc thực dân thống trị, kẻ thù đàn áp dã man, cùng với chính sách ngu dân của chúng, người dân các nước thuộc địa tưởng chừng không thể gượng dậy nổi, song Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tin tưởng ở nhân dân mình, dân tộc mình "...đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương đang dấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến..." và sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ cần phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi. Trong quá trình đấu tranh, Người đã làm cho nhân dân thế giới nhận thức rõ vấn đề thuộc địa, đoàn kết giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc là giúp đỡ cho chính mình. Năm 1921, Hồ Chí Minh đã có những quan điểm khác hẳn với nhiều suy nghĩ lúc bấy giờ. Người viết: "Bị đầu độc cả về tinh thần lẫn thể xác, bị bịt mồm và bị giam hãm, người ta có thể tưởng rằng cái bẫy người ấy cứ mãi mãi bị dùng làm đồ để tế cái ông thần tư bản, rằng bầy người đó không sống nữa, không suy nghĩ nữa và là vô dụng trong việc cải tạo xã hội. Không: người Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi... Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến" Dân ta có tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết "giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài
giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra". Đặc biệt là lòng sốt sắng, hăng hái của dân để thực hiện con đường cách mạng. Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi.
Điểm nhấn trong tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh không những là tình thương, sự đồng cảm với những con người cùng cảnh ngộ. Thực chất, đó không phải là lòng thương hại, mà chính là lòng tin vững chắc vào khả năng và phẩm giá tốt đẹp của con người. Tư tưởng “Dĩ dân vi bản” (Lấy dân làm gốc) với Người vẫn muôn đời không đổi. Lòng tin của Người vào sức mạnh và tính sáng tạo của quần chúng nhân dân đã khẳng định điều đó. Sống trong lòng nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân nên suy nghĩ thường trực trong Người là “đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân”.
Trên cơ sở của tình thương để đặt niềm tin vào con người, đây là nền tảng thiết yếu của một hệ thống tư tưởng lớn hơn. Từ Thương (đồng cảm) đến Tin rồi mới Trọng. Đây là một quá trình hoàn toàn biện chứng, Hồ Chí Minh đã vận dụng vô tinh tế truyền thống của cha ông trong một triết lý: “Có trọng người, kính người thì người mới trọng ta”. Ngày nay, nội dung trên càng có ý nghĩa lớn lao, nó đã thúc đẩy và tạo được mối dung hoà, gắn kết bền chặt ở cả lý luận và thực tiễn.
Người nhận thấy rõ vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, "người là gốc của làng nước", "nước lấy dân làm gốc", "gốc có vững cây mới bền", "xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". Người còn nói rằng: "Dân như nước, mình như cá", "lực lượng nhiều là ở dân hết". "Công việc đổi mới là trách nhiệm ở dân". Do đó, Người yêu cầu "Đem tài dân, sức dân, của dân, làm lợi cho dân". Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng; nếu không có Chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn đường. Đảng lãnh đạo để dân làm chủ. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Nhận thức như vậy để hiểu rằng tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo đúng đường lối quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh vô địch. Bởi vì sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.
Tình thương bao la của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với các anh hùng, liệt sĩ, cán bộ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong, đối với cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ, mà ngay cả đối với các nạn nhân chiến tranh, đối với những người lầm đường lạc lối, những người thiếu tu dưỡng…Người cũng tìm cách phát huy những ưu điểm và hạn chế những nhược điểm của họ. Người căn dặn phải
giúp họ trở thành những người lao động lương thiện
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng xây dựng "con người mới" vì đây là động lực quyết định hướng đi lên của xã hội Việt Nam tương lai. Người đòi hỏi phải có chiến lược trồng Người. Con người mới vừa là nhân vừa là quả của quá trình đấu tranh xây dựng xã hội mới. Theo Người, con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có tinh thần làm chủ xã hội "đã là người chủ thì phải biết tự mình lo toan gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ". Con người mới phải có tri thức văn hóa và khoa học, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Con người mới phải có phẩm chất đạo đức cách mạng "cần, kiệm, liêm, chính', "Chí công, vô tư". Phải nghiêm khắc chống
chủ nghĩa cá nhân. Nhưng chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là phủ định lợi ích chính đáng của cá nhân. Người nói: "Mỗi người đều có tính cách riêng, sở
trường riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình. Nếu lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích tập thể thì không phải là xấu".Theo Người, con người mới Việt Nam là con người phải mang đậm truyền thống dân tộc, đồng thời giàu chất quốc tế xã hội chủ nghĩa.
Một điểm rất nổi bật là tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có tính vượt thời đại. Đó là sự tuyệt đối tin tưởng vào thắng lợi ngày mai, lo cho tương lai của đất nước. Trong chiến tranh ác liệt, vận mệnh đất nước lâm nguy, nhưng với nhãn quan duy vật biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy được thắng lợi tất yếu của cách mạng Việt Nam. Thật hiếm thấy ở một vị lãnh đạo quốc gia nào mà sự quan tâm đến con người, đến nhân dân lại được đặt lên tầm lớn lao, sâu sắc nhưng hết sức cụ thể, thiết thực như ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tính nhân văn cao cả trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đặt hạnh phúc nhân dân lên trên hết. ở Hồ Chí Minh, nhân dân không phải là một khái niệm chung chung, mơ hồ mà là cộng đồng Việt Nam, là đồng bào, là từng con người, từng cuộc đời, từng hoàn cảnh cụ thể. Cho đến lúc đi xa, Người chỉ nghĩ đến sự đoàn kết toàn dân, sự phát triển và tiến bộ của Đảng, của dân tộc; Người vẫn dành muôn vàn tình thương yêu cho mọi người.
1.4 Lòng khoan dung rộng lớn
Tư tưởng bao dung Hồ Chí Minh xuất phát từ quan điểm: “Sông to, biển rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái ché nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn: vì độ lượng nó hẹp nhỏ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân biệt bọn thực dân cướp nước ta với nhân dân lương thiện ở các nước đó. Người cũng phân biệt bọn hiếu chiến Mỹ với nhân dân Mỹ yêu tự do và hoà bình. Người không hề đánh đồng bọn xâm lược Mỹ với nhân dân Mỹ. Và chính Người đã coi bạn bè năm chân tận tình ủng hộ cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ của nhân dân ta, trong đó có cả nhân dân yêu chuộng hoà bình Mỹ.Vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì tiến bộ xã hội, Hồ Chí Minh đưa ra chủ trương có lý, có tình đối với kiều dân nước ngoài ở Việt Nam, nhằm bảo vệ tính mạng,tài sản của họ. Người đánh giá cao vấn đề này và ghép tội "vô cớ sát hại kiều dân ngoạiquốc" vào tử hình.Với lòng nhân ái bao la, phát huy truyền thống "thương người như thể thương thân", "đánh kẻ chạy đi không đánh kẻ chạy lại", Hồ Chí Minh có chính sách khoan hồng đại lượng, đối xử nhân đạo với tù binh.
Chủ nghĩa bao dung trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh không chỉ là sự quan tâm đến hạnh phúc của con người, mà còn là tấm lòng rộng mở đối với cả tự nhiên. Người không quên dặn dò các thế hệ sau này phải bảo vệ hệ sinh thá i cho đa dạng, cân bằng. Người đề xuất ý tưởng trồng cây và bảo vệ sự trong sạch của môi trường sống. Trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề cần giáo dục đạo đức sinh thái cho nhân dân.
Có thể nói, bao dung trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh gắn chặt chẽ với các vấn đề đạo đức mới, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi là đạo đức vĩ đại. Đạo đức này không chỉ quan tâm đến con người, thương người, tin tưởng ở con người, tự giác phục vụ những lợi ích của con người mà còn có cả tình cảm bao la quan tâm đến tự nhiên, bảo vệ mối quan hệ hài hoà giữa con người với tự nhiên.
Sinh thời, Người trồng cây, nuôi cá, chăm chút từng gốc bưởi, hàng bụt mọc nơi mình sinh sống. Người thương con người và thương yêu cả cây cỏ, hoa lá. Tình cảm khoan dung Hồ Chí Minh là một nét đặc sắc trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh không phải là một chủ nghĩa nhân văn không có tính chiến đấu. Hồ Chí Minh kiên quyết chống lại mọi cái gì trái với lẽ phải. Vì thế, tính nhân văn trong tư tưởng của Người gắn liền tình thương bao la với lẽ phải chân chính. Bọn xâm lược Mỹ, những phần tử hại dân, hại nước, những hư hỏng của xã hội không thể được khoan dung vô điều kiện. Phải cải tạo, phải đấu tranh để cho cái thiện thắng cái ác.
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện. Con người không phải là thần thánh, có cả cái tốt và cái xấu. Bởi vậy, theo Người phải "làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi". Người yêu cầu phải thức tỉnh, tái tạo lương tâm, đánh thức những gì tốt đẹp trong con người. Ngay cả đối với những người lầm đường lạc lối, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất khoan dung, độ lượng: "Năm ngón tay cũng có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn dài đều họp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ". Khi cán bộ, đảng viên có lỗi, Người chú ý giáo dục, nhẹ về xử phạt. Người cố gắng cổ vũ con người, hướng con người tới chân - thiện - mỹ và trân trọng mọi ý kiến khác nhau, kể cả những ý kiến không đồng tình, trái với suy nghĩ của Người. Ứng xử văn hóa của Hồ Chí Minh đã tranh thủ được trái tim, khối óc của bạn bè năm châu, làm cho kẻ thù cũng phải khâm phục.
Văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh là kết tinh truyền thống nhân ái, độ lượng Việt Nam và cũng là nét đặc trưng của văn hóa hòa bình trong thời đại ngày nay. Người nói: “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng đồng tình và bác ái”. Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những giá trị khoan dung của dân tộc và nhân loại, nâng lên thành một chất lượng mới, ở một tầm cao mới.Là người cộng sản, Hồ Chí Minh có thái độ tôn trọng, không bao giờ tỏ ra kỳ thị, bài bác mà luôn luôn có ý thức khai thác, vận dụng những yếu tố tích cực của các học thuyết chính trị và tôn giáo như Nho, Phật, Lão, Thiện chúa giáo… vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.Khoan dung văn hóa Hồ Chí Minh được xây dựng trên cơ sở chữ “nhân” nhưng là một chữ nhân sáng suốt, có nguyên tắc, lấy công lý, chính nghĩa là nền tảng, chủ trương giải quyết những vấn đề dân tộc và quốc tế trên cơ sở “có lý, có tình”.Khoan dung văn hóa Hồ Chí Minh là thái độ trân trọng đối với mọi giá trị văn hóa nhân loại, là không ngừng rộng mở, thâu hóa những yếu tố tích cực, tiến bộ và nhân văn của loài người để làm giàu cho văn hóa Việt Nam. Khoan dung văn hóa Hồ Chí Minh là chấp nhận giao lưu và đối thoại bình đẳng về giá trị để đạt tới cái chung, cái nhân loại, để
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gia_tri_nhan_van_trong_tu_tuong_ho_chi_minh_4659.doc