Dược học Taxol
DƯỢC ĐỘNG HỌC
Sau khi được truyền tĩnh mạch, nồng độ của paclitaxel trong huyết tương
giảm dần theo một đường cong biểu diễn gồm hai pha.
Dược động của paclitaxel được nghiên cứu trong điều kiện truyền tĩnh
mạch thời gian là 3 giờ và 24 giờ, và ở liều 135 và 175 mg/m
2
. Thời gian bán hủy
trung bình của pha cuối từ 3 đến 52,7 giờ và giá trị trung bình của thanh thải toàn
phần từ 11,6 đến 24 l/giờ/m
2
Sự thanh thải toàn phần dường như giảm khi nồng độ
của paclitaxel trong huyết tương cao. Thể tíchphân phối trung bình ở tình trạng
cân bằng dao động từ 198 đến 688 l/m
2
điều này cho thấy có sự khuếch tán ngoại
mạch và/hoặc gắn vào mô đáng kể của paclitaxel. Khi tăng 30% liều, từ 135 đến
175 mg/m
2
, các giá trị Cmax và diện tích dưới đường cong tăng tương ứng từ 75
đến 81% khi truyền trong 3 giờ, như vậy việc tăng liều không có liên quan tuyến
tính với việc tăng các thông số dược động.
Sự khác biệt giữa người này và người khác khi dùng paclitaxel đường toàn
thân rất ít. Không ghi nhận có hiện tượng tích tụ paclitaxel khi dùng nhiều đợt
điều trị liên tiếp.
Các nghiên cứu in vitro được thực hiện trên proteine huyết thanh người cho
thấy tỷ lệ gắn với proteine trung bình từ 89 đến 98%. Khi dùng đồng thới với
cimetidine, ranitidine, dexamethasone hay diphenhydramine, tỷ lệ gắn với proteine
không bị thay đổi.
Thể thức đào thải của paclitaxel ở người hiện chưa được biết rõ. Tỷ lệ đào
thải qua thận dưới dạng không đổi từ 1,3 đến 12,6% liều dùng, cho thấy có sự
thanh thải đáng kể ngoài thận. Các chất chuyển hóa chính được tìm thấy dưới dạng
hydroxyl hóa. Sự chuyển hóa qua gan và đào thải qua mật dường như là cơ chế
đào thải chính của paclitaxel. Chưa có nghiên cứu về ảnh hưởng trên sự chuyển
hóa thuốc khi dùng cho bệnh nhân bị suy gan hay suy thận. Các thông số dược
động thu được ở bệnh nhân chạy thận được truyền Taxol 135 mg/m
2
trong 3 giờ
thì tương tự như ở bệnh nhân bình thường.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- taxol_doc_ky_2_3425.pdf