Giá trị của học thuyết về lợi nhuận của Mác – Ý nghĩa của việc nghiên cứu về lợi nhuận

Chủ nghĩa trọng thương (CNTT) là hệ thống tư tưởng kinh tế đầu tiene của giai cấp tư sản, ra đời trong thời kỳ tan rã của phương thức sản xuất phong kiến, phát sinh phương thức sản xuất TBCN, chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường.

Học thuyết kinh tế trọng thương đánh giá cao vai trò của lưu thông và tiền tệ, coi tiền tệ là tiêu chuẩn cơ bản của của cải. Học thuyết này cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông, mua bán trao đổi sinh ra. Nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt mà có. Lợi nhuận chỉ có thể gia tăng bằng con đường ngoại thương, trong hoạt động ngoại thương phải thực hiện chính sách xuất siêu. Họ cho rằng không quốc gia nào được lợi mà không làm thiệt hại cho quốc gia khác, không người nào được lợi mà không làm thiệt hại đến người khác.

Quan điểm này rõ ràng là rất ấu trĩ và sai lầm, có rất ít giá trị lý luận và mang nặng tính kinh nghiệm. Nhưng nó rất thịnh hành và phát triển trong liền hai thế kỷ XV – XVI cho đây là thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ tư bản, sản xuất hàng hoá chưa phát triển nên vai trò tích luỹ tiền tệ và hoạt động chiếm đoạt, buôn bán bất bình đẳng được đặc biệt coi trọng.

 

doc23 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1479 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Giá trị của học thuyết về lợi nhuận của Mác – Ý nghĩa của việc nghiên cứu về lợi nhuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Các quan điểm trước Mác về lợi nhuận: 1.1. Quan điểm về lợi nhuận của chủ nghĩa trọng thương: Chủ nghĩa trọng thương (CNTT) là hệ thống tư tưởng kinh tế đầu tiene của giai cấp tư sản, ra đời trong thời kỳ tan rã của phương thức sản xuất phong kiến, phát sinh phương thức sản xuất TBCN, chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường. Học thuyết kinh tế trọng thương đánh giá cao vai trò của lưu thông và tiền tệ, coi tiền tệ là tiêu chuẩn cơ bản của của cải. Học thuyết này cho rằng lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông, mua bán trao đổi sinh ra. Nó là kết quả của việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt mà có. Lợi nhuận chỉ có thể gia tăng bằng con đường ngoại thương, trong hoạt động ngoại thương phải thực hiện chính sách xuất siêu. Họ cho rằng không quốc gia nào được lợi mà không làm thiệt hại cho quốc gia khác, không người nào được lợi mà không làm thiệt hại đến người khác. Quan điểm này rõ ràng là rất ấu trĩ và sai lầm, có rất ít giá trị lý luận và mang nặng tính kinh nghiệm. Nhưng nó rất thịnh hành và phát triển trong liền hai thế kỷ XV – XVI cho đây là thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ tư bản, sản xuất hàng hoá chưa phát triển nên vai trò tích luỹ tiền tệ và hoạt động chiếm đoạt, buôn bán bất bình đẳng được đặc biệt coi trọng. 1.2. Quan điểm về lợi nhuận của chủ nghĩa trọng nông: Chủ nghĩa trọng nông (CNTN) cũng xuất hiện trong thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến sang chế độ TBCN, nhưng ở giai đoạn phát triển kinh tế trưởng thành hơn. Học thuyết kinh tế của phái trọng nông đã ra đời với việc lý tưởng háo nông nghiệp, coi nông nghiệp là nguồn gốc của cải duy nhất làm giàu cho xã hội và làm cho xã hội loài người phát triển. Với nội dung đó, chủ nghĩa tư bản đã phê phán gay gắt chủ nghĩa trọng thương (CNTT), cho rằng lợi nhuận là thương nghiệp có được chẳng qua là nhờ tiết kiệm các khoản chi phí thương mại. Học thuyết kinh tế trọng nông đã sai lầm cho rằng lợi nhuận chỉ có thể được tạo ra duy nhất từ lĩnh vực nông nghiệp. Trong lý thuyết tiền lương về lợi nhuận, A.H.J Turgot đã ủng hộ quan điểm quy luật sắt về tiền lương, cho rằng tiền lương trả cho công nhân nông nghiệp là tiền lương tối thiểu chỉ đủ để trang trải chi phí sinh hoạt cho họ. Sản phẩm lao động của nông dân nông nghiệp bằng tổng tiền lương và sản phẩm thuần tuý. Trong đó tiền lương cho công nhân là thu nhập theo lao động (tối thiểu) còn sản phẩm thuần tuý là thu nhập của nhà tư bản gọi là lợi nhuận. Vậy lợi nhuận là thu nhập không lao động do công nhân tạo ra. Ngoài ra Turgot cũng đã đề cập đến nguyên lý về sự bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận trong các ngành khác nhau. Ông nói những tư bản bằng nhau thì đem lại thu nhập bằng nhau, không kê chúng đầu tư vào ngành nào. Như vậy CNTN đã diễn ra được một khía cạnh là lợi nhuận và do công nhân tạo ra, nhưng họ đã sai lầm trong việc giải thích bản chất của lợi nhuận và hoàn toàn đứng trên quan điểm của giới tư sản khi trả công thấp cho công nhân nhằm chiếm đoạt lượng sản phẩm thuần tuý dư ra. 1.3 Quan điểm về lợi nhuận của kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh: Trường phái kinh tế chính trị cổ điển Anh ra đời vào thời kỳ tích luỹ tư bản đã kết thúc và thời kỳ sản xuất TBCN bắt đầu. Giai cấp tư sản đã nhận thức được rằng “muốn làm giàu phải bóc lột lao động, lao động làm thuê của những người nghèo là nguồn gốc làm giàu vô tận cho những người giàu”. Theo C.Mác, kinh tế chính trị học tư sản cổ điển Anh bắt đầu từ Wiliam Petty và kết thúc ở David Ricardo. William Petty (1623 - 1687). Lý thuyết địa tô - lợi tức của W. Petty được xây dựng trên cơ sở lý thuyết giá trị – lao động. Ông đã tìm thấy nguồn gốc của địa tô ở trong lĩnh vực sản xuất. Ông định nghĩa địa tô và số chênh lệch giữa giá trị của sản phẩm và chi phí sản xuất (bao gồm chi phí tiền lương, chi phí giống má). Về thực chất địa tô là giá trị dôi ra ngoài tiền lương, tức là sản phẩm của lao động thặng dư. Ông nghiên cứu chi tiết địa tô chênh lệch và chỉ ra là, các mảnh ruộng xa gần khác nhau mang lại thu nhập khác nhau. Về lợi tức, ông coi lợi tức là tô của tiền và cho rằng nó lệ thuộc vào mức địa tô Adam Smith (1723 - 1790). Lý thuyết tiền lương, lợi nhuận, địa tô của A. Smith được xây dựng trên cơ sở lý thuyết giá trị lao động. A. Smith cho rằng trong giá trị hàng hoá cho người công nhân tạo ra, anh ta chỉ nhận được một phần tiền lương, phần còn lại là địa tô và lợi nhuận của tư bản. Theo ông, địa tô là khoản khấu trừ, đầu tiên vào sản phẩm lao động, về mặt lượng nó là số dôi ra ngoài tiền lương và lợi nhuận tư bản. Về mặt chất nó phản ánh quan hệ bóc lột. Còn lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của lao động. Ông cho rằng lợi nhuận, địa tô và lợi tức chỉ là những hình thái khác nhau của giá trị thặng dư. Khác với CNTN, A.Smith cho rằng không chỉ có lao động nông nghiệp mà cả lao động công nghiệp cũng tạo ra lợi nhuận. Theo A. Smith, lợi nhuận tăng hay giảm tuỳ thuộc vào sự giàu có tăng hay giảm của xã hội. Ông thừa nhận sự đối lập giữa tiền công và lợi nhuận. Ông đã tìm thấy tỷ suất lợi nhuận trên cơ sở cạnh tranh giữa các ngành và khuynh hướng tỷ suất lợi nhuận giảm dần. Hạn chế của A. Smith đó là: không thấy được sự khác nhau giữa giá trị thặng dư và lợi nhuận, do đó không phân biệt được lĩnh vực sản xuất và lưu thông, nên ông cho rằng tư bản trong lĩnh vực sản xuất cũng như trong lĩnh vực lưu thông đều đẻ ra lợi nhuận như nhau. David Ricardo (1772 - 1823). David Ricardo cho rằng lợi nhuận cùng với tiền lương là hai phần của giá trị và sự đối kháng giữa lợi nhuận và tiền lương là khi năng suất lao động tăng lên, tiền lương giảm và lợi nhuận thì tăng. Ông xem lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công, ông chưa biết đến phạm trù giá trị thặng dư. Nhưng trước sau ông nhất quán cho rằng giá trị lao động là do công nhân tạo ra lớn hơn sô tiền công mà họ nhận được, và lợi nhuận là lao động không được trả công của công nhân. Về điểm này C. Mác nhận xét: “So với A, Smith thì D. Ricardo đã đi xa hơn nhiều” D. Ricardo đã có những nhận xét tiến gần đến lợi nhuận bình quân ông cho rằng những tư bản cổ đại thường bằng nhau thì đem lại lợi nhuận như nhau, nhưng ông không chứng minh được. Rõ ràng, kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh đã có bước tiến mới trong nghiên cứu của W.Petty, A. Smith và D.Ricardo khi đã phân tích lợi nhuận, địa tô, tiền lương trên cơ sở lý thuyết về lao động và giá trị. Tuy vậy cả 3 ông đều có nhiều hạn chế, đó chính là việc chưa chỉ rõ nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận, chưa phản ánh được quan hệ của nhà tư bản với công nhân trong việc tạo ra lợi nhuận, một mức bao che sự chiếm đoạt giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Tuy vậy kinh tê chính trị học tư sản cổ điển Anh đã để lại những cơ sở lý luận có giá trị to lớn để C. Mác xây dựng nên học thuyết của mình. 2. Học thuyết của Mác về lợi nhuận: Chủ nghĩa Mác phát sinh là sự tiếp tục trực tiếp triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Lênin coi đó là 3 nguồn gốc lý luận của chủ nghĩa Mác. Lênin đánh giá chủ nghĩa gồm ba bộ phận là triết học , kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Lênin đã đánh giá rằng “lý luận giá trị thặng dư là hòn đá tảng của học thuyết kinh tế của Mác” và học thuyết kinh tế của Mác là “nội dung căn bản” của chủ nghĩa Mác. 2.1 Giá trị thặng dư - nguồn gốc và bản chất: C. Mác là người đầu tiên tìm ra và khẳng định một cách khoa học về nguồn gốc và bản chất của giá trị thặng dư. 2.1.1 Quá trình sản xuất giá trị thặng dư: Mác viết: “ tôi là người đầu tiên phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động biểu thị trong hàng hoá”. Sở dĩ hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị vì lao động sản xuất có hai thuộc tính là lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Theo Mác, lao động cụ thể là lao động hao phí dưới một hình thức cụ thể của một nghề nghiệp chuyên môn nhất định, có mục đích riêng, đối tượng riêng, thao tác riêng, đối tượng riêng và cho một kết quả riêng. Kết quả lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng cho hàng hoá. Vì vậy, lao động cụ thể là một phạm trù vĩnh viễn. Lao động nếu coi là sự hao phí sức lao động con người nói chung không kể hình thức cụ thể của nó thế nào thì gọi là lao động trừu tượng. Trong sản xuất hàng hoá, cần thiết phải quy các lao động cụ thể khác nhau vốn không thể so sánh được đó là lao động trừu tượng. Vì vậy, lao động trừu tượng là một phạm trù lịch sử. Lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hoá. Mác đã nghiên cứu quá trình sản xuất và lưu thông và thấy rằng nếu tư bản đưa ra một lượng tiền T vào lưu thông thì số thu về lớn hơn số tiền ứng ra. Ta gọi là T’ (T’ >T) hay: T’ = T + D T. Mác gọi D T là giá tri thặng dư. Ông cũng thấy rằng mục đích của lưu thông tiền tệ với tư cách là tư bản không phải là giá trị sử dụng dụng mà là giá trị. Mác thấy rằng tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện bên ngoài lưu thông. Để giải thích mâu thuẫn đó, Mác tìm ra quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Quá trình sản xuất TBCN là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra giá trị và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư Giả định để sản xuất 10 kg sợi cần 10 kg bông, giá 10 kg bông là 10 đôla. Để biến số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6 giờ và hao mòn máy móc là 2 đôla, giá trị sức lao động trong ngày của một công nhân là 3 đôla, trong một giờ lao động người công nhân tạo ra một giá trị là 0,5 đôla, cuối cùng giả định rằng trong quá trình sản xuất sợi thời gian lao động đã hao phí theo thời gian xã hội cần thiết Với giá định như vậy, nếu như quá trình lao động chỉ kéo dài đến cái điểm mà ở đó bù đắp được giá trị sức lao động (6giờ) tức là bằng thơì gian lao động xã hội cần thiết thì chưa có sản xuất ra giá trị thặng dư, nhà tư bản không được lợi gì. Trong thực tế, nhà tư bản bắt công nhân lao động thêm giờ, giả sử 12 giờ một ngày thì: Tư bản ứng trước Giá trị của sản phẩm mới (20kg sợi) - Tiền mua bông là 20 đôla Hao mòn máy móc là 4 đôla Tiền mua sức lao động trong một ngày là 3 đôla Giá trị của bông chuyển vào sợi là 20 đôla Giá trị của máy móc chuyển vào sợi là 4 đôla Giá trị do lao động của công nhân tạo ra trong 12 giờ lao động là 6 đôla 27 đôla 30 đôla Như vậy toàn bộ chi phí của nhà tư bản để mua tư liệu sản xuất và sức lao động là 27 đôla. Trong 12 giờ lao động công nhân tạo ra một sản phẩm mới (20kg sợi) có giá trị bằng 30đôla. Phần giá trị mới dôi ra ngoài 30 với giá trị sức lao động gọi là giá trị thặng dư (3 đôla) Phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (20 kgsợi) chúng ta thấy có 2 phần: * Phần giá trị những tư liệu sản xuất được lao động cụ thể của người công nhân bảo tồn và chuyển vào sản phẩm mới để hình thành nên giá trị của sản phẩm mới để hình thành nên giá trị của sản phẩm mới (sợi) gọi là giá trị cũ (trong ví dụ trên là 6 đô la) phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư. Vậy, giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do người công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là quá trình tạo ra giá trị được kéo dài quá cái điểm mà ở đó giá trị sức lao động do nhà tư bản trả được hoàn lại bằng vật ngang giá mới. 2.1.2. Tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư: Ở trên chúng ta đã nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư, và do đó vạch trần bản chất bóc lột tư bản chủ nghĩa. Phần này nghiên cứu sự bóc lột tư bản chủ nghĩa về mặt lượng Tỷ suất giá trị thặng dư: Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến, tức là tỷ số theo đó tư bản khả biến tăng thêm gía trị. Mác đã dùng ký hiệu m’ để chỉ tỷ suất giá trị thặng dư: m' = m/v.100% Trong đó: m là giá trị thặng dư v là giá trị mới do lao động công nhân tạo ra Tỷ suất giá trị thặng dư vạch ra một cách chính xác trình độ bóc lột công nhân. Về thực chất, tỷ lệ này là tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư. Tuy nhiên tỷ suất giá trị thặng dư không biểu hiện lượng tuyệt đối của sự bóc lột Khối lượng giá trị thặng dư: Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa giá trị thặng dư và tổng tư sản khả biến (v) được sử dụng. Nếu gọi M là giá trị thặng dư thì M = m’. v 2.1.3. Giá trị thặng dư tuyệt đối, tương dối và siêu ngạch: Mục đích của nhà tư bản là bòn rút giá trị thặng dư. Vì vậy toàn bộ hoạt động của nhà tư bản hướng đến tăng cường việc tạo ra giá trị thặng dư. Những phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt dối và tạo ra giá trị thặng dư tương đối Giá trị thặng dư tuyệt đối Trong những giai đoạn phát triển đầu của CNTB, khi kỹ thuật còn thấp hoặc tiến bộ chậm chạp thì việc tăgn giá trị thặng dư bằng phương pháp kéo dài ngày lao động là quan trọng nhất Giả sử ngày lao động là 10 giờ, trong đó 5 giờ là thời gian lao động cần thiết và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư. Nừunhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ nữa trong khi đại lượng của thời gian lao động cần thiết không đổi (5giờ). Như vậy thời gian lao động thặng dư tăng lên một cách tuyệt đối và cùng với nó là sự tăng lên của tỷ suất giá trị thặng dư. Trước đây tỷ suất giá trị thặng dư là . 100 = 100% thì bây giờ là . 100 = 140 %. Giá trị thặng dư tương đối Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về tự nhiên và sinh học, ngoài ra sự phản kháng mạnh mẽ của giai cấp công nhân cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật ddã làm cho các nhà tư bản chuyển hướng sang việc tạo ra giá trị thặng dư tương đối trên cơ sở tăng năng suất lao động Nhà tư bản tìm cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết do đó làm tăng một cách tương ứng thời gian lao động thặng dư trong điều kiện độ dài ngày lao động không thay đổi Chúng ta giả sử rằng độ dài ngày lao động là 8 giờ trong đó 4 giờ lao động cần thiết và 4 giò lao động thặng dư. Giả định tiếp bằng cách tăng năng suất lao động, công nhân chỉ cần 3 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị bằng với giá trị sức lao động củamình, và dó đó thưòi gian lao động thặng dư đã tăng lên 5 giờ. Như vậy, nếu trước đây m’ = . 100 = 100% thì bây giờ là . 100 = 166%. Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi, nhờ đó kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư do tăng năng suất lao động, được gọi là giá trị thặng dư tương đối Giá trị thặng dư siêu ngạch Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư phụ thêm xuất hiện khi giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội, mang tính chất tạm thời Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tươngđối có một cơ sở chung đó là dựa trên cơ sở tăng suất lao động để rút ngắn thời gian lao động cần thiết. Tuy vậy giữa chúng có sự khác nhau: Giá trị thặng dư tương đối dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội, còn giá trị thặng dư siêu ngạch dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động cá biệt. Giá trị thặng dư siêu ngạch sẽ được thay thế bằng giá trị thặng dư tương đối khi trình độ kỹ thuật mới từ trường hợp cá biệt được áp dụng trở thành phổ biến. Vì vậy, C. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư tương đối. 2.2. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư: 2.2.1. Lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận bình quân 2.2.1.1. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận Lợi nhuận Để sản xuất hàng hoá, xã hội phải chi phí một số lao động nhất định -Lao động quá khứ (tức lao động vật hoá) tức là giá trị của tư liệu sản xuất -Lao động sống (lao động hiện tại) tức là lao động tạo ra giá trị mới(v + m) Do đó giá trị xã hội của hàng hoá là c + v + m Nhưng nhà tư bản là chủ lao động, họ không phải hao phí lao động, họ chỉ quan tam đến việc đã bỏ chi phí bao nhiêu để sản xuất hàng hoá (gồm tiền mua tư liệu sản xuất và tiền mua sức lao động v). C. Mác gọi chi phí đó là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, và ký hiệu bằng k (k = c + m) Như vậy, khi xuất hiện chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thì công thức giá trị hàng hoá : gt = c + v + m sẽ chuyển thành gt = k + m Sau khi bán hàng hoá, nhà tư bản không những bù đắp đủ số tư bản đac bỏ ra (c + m) mà còn thu được số tiền lời ngang bằng với m. Số tiền này gọi là lợi nhuận Vậy, giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước và mang hình thức chuyển hoá là lợi nhuận Nếu ta ký hiệu lợi nhuận là p thì công thức gt = c + v + m = k + m sẽ chuyển thành gt = k + p (hay giá trị hàng hoá bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận) Vấn đề đặt ra là giữa p và m có gì khác nhau? “Về mặt lượng” : Nếu hàng hoá bán đúng giá trị thì m = p, và p giống nhau ở chỗ chúng đều có chung một nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân làm thuê. “Về mặt chất” : m phản ánh nguồn gốc sinh ra từ v, còn p thì được xem như toàn bộ tư bản ứng trước đề ra. Dó đó p đã che dấu quan hệ bóc lột TBCN, che dấu nguồn gốc thực sự của nó, đó là lao động thặng dư không được trả công của người công nhân. Trên thực tế, do chi phí sản xuất TBCN luôn luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế, cho nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hóa cao hơn chi phí sản xuất TBCN và có thể thấp hơn giá trị hàng hoá (Chi phí sản xuất thực tế0 là đã có lợi nhuận rồi. Tương quan giữa m và p chính là tương quan giữa giá bán hàng hoá của nhà tư bản với giá trị hàng hoá. Sự không thống nhất giữa m và p này đã càng làm che dấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản Tỷ suất lợi nhuận Trên thực tế các nhà tư bản không chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà còn quan tâm đến tỷ suất lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận là tỷ suất tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước. Nếu ký hiệu tỷ suất lợi nhuận là p’ ta có: . 100% = . 100% Về mặt lượng, p’ luôn nhỏ hơn m’. Về mặt chất thì m’ phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê. Còn p’ không thể phản ánh được điều đó mà chỉ nói lên mức lãi của việc đầu tư. Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà tư bản biết tư bản của họ đầu tư vào đâu thì có lợi. Do đó, việc thu p và theo đuổi p’ là động lực thúc đẩy nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản 2.2.1.2 Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân – quy luật lợi nhuận bình quân Dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, dưới CNTB luôn tồn tại cạnh tranh. Đây là hình thức đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất về sản xuất và tiêu thụ hàng hoá Trong xã hội tư bản có hai loại cạnh tranh: cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành, cùng sản xuất ra một hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch. Cạnh tranh giữa các ngành: Đây là sự cạnh tranh giữa các nhà tư bản trong các ngành sản xuất khác nhau nhằm mục đích tìm nơi đầu tư có lợi hơn. kết quả của cuộc cạnh tranh này là hình thành dần tỷ suất lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hoá chuyển hoá thành giá trị sản xuất Do các xí nghiệp khác nhau có cấu tạo hữu cơ của tư bản khác nhau, cho nên để thu được nhiều lợi nhuận thì các nhà tư bản phải chọn những ngành nào có tỷ suát lợi nhuận cao để đầu tư vốn. Nhưng trên thực tế của xã hội tư bản lại biểu hiện rằng: Bất kể tư bản được đầu tư vào ngành nào, nếu có khối lượng tư bản bằng nhau thì phải thu được lợi nhuận bằng nhau Sở dĩ có điều đó là do lòng tham vô đáy của các nhau tư bản quyết định, các nhà tư bản ở những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sẽ di chuyển tư bản của mình sang những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. quá trình di chuyển đó làm cho cung cầu ở các ngành đó thay đổi, dẫn tơí sự thay đổi tỷ suất lợi nhuận ở các ngành khác nhau : tăng lên ở những ngành có tỷ luật lợi nhuận thấp và giảm đi ở những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Kết quả của sự thay đổi này là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân một các tự phát. Đó là tỷ số tính theo % giữa tổng giá trị thặng dư trong xã hội tư bản và tổng tư bản xã hội đã đầu tư vào tất cả các lĩnh vực, các ngành của nền sản xuất TBCN. Quá trình bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận là sự hoạt động của quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân là biểu hiện cụ thể của sự hoạt động của quy luật giá trị thặng dư trong thời kỳ tự do cạnh tranh cảu chủ nghĩa tư bản 2.2.2. Lợi nhuận thương nghiệp Do việc sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, sự phân công lao động xã hội, sự chuyên môn hoá ngày càng cao mà xuất hiện tư bản thương nghiệp dưới CNTB Tư bản thương nghiệp dưới CNTB là một bộ phận của tư bản công nghiẹp tách rời ra, phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá của tư bản công nghiệp Tư bản thương nghiệp có chức năng chính là mua hàng của nhà tư bản công nghiệp (với giá mua nhỏ hơn giá trị hàng hoá) và bán cho người tiêu dùng (với giá bán bằng giá trị hàng hoá). Nếu xét một cách hạn chế ở chức năng mua và bán, tư bản thương nghiệp không sáng tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Về thực chất, lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thươngnghiệp Tư bản thương nghiệp với những đặc trưng của mình đã có vai trò to lớn đối với tư bản công nghiệp, đó là đảm bảo quá trình tái sản xuất được tiếp tục và mở rộng, giúp vốn của nha tư bản công nghiệp chu chuyển nhanh hơn và nâng cao tỷ suất lợi nhuận cho nhà tư bản công nghiệp Sự hình thành lợi nhuận thương nghiệp như thế nào? Lợi nhuận thương nghiệp là số chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá. Đó là một phần giá trị thặng dư mà nhà tư bản công nghiệp đã thu được. Sự phân chia giá trị thặng dư giữa nhà tư bản công nghiệp và nhà tư bản thương nghiệp được tiến hành theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân, tức là lợi nhuận thương nghiệp cũng vận động theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Sự hình thành Ptn đã che dấu đầu thêm một bước quan trọng hệ bóc lột của TBCN. 2.2.3 Lợi tức cho vay: 2.2.3.1. Lợi tức cho vay Trong xã hội tư bản, luôn luôn tồn rại việc một số nhà tư bản nào đó có một số tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi, không sinh lợi. Nhưng nhà tư bản rất mong muốn tiền phải đẻ ra tiền… Mặt khác, luôn luôn có một số nhà tư bản khác rất cần tiền dẫn tới xu hướng muốn đi vay Từ hai mặt trên tất yếu sinh ra sự vay mượn lẫn nhau, sinh ra quan hệ tín dụng TBCN. Và nhờ có quan hệ vay mượn này mà tư bản nhàn rỗi đã trở thành tư bản cho vay. Vậy tư bản cho vay là tư bản tiền tện mà người chủ của nó nhường cho một người khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một số lời lãi nào đó. Số lời lãi đó được gọi là lợi tức Nhà tư bản cho vay nhường quyền sử dụng tư bản của mình cho người khác, do đó thu về lợi tức. Nhà tư bản đi vay sử dụng tư bản vay được để đưa vào sản xuất kinh doanh thu được lợi nhuận bình quân. Vì vậy anh ta phải trích một phần lợi nhuận thu được để trả cho nhà tư bản cho vay Nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất. Nhưng việc nhà tư bản cho vay thu được lợi tức đã che dấu mất quan hệ bóc lột TBCN. Tỷ suất lợi tức: Tỷ suất lợi tức là tỷ lệ tính theo % giữa tổng số lợi tức và số tư bản tiền tệ cho vay. Gọi lợi tức là z, tỷ suất lợi tức là z’ 2.2.3.2. Ngân hàng và lợi nhuận ngân hàng Ngân hàng TBCN là cơ quan kinh doanh tiền tệ, làm môi giới giữa ngàoi đi vay và người cho vay. Trong nghiệp vụ nhận gửi, ngân hàng trả lợi tức cho người giử tiền vào, còn trong nghiệp vụ cho vay ngân hàng thu lợi tức cho vay. Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi trừ đi những khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng, cộng với các khoản thu nhập khác về kinh doanh tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng. Tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động, nó thu được lợi nhuận bình quân. Lợi nhuận ngân hàng vận động theo quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân 2.2.4. Địa tô TBCN Trong lĩnh vực nông nghiệp có 3 giai cấp: Địa chủ, tư bản kinh doanh nông nghiệp và giai cấp công nhân nông nghiệp làm thuê, nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp cũng thu được lợi nhuận bình quân. Nhưng muốn kinh doanh trong nông nghiệp thì họ phải thuê ruộng đất của địa chủ (chủ ruộng đất). Vì vậy ngoài lợi nhuận bình quân ra, nhà tư bản kinh doanh phải thu thêm được một phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân đó, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài, và họ phải trả nó cho chủ ruộng đất dưới hình thái địa tô TBCN. Vậy địa tô TBCN là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất 1. Lợi nhuận là động lực của nền kinh tế thị trường 1.1. Cơ chế thị trường - những lý luận cơ bản Nền kinh tế thị trường (KTTT) là nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường, trong đó 3 vấn đề cơ bản là: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất cho ai? đều được giải quyết thông qua thị trường. Trong nền kinh tế này, cá nhân người ti4eu dùng và các nhà sản xuất kinh doanh tác động lẫn nhau lên thị trường để xác định một hệ thống giá cả thị trường, lợi nhuận, thu nhập.. .Các doanh nghiệp sẽ dx kinh doanh với quy luật tối đa hoá lợi nhuận, tiêu dùng của các hộ gia đình sẽ theo quy luật tối đa hoá lợi ích, còn chính phủ sẽ quản lý nền kinh tế nhằm đảm bảo hiệu quả kinh tế, xã hội. Các hệ thống kinh t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu_luan_ktct_moi_8383.doc
Tài liệu liên quan