Emund Gustav Albrecht Husserl (1859 -1938) là triết gia người Đức gốc Do Thái,
người sáng lập hiện tượng học. Sinh ra ở một thị trấn nhỏ thuộc vùng Moravia của
đếquốc Áo -Hung, ngay từ nhỏ, Husserl đã say mê nghiên cứu toán học và khoa
học. Năm 1876, ông đến Trường Đại học Leipzip để học toán học và thiên văn
học. Sau ba học kỳ học ở đó, ông chuyển tới Đại học Berlin. Tại đây, ông có điều
kiện được học chung với bộ ba nhà toán học nổi tiếng lúc bấy giờ là Weierstraõ,
Kronecker và Kummer. Sau ba năm học ở Berlin, ông chuyển đến Vienne. Trong
suốt thời gian học tập và nghiên cứu ở đó, Husserl đã nhận được học vị tiến sĩ toán
học vào tháng 1 năm 1883. Sau đó, Husserlđã từng có thời gian trở lại Berlin và
làm trợ lý cho Weierstraõ, nhưng do Weierstraõ luôn ốm yếu, nên ông quyết định
quay về Vienne và tham gia phục vụ quân đội một năm. Đến năm 1884, mối quan
tâm lớn dành cho tôn giáo đã thôi thúc Husserl theo học triếthọc với Franz
Brentano ở Vienne. Brentano không chỉ là người truyền nguồn cảm hứng triết học
cho Husserl, mà còn là người có ảnh hưởng mang tính quyết định đến hiện tượng
học Husserl sau này. Husserl đã học tập với Brentano đến năm 1886, khi Brentano
khuyên ông đến Halle, nơi mà một trong những học trò của Brentano là Carl
Stumpf đang dạy triết học và tâm lý học. Năm 1887, Husserl trở thành giảng sư
của Halle và ở lại đó như một Privatdozent cho đến năm 1901, khi đã trở thành
phó giáo sư ở Gottingen và là giáo sư chính thức 5 năm sau đó. Từ năm 1916 đến
năm 1928, ông ở Freiburg và dạy học cho đến cuối đời.
10 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1113 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu E. Husserl (1859 -1938) - Nhà hiện tượng học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH NHÂN TRIẾT HỌC
E. Husserl (1859 - 1938) - Nhà hiện tượng học
1. Cuộc đời và tác phẩm
Emund Gustav Albrecht Husserl (1859 - 1938) là triết gia người Đức gốc Do Thái,
người sáng lập hiện tượng học. Sinh ra ở một thị trấn nhỏ thuộc vùng Moravia của
đế quốc Áo - Hung, ngay từ nhỏ, Husserl đã say mê nghiên cứu toán học và khoa
học. Năm 1876, ông đến Trường Đại học Leipzip để học toán học và thiên văn
học. Sau ba học kỳ học ở đó, ông chuyển tới Đại học Berlin. Tại đây, ông có điều
kiện được học chung với bộ ba nhà toán học nổi tiếng lúc bấy giờ là Weierstraõ,
Kronecker và Kummer. Sau ba năm học ở Berlin, ông chuyển đến Vienne. Trong
suốt thời gian học tập và nghiên cứu ở đó, Husserl đã nhận được học vị tiến sĩ toán
học vào tháng 1 năm 1883. Sau đó, Husserl đã từng có thời gian trở lại Berlin và
làm trợ lý cho Weierstraõ, nhưng do Weierstraõ luôn ốm yếu, nên ông quyết định
quay về Vienne và tham gia phục vụ quân đội một năm. Đến năm 1884, mối quan
tâm lớn dành cho tôn giáo đã thôi thúc Husserl theo học triết học với Franz
Brentano ở Vienne. Brentano không chỉ là người truyền nguồn cảm hứng triết học
cho Husserl, mà còn là người có ảnh hưởng mang tính quyết định đến hiện tượng
học Husserl sau này. Husserl đã học tập với Brentano đến năm 1886, khi Brentano
khuyên ông đến Halle, nơi mà một trong những học trò của Brentano là Carl
Stumpf đang dạy triết học và tâm lý học. Năm 1887, Husserl trở thành giảng sư
của Halle và ở lại đó như một Privatdozent cho đến năm 1901, khi đã trở thành
phó giáo sư ở Gottingen và là giáo sư chính thức 5 năm sau đó. Từ năm 1916 đến
năm 1928, ông ở Freiburg và dạy học cho đến cuối đời.
Trong suốt thời gian học tập và làm việc với Brentano, Husserl đặc biệt bị lôi cuốn
bởi quan niệm về tính ý hướng của Brentano và đã phát triển nó thành hiện tượng
học. Nhờ đó, Husserl đã trở thành một trong những nhà triết học có ảnh hưởng lớn
ở thế kỷ XX và được coi là người đặt cơ sở cho hầu hết các học thuyết triết học
châu Âu đương đại, đã tiên đoán nhiều vấn đề, đưa ra nhiều quan niệm cho triết
học tâm thức (ý thức) cũng như khoa học nhận thức hiện thời. Mặc dù vậy, các tác
phẩm của Husserl không dễ đọc, người ta thường nói đến ông nhiều hơn là đọc các
tác phẩm của ông.
Về hiện tượng học, tác phẩm đầu tiên mà Husserl đã viết là Những nghiên cứu
lôgíc (1900 - 1901), tiếp sau là Những ý tưởng (ý niệm) (1913) - tác phẩm đầu tiên
trình bày một cách đầy đủ và có hệ thống về hiện tượng học. Các tác phẩm ra đời
muộn hơn là Về hiện tượng học của sự ý thức về thời gian nội tại (1928); Lôgíc
hình thức và tiên nghiệm (1929) - tác phẩm chín muồi nhất của ông; Những suy
ngẫm về Descartes (1931); Sự khủng hoảng của các khoa học châu Âu. Kinh
nghiệm và phán đoán (1938) - tác phẩm được người giúp việc của Husserl là
Ludwig Landgrebe biên tập với sự tham khảo ý kiến của ông.
Ngoài ra, Husserl còn có các tác phẩm triết học quan trọng khác, chẳng hạn, Khái
niệm về số (tác phẩm được in vào năm 1887, nhưng sau đó không được xuất bản).
Đến tác phẩm này, ở Husserl đã có sự thay đổi hướng nghiên cứu; ông từ bỏ dự án
Triết học về số học với tư cách cơ sở toán học cho tâm lý học. Thay vào đó, ông
đã phát triển những nghiên cứu triết học lâu dài của mình là hiện tượng học (được
giới thiệu lần đầu trong Những nghiên cứu lôgíc gồm hai quyển, được viết vào
năm 1900 và 1901). Trong những năm 1095 - 1907, ông đã giới thiệu tư tưởng về
sự hoàn nguyên tiên nghiệm và hướng hiện tượng học đến chủ nghĩa duy tâm tiên
nghiệm. Quan điểm mới về hiện tượng học này đã được Husserl giải nghĩa trong
Những ý tưởng (1913) - tác phẩm trình bày có hệ thống nhất về hiện tượng học.
Ngày nay, những phần quan trọng trong các bài báo và những công trình nghiên
cứu đã được xuất bản trước đây của Huserl được in trong bộ Huserl toàn tập
(Husserliana). Những tác phẩm chính của ông cũng đã được dịch sang tiếng Anh.
2. Hiện tượng học
Trong quan niệm của Husserl, triết học cũng như các khoa học khác không phải là
những thứ xa vời với thực tiễn cuộc sống hay đánh mất ý nghĩa nhân sinh của con
người. Do vậy, ông chủ trương xây dựng một thứ triết học và phương pháp triết
học nhằm đưa con người trở về với bản chất chân thực trong nhận thức, trong hành
vi ý thức, trong việc hình thành thế giới sống của chính mình. Hiện tượng học
cùng các phương pháp hiện tượng học chính là con đường mà thông qua đó,
Husserl thực hiện mục đích của mình.
Hiện tượng học của Husserl bắt đầu với ý tưởng cho rằng, mọi hành vi ý thức của
con người đều có một đối tượng để hướng tới. Ông lập luận như sau: “Khi chúng
ta yêu mến một ai đó hoặc một cái gì đó, thì rõ ràng là đã có một ai hoặc một cái
gì đó mà chúng ta yêu; tương tự, khi chúng ta cảm giác về một cái gì đó, thì rõ
ràng là đã có một cái gì đó mà chúng ta cảm giác; khi chúng ta nghĩ về một cái gì
đó, thì đã có một cái gì đó mà chúng ta nghĩ,...”(1). Từ đây, Husserl đặt câu hỏi:
Thực chất của đối tượng mà ý thức con người hướng tới là gì? Và, hành vi nhận
thức đối tượng của con người diễn ra như thế nào? Chính vì vậy, tính ý hướng đã
trở thành chủ đề trọng tâm trong hiện tượng học của Husserl. Tư tưởng về tính ý
hướng này được kế thừa từ Brentano, người đã cho rằng, tính ý hướng là nét đặc
biệt của kinh nghiệm nhằm ý thức về một cái gì đó. Do vậy, luận giải về hiện
tượng học của Husserl, trước hết cần phải tìm hiểu xem tính ý hướng là gì? Nó bao
gồm những gì?
Husserl hiểu tính ý hướng không chỉ đơn giản là sự định hướng của ý thức về phía
các sự vật tồn tại bên ngoài, mà còn có nghĩa là, ý thức “dựng” nên các sự vật.
Tính ý hướng bao gồm: hành vi ý hướng (Noesis), nội dung ý hướng (Noema) và
đối tượng mà ý thức của chúng ta hướng tới. Trong đó, theo Husserl, hành vi ý
hướng là hành động mà ở đó, chúng ta xác định nội dung ý hướng để tiến tới
“dựng” nên đối tượng (sự vật); nói cách khác, nó là ý nghĩa được tạo ra trong hành
động hướng tới một đối tượng; nội dung ý hướng là sự tổng hợp những đặc điểm
mà ý thức chúng ta có được về sự vật tại cùng một thời điểm trong hành động
hướng đến sự vật đó.
Khi thừa nhận tính ý hướng là ý thức “tạo dựng” nên các sự vật, Husserl đặt vấn
đề: Ý thức của con người hướng tới một đối tượng xác định, nhưng tại sao có
những đối tượng giống nhau mà ý nghĩa của nó đối với mỗi người lại khác nhau.
Đôi khi, ý nghĩa đến với mỗi người là giống nhau, nhưng đối tượng biểu đạt ý
nghĩa đó lại khác nhau. Husserl lý giải hiện tượng này là do hành vi ý hướng trong
ý thức của con người tạo ra đối tượng, chứ không phải đối tượng bên ngoài quy
định ý thức của con người về bản thân đối tượng đó. Theo ông, những ý đồ hay ý
tưởng được định hình trong đầu óc con người đều hướng tới một đối tượng xác
định nào đó, vì thế, thông qua hành vi ý hướng, chúng ta có thể xác định được nội
dung ý hướng và đối tượng mà ý thức hướng đến. Chúng ta có thể hình dung sơ đồ
hiện tượng học của Husserl như sau: Trong đầu óc của chúng ta hình thành những
biểu tượng hay kết cấu về sự vật, tức là có hành vi ý hướng; tiếp đó, chúng ta giải
nghĩa cho hành vi ý hướng đó (thông qua việc tổng hợp tất cả những đặc tính của
sự vật trong đầu óc chúng ta và hình thành những khái niệm, quan niệm), tức là có
nội dung ý hướng, nhờ đó, chúng ta mới có thể nói về đối tượng tồn tại trong hiện
thực như thế nào. Do vậy, không thể có bất kỳ một hành vi ý hướng nào mà lại thiếu
đối tượng. Ngay cả hoạt động tình cảm của chúng ta cũng hàm chứa trong đó một đối
tượng xác định, bởi chúng ta không thể buồn hoặc vui một cách vô cớ, mà bao giờ
cũng có nguyên nhân của nó, tức là một đối tượng cụ thể mà ý thức của chúng ta
hướng tới.
Với quan niệm coi ý thức là cái “tạo dựng” nên bản thân sự vật, Husserl đã đưa
hiện tượng học tiến gần tới chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm. Ông coi toàn bộ thế
giới hiện thực và các sự vật là do ý thức, ý đồ chủ quan của con người sắp đặt,
“tạo dựng” và vì lẽ đó, mỗi chủ thể khác nhau lại có cảm nhận khác nhau về thế
giới xung quanh và đối tượng mà ý thức của họ hướng tới; nói cách khác, cùng
một đối tượng, nhưng với mỗi người, nó lại có ý nghĩa khác nhau. Nếu không có
hành vi ý hướng của con người thì sự tồn tại của mọi sự vật và hiện tượng đều vô
nghĩa. Ở đây, Husserl đã sử dụng cụm từ tính ý hướng để nói rằng, trong ý thức
luôn có những phần khác nhau, chúng tương tác với nhau để tạo nên kinh nghiệm
của chúng ta về sự vật. Ông viết: “Cả thế giới thời gian và không gian, bao gồm
con người và tính tự ngã của con người, xét về ý nghĩa mà nói, là một thứ tồn tại
của ý đồ. Nói thế cũng có nghĩa là, thế giới này đối với ý thức chỉ là cái có sau, có
ý nghĩa tồn tại tương đối. Nó là tồn tại của ý thức được bố trí trong kinh nghiệm.
Sự tồn tại như vậy, về nguyên tắc, chỉ là cái nhất trí trong biểu tượng ý thức mà
nhiều người có thể cảm nhận và quy định. Ngoài cái đó ra, chẳng có gì khác”(2).
Điểm khác biệt giữa chủ nghĩa duy tâm hiện tượng học của Husserl với chủ nghĩa
duy tâm truyền thống là ở chỗ, mặc dù vẫn thừa nhận sự tồn tại hiện thực của thế
giới xung quanh, nhưng ông không trực tiếp bàn đến vấn đề đó, mà lại tập trung
luận giải việc con người nhìn nhận, cảm giác như thế nào về thế giới ấy, tức là, nói
về tính chủ thể hay vị thế của con người trong thế giới. Ông cho rằng, “chủ nghĩa
duy tâm hiện tượng học không phủ nhận sự tồn tại thực của thế giới hiện thực và
coi nó như một ảo giác… Thành tựu và nhiệm vụ duy nhất của nó là làm rõ cảm
giác của con người về thế giới này - cái cảm giác mà nhờ đó tất cả chúng ta đều
nhìn nhận thế giới như nó đang tồn tại và có giá trị thực sự”(3). Vì thế, với hiện
tượng học, Husserl muốn trả lại cho triết học ý nghĩa nhân sinh đích thực của nó.
Với ông, triết học theo đúng nghĩa của nó phải bàn đến việc con người cảm giác,
nhìn nhận và xây dựng thế giới sống của bản thân như thế nào và phải chỉ dẫn cho
con người những phương pháp để làm được điều đó.
Với mong muốn đó, hiện tượng học của Husserl đã chỉ ra rằng, mọi tồn tại trong
thế giới này là do chủ thể tiên nghiệm cấu thành và vấn đề còn lại chỉ là làm thế
nào để đưa cái thế giới tồn tại khách quan, bên ngoài trở thành thế giới bên trong
con người và được nhìn nhận qua lăng kính chủ quan của mỗi cá nhân. Trả lời cho
câu hỏi này, Husserl đã dành một phần quan trọng trong hiện tượng học để bàn về
“hoàn nguyên tiên nghiêm”, hay sự trở về với tính chủ quan tiên nghiệm của con
người. Trước khi nói về “hoàn nguyên tiên nghiệm”, ông đã lý giải về “hoàn
nguyên bản chất”, bởi theo ông, nhờ có sự kết hợp của hai “hoàn nguyên” này mới
có được “hoàn nguyên hiện tượng học”. Ông cho rằng, trong mỗi hành động nhất
định, khi chúng ta bỏ qua việc tập trung vào những đặc điểm riêng lẻ, bên ngoài
của sự vật để đi vào bản chất thực sự của nó, thì đó chính là “hoàn nguyên bản
chất” (eidetic reduction - hoàn nguyên lý niệm). Trong “hoàn nguyên bản chất”,
chúng ta lấy một đối tượng cụ thể và cứ thế quan sát, tưởng tượng, biển đổi nó với
vô số những đặc điểm, tính chất khác nhau cho đến khi phát hiện ra nó không còn
là một vật thể nữa thì thôi; sau đó, tập trung xem xét tổng thể mọi biến đổi đa dạng
đó và trên cơ sở ấy, tìm ra cái bản chất đích thực của sự vật. Song, theo Husserl,
“hoàn nguyên bản chất” không thể nói cho chúng ta biết bản chất hoạt động nhận
thức của con người là gì và như thế nào, mà chỉ có “hoàn nguyên tiên nghiệm”
mới có thể giải đáp được vấn đề đó. Bởi lẽ, theo ông, khi nhận thức một đối tượng
nào đó, chúng ta không chỉ hướng ý thức tới đối tượng ấy để nắm bản chất của nó,
mà còn đồng thời thực hiện hành vi phản tư trong ý thức của mình để nhận biết
bản thân hoạt động nhận thức này. Nói khác đi, khi con người thực hiện hành vi ý
hướng nhắm tới một đối tượng, thì đồng thời, khi đó cũng diễn ra hành vi phản tư
trong ý thức giúp họ nhận thức về bản thân hành vi ý hướng và nội dung ý hướng
này. Sự phản tư đó được Husserl gọi là “hoàn nguyên tiên nghiệm”. Chẳng hạn,
chúng ta nhìn thấy một bông hoa, chúng ta không chỉ ý thức được bông hoa, mà
còn ý thức được việc nhìn bông hoa đó(4). Trên cơ sở đó, Husserl đã nói về “hoàn
nguyên hiện tượng học” như một sự hoàn nguyên dẫn chúng ta đi từ hành động ý
hướng nhắm tới đối tượng thông qua hành động hướng tới bản chất của nó (“hoàn
nguyên bản chất”) đến hành động phản tư trong ý thức về bản thân hành vi ý
hướng và nội dung ý hướng này (“hoàn nguyên tiên nghiệm”). Nhờ có “hoàn
nguyên” này, chúng ta có thể biết được bản chất của đối tượng nhận thức trong
lăng kính của chủ thể tiên nghiệm, cũng như cách thức chủ thể tiên nghiệm cấu
thành đối tượng nhận thức và thế giới sống của bản thân.
Với những phân tích như trên, chúng ta thấy rằng, hiện tượng học của Husserl
chính là sự nghiên cứu về các quan điểm khác nhau từ góc độ chủ thể tính. Nếu
trong khoa học, người ta nghiên cứu tính khách thể và sắp xếp những quan sát, thí
nghiệm theo cách làm giảm thiểu sự khác biệt giữa những người quan sát, thì hiện
tượng học tập trung vào chủ thể tính và dựa trên sự khác biệt về kinh nghiệm, về
nền tảng văn hoá, mỗi chủ thể tự cấu trúc hay tạo lập thế giới theo những cách khác
nhau, đồng thời cũng dựa trên sự chấp nhận cách thức tạo lập của những chủ thể
khác trong quá trình tương tác và giao tiếp.
Hiện tượng học của Husserl còn bàn đến một khái niệm quan trọng nữa - đó là
“thế giới sống”. Đối với ông, đời sống thường ngày với đa dạng các hoạt động và
biểu hiện của con người là thế giới “duy nhất chân thực”. Nhưng, thế giới sống ấy
đã dần bị khoa học hóa, số học hóa và được miêu tả bởi những ngôn ngữ trừu
tượng, những công thức, khái niệm chặt chẽ, chính xác và tuyệt đối. Do vậy, bức
tranh về cuộc sống mà khoa học tự nhiên tạo ra đã che lấp ý nghĩa chân thực vốn
có của cuộc sống thường nhật, đưa con người vào vòng xoáy của những hiện
tượng vật chất xung quanh. Với quan niệm này, mặc dù là người ủng hộ sự phát
triển của khoa học tự nhiên trong việc tạo ra phúc lợi, cũng như trong việc cải
thiện và nâng cao chất lượng cuộc sống cho loài người, Husserl vẫn lên tiếng phản
đối ảnh hưởng tiêu cực của khoa học tự nhiên đối với cuộc sống con người. Ông
cho rằng, khoa học tự nhiên chỉ chú trọng đến khách thể, mà bỏ quên mất vị trí của
chủ thể và do vậy, đã xem nhẹ ý nghĩa và giá trị nhân sinh của con người. Vì thế,
theo ông, chúng ta cần phải đưa thế giới của khoa học và triết học trở về với cuộc
sống thường nhật của con người và coi triết học, khoa học là một phần của cuộc
sống để sau đó, đưa cuộc sống này trở về với thế giới tự ngã bên trong chủ thể tiên
nghiệm và coi nó như sản phẩm của tư duy chủ quan thuần túy. Nói cách khác,
Husserl muốn thông qua con đường “hoàn nguyên hiện tượng học” để đưa cuộc
sống trở về với chủ thể, tức là, mỗi người, bằng hành vi ý hướng và nội dung ý
hướng, tự xây dựng cuộc sống cho riêng mình. Và, chỉ như vậy, con người mới có
quyền được sống với những gì mà mình có, biết được thế giới này thực sự là gì và
bao gồm những gì trong nó. Do vậy, “thế giới sống” của Husserl không còn là thế
giới khách quan thụ động và vô tri, vô giác ở bên ngoài nữa, mà là thế giới đã đi
vào chiều sâu bên trong con người - một thế giới thuộc về cuộc sống thực sự của
con người.
Như vậy, có thể nói, với luận thuyết hiện tượng học và con đường “hoàn nguyên
hiện tượng học”, Husserl đã trả lại cho con người vị thế chủ thể trong cuộc sống -
cái đã bị lãng quên suốt một thời gian dài, khi khoa học tự nhiên đóng vai trò chúa
tể chi phối toàn bộ cuộc sống loài người. Hiện tượng học của ông chính là cửa ngõ
để đi vào thế giới nhân sinh bên trong mỗi con người - cái mà triết học và khoa
học trước đó chưa thể làm được. Vì vậy, nó được coi là trào lưu tư tưởng đi tiên
phong trong việc giành lại ý nghĩa và giá trị nhân văn cho cuộc sống của con
người, và là khởi nguồn của nhiều trào lưu văn hóa, triết học phi duy lý sau này.
3. Ảnh hưởng của hiện tượng học Husserl
Hiện tượng học Husserl đã có ảnh hưởng lớn đến triết học trong thời đại chúng ta,
chủ yếu là châu Âu, từ những năm 1917 và nó cũng đã bắt đầu ảnh hưởng đến Mỹ
và một vài quốc gia khác. Là người kế tục sự nghiệp của Husserl, Martin
Heidegger đã viết Tồn tại và thời gian (1927) như một công trình nghiên cứu hiện
tượng học để tưởng nhớ Husserl. Jean Paul Sartre cũng là người chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ từ Husserl, đặc biệt là ý tưởng cho rằng, thế giới vật chất xung quanh
chúng ta không phải là cái quyết định duy nhất đến đối tượng ý hướng của chúng
ta. J.P.Sartre đã phát triển ý tưởng này trong triết học của ông, khi bàn về tự do,
nhất là trong Tồn tại và hư vô (1934) với phụ đề là “Một bài luận hiện tượng học
về bản thể luận”. Tiếp đó, Emmanuel Levinas, Paul Ricoeur và một số nhà triết
học Pháp khác đã chịu ảnh hưởng nhất định từ tư tưởng của Husserl. Hiện nay,
một thế hệ trẻ các nhà triết học Pháp và Đức đang vận dụng những tư tưởng của
Husserl để nghiên cứu về triết học nhận thức luận, triết học ngôn ngữ và triết học
tinh thần.
Quan niệm về “thế giới sống” của Husserl cũng đã trở thành lý luận quan trọng đối
với chú giải học mới của Heidegger, Gadamer và phương pháp luận của các khoa
học xã hội và nhân văn (Schutz, Luckmann), bởi nó cung cấp những tiêu chuẩn
cho sự tranh luận về chủ thể tính và cách thức mà chúng ta kiến tạo thế giới, xây
dựng nền tảng văn hoá cho mình. Những vấn đề này đều liên quan trực tiếp tới
“tính liên chủ thể” và những nghiên cứu cụ thể của Husserl về cách thức mà chúng
ta ứng xử với người khác để từ đó, hình thành quan niệm về một thế giới chung (“thế
giới liên chủ thể”). Một vài sinh viên của Husserl cũng cố gắng theo đuổi những đề
tài của ông, trong đó đáng chú ý là Edith Stein với luận văn về Vấn đề của sự thấu
cảm (1917) - vấn đề mà sau đó, tiếp tục được triển khai với sự giải thích khác nhau
trong chủ nghĩa hiện sinh của Heidegger và hiện tượng học của Merleau - Ponty.
Nhiều sinh viên và những người theo quan điểm của Husserl còn tìm hiểu một
cách kỹ lưỡng một số chủ đề khác trong triết học Husserl và áp dụng tư tưởng của
ông vào nhiều lĩnh vực khác nhau. Chẳng hạn, Roman Ingarden đã áp dụng những
tư tưởng đó vào mỹ học; Aron Gurwitsch và một vài người khác ứng dụng trong
nghiên cứu về tri giác. Những quan điểm của Husserl cũng đã trở thành cơ sở cho
sự phát triển mới trong tâm lý học và tâm lý liệu pháp. Không dừng lại ở đó,
những tư tưởng của ông còn gây ảnh hưởng lớn tới các nhà triết học toán học,
trong đó có Godel, và chúng cũng bắt đầu có ảnh hưởng tới triết học tinh thần và
khoa học thực nghiệm.
(1) Edited by Edward Craig. The shorter routledge encyclopedia of philosophy,
London and New York, 2005, p.417.
(2) Dẫn theo: Lưu Phóng Đồng (chủ biên). Giáo trình hướng tới thế kỷ 21 - Triết
học phương Tây hiện đại. Nxb Lý luận chính trị, 2004, tr.485.
(3) Dẫn theo: Edited by Edward Craig. Ibid., p.418.
(4) Lưu Phóng Đồng. Sđd., tr.482.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- yu_0121.pdf