Xuất xứ:
Bản Kinh.
Tên khác:
Ban long châu (Đạm Liêu Phương), Hoàng mao nhung, Huyết nhung,
Quan lộc nhung (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Tên khoa học:
Cornus cervi Parvum.
Họ khoa học:
Họ Hươu (Cervidae).
Mô tả:
Lộc nhung là nhung (sừng non) của hươu đực (Lộc) [Cervus Nippon
Temminck] hoặc con nai (Mê) [Cervus Unicolor Cuv.] được chế biến
thành.
Hai loại hươu và nai đều thuộc ngành động vật có xương sống
(Vertebrata), lớp có vú (Mamalia), bộ Quốc chẵn (Arliodactyla), họ Hươu
(Cervidae).
17 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1298 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Dược học lộc nhung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DƯỢC HỌC
LỘC NHUNG
Xuất xứ:
Bản Kinh.
Tên khác:
Ban long châu (Đạm Liêu Phương), Hoàng mao nhung, Huyết nhung,
Quan lộc nhung (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Tên khoa học:
Cornus cervi Parvum.
Họ khoa học:
Họ Hươu (Cervidae).
Mô tả:
Lộc nhung là nhung (sừng non) của hươu đực (Lộc) [Cervus Nippon
Temminck] hoặc con nai (Mê) [Cervus Unicolor Cuv.] được chế biến
thành.
Hai loại hươu và nai đều thuộc ngành động vật có xương sống
(Vertebrata), lớp có vú (Mamalia), bộ Quốc chẵn (Arliodactyla), họ Hươu
(Cervidae).
Sừng non khi mới mọc dài 5-10cm, rất mềm.
Mặt ngoài phủ đầy lông tơ mầu nâu nhạt, trong chứa rất nhiều mạch
máu.
Sừng non mềm và sờ mịn như nhung (vì vậy gọi là Lộc nhung).
Thu hái:
Chỉ có hươu đực mới có sừng.
Từ 2 tuổi trở đi, hươu nai đực bắt đầu có sừng nhưng phải từ 3 tuổi trở
đi sừng hoặc nhung mới tốt và mới thu hoạch được .
Hàng năm vào cuối mùa hạ, sừng hươu nai cũ sẽ rụng đi và vào mùa
xuân năm sau sẽ mọc lại sừng khác.
* Có loại hươu nai cho 2 lần nhung 1 năm.
Lần cắt nhung thứ nhất tiến hành 40 - 50 ngày sau tiết thanh minh
(khoảng tháng 2-3 âm lịch).
Lần thứ 2 khoảng 50 - 60 ngày sau lần cắt thứ nhất ( trước hoặc sau
ngày lập thu - tháng 5-6).
Phần dùng làm thuốc:
Lộc non của sừng.
Bào chế:
+ Dùng dây trói hươu, treo cao khỏi mặt đất. Dùng cưa, cưa thật
nhanh vào gần sát đế sừng. Nhặt bỏ các chất bẩn bao quanh nhung đi, sau
đó, lấy dây buộc chặt phần đầu cưa lại. Cho đầu nhung cắt vào nồi nước sôi
3-4 lần , mỗi lần 15-20 phút, đến khi có bọt ở miệng cắt và nhung có mùi
lòng đỏ trứng gà luộc chín thì thôi. Thường khoảng 2-3 giờ. Sau đó phơi
hoặc sấy khô. Ngày hôm sau lại làm như vậy. Sấy ở nhiệt độ 70-80oC trong
vòng 2-3 giờ rồi lấy ra. Làm như vậy 2-3 lần cho thật khô là được (Trung
Dược Đại Từ Điển).
+ Đốt cháy lông tơ, lấy mảnh thủy tinh cạo sạch rồi tẩm rượu nóng
cho mềm, thái thành từng phiến, phơi khô để dùng (Đông Dược Học Thiết
Yếu).
+ Cưa lấy nhung từ chỗ cách đế nhung 3cm. Nhung cắt được cần chế
biến ngay vì với máu và chất thịt để lâu có thể bị thối rữa và có giòi bọ. Đem
cặp nhung ngâm vào rượu 1 đêm. Khi ngâm chú ý để chỗ cắt lên trên cho
chất tốt trong nhung không ra hết vào rượu. Hôm sau, rang cát cho vừa, đổ
vào 1 cái ống, ở giữa để cặp nhung (để chỗ cắt lên phía trên). Khi cát nguội
lại đổ ra thay cát mới rang vào. Mỗi lần thay cát lại nhúng
nhung vào rượu cho rượu thấm vào. Làm như vậy cho đến khi sừng khô. Cất
đi để dùng. Hoặc chỉ tẩm rượu vào nhung rồi sấy khô. Khô rồi lại tẩm rượu
và lại sấy khô cho đến khi nhung khô kiệt là được. Việc chế biến đòi hỏi
khoảng 2-3 ngày. Một cặp nhung nặng 800g khi khô chỉ còn chừng 250g.
Tuy nhiên khi chế biến nếu không cẩn thận nhung có thể bị nứt, máu chảy ra
hết, giá trị làm thuốc sẽ giảm (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
Thành phần hóa học:
Trong Lộc nhung có đến 25 loại Acid Amin, Calci Phosphat, Calci
Carborat, chất keo, Oestrogen, Testosteron và 26 loại nguyên tố vi lượng
như Cu, Fe, Zn, Mg, Cr, Br, Coban, Kiềm... (Những Cây Thuốc Và Vị
Thuốc Việt Nam).
+ Pavelenco (Liên xô) lấy từ nhung các loại hươu nai ở Xiberi 1 số
chất nội tiết gọi là ‘Lộc Nhung Tinh’ (Pantocrin), rồi chế thành thuốc uống
hoặc tiêm mang tên Pantocrin (Những Cây Thuốc Và Vị Thuốc Việt Nam).
+ Glycine, Lysine, Arginine, Aspartic acid, Glutamic acid, Proline,
Alanine, Leucine (Phạm Ngọc Lâm, Trung Thảo Dược Thông Báo 1979,
(8): 4).
+ Cholesteryl myristate, Cholesteryl oleate, Cholesteryl palmitate,
Cholesteryl stearate, p-Hydroxybenzaldehyde, Cholesterol, Cholest-5-en-3b-
ol-7-one (Hattori M và cộng sự, Sinh Dược Học Tạp Chí [Nhật Ban] 1989,
43 (2): 173).
+ Sphingomyelin, Ganglioside (Phan Lân Sĩ, Phúc Kiến Y Dược Tạp
Chí, 1980, 2: 64).
+ Estradiol (Kim Thuận Đơn, Thụ Sản Khoa Học Thực Nghiệm 1979,
(4): 24).
Tác dụng dược lý:
+ Báo Y Học Liên Xô tháng 2-1954, Rexetnikova A.D giới thiệu tác
dụng của Lộc nhung như sau:
. Lộc nhung có tác dụng tốt đối với toàn thân, nâng cao năng lượng
công tác, giúp ăn ngủ ngon, bớt mệt mỏi, làm nhanh lành các vết thương,
tăng sức lợi niệu, tăng nhu động ruột và bao tử, ảnh hưởng tốt đến việc
chuyển hóa các chất Protid và Glucid.
. Liều lượng khác nhau của Lộc nhung có tác dụng khác nhau đối với
mạch máu tim: liều cao gây hạ huyết áp, biên độ co bóp của tim tăng, tim
đập nhanh, lượng huyết do tim phát ra cũng tăng lên .
1- Tác Dụng Đối Với Tim Mạch: Theo loại nhung của Tây bá lợi á,
lấy ra chất ‘Lộc Nhung Tinh’ (pantocrinum), dùng liều cao có thể làm hạ
huyết áp, tăng lưu lượng máu động mạch vành của tim chuột lớn cô lập, tim
co bóp mạnh hơn, nhịp tim chậm lại, làm cường tim. Trên thực nghiệm còn
thấy có tác dụng phòng trị nhịp tim không đều, tăng nhanh sự hồi phục huyết
áp thấp do mất máu cấp (Trung Dược Đại Từ Điển).
2- Tác Dụng Cường Tráng: Lộc nhung tinh có tác dụng như kích thích
tố sinh dục, làm tăng nhanh thể trọng và chiều cao của chuột bạch thí
nghiệm và tử cung của chuột cái phát triển, tăng nhanh sự hồi phục của
xương và làm vết thương chóng lành (Trung Dược Đại Từ Điển).
3- Tác Dụng Chống Loét: Chất Polysacaride của Lộc nhung có tác
dụng chống loét rõ đối với mô hình gây loét bằng Acid Acetic hoặc thắt
môn vị (Trung Dược Đại Từ Điển).
4- Tác Dụng Tổng Thể: Lộc nhung tinh có tác dụng cường tráng,
chống mỏi mệt, nâng cao hiệu quả công tác, cải thiện giấc ngủ, kích thích
tiêu hóa, cải thiện trạng thái suy dinh dưỡng và rối lọan chuyển hóa đạm,
cải thiện trạng thái chuyển hóa năng lượng thấp, làm cho chuột chịu đựng tốt
hơn ở môi trường nhiệt độ cao hoặc nhạt độ thấp. Nâng cao tính miễn dịch
của cơ thể, làm tăng hồng cầu, huyết sắc tố và sự tăng sinh của tế bào lưới
hồng cầu, tăng bạch cầu (Trung Dược Học).
Độc Tính:
+ Thuốc không độc. Bơm đến 40g/kg thuốc vào dạ dầy chuột vẫn
không gây chết (Trung Dược Dược Lý Dữ Lâm Sàng).
+ Không đo được liều độc cấp LD50. Tác dụng phụ thường gặp là rối
loạn tiêu hóa, da ửng đỏ, ngứa, chu kỳ kinh nguyệt kéo dài (Trung Dược
Dược Lý Dữ Lâm Sàng).
Tính vị:
+ Vị ngọt, tính ôn (Bản Kinh).
+ Vị chua, tính hơi ôn, không độc (Danh Y Biệt Lục).
+ Vị ngọt, mặn, tính ôn, không độc (Bản Thảo Mông Thuyên).
+ Vị ngọt, tính ôn (Trung Dược Học).
+ Vị ngọt, mặn, tính ôn (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Vị ngọt, tính ôn (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Quy kinh:
+ Vào kinh Thận (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
+ Vào kinh thủ quyết âm (Tâm bào), Thủ thiếu âm (Tâm), Túc thiếu
âm (Thận), Túc quyết âm [Can] (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Vào kinh Thận, Can, Tâm và Tâm Bào (Đông Dược Học Thiết
Yếu).
+ Vào kinh Can, Thận (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Vào kinh Can, Thân, Tâm, Tâm bào (Lâm Sàng Thường Dụng
Trung Dược Thủ Sách).
* Tác dụng chủ trị:
+ Ích khí, cường khí, sinh xỉ, bất lão, Chủ lậu hạ ác huyết, hàn nhiệt
kinh giản (Bản kinh).
+ Dưỡng cốt, an thai, uống lâu kéo dài tuổi thọ.Trị hư lao, sốt rét, gầy
ốm, tay chân đau, lưng và thắt lưng đau, tiết tinh, huyết suy, bụng có bướu
máu, tán sỏi đường tiểu, ung nhọt, nóng trong xương (Danh Y Biệt Lục).
+ Bổ cho nam giới bị lưng lạnh, chân và gối không có sức, mộng tinh,
tiết tinh, phụ nữ bị băng trung lậu huyết [nướng lên uống với rượu, lúc đói]
(Dược Tính Luận).
+Bổ hư, tráng gân cốt, phá ứ huyết, an thai, hạ khí [nướng với dấm để
dùng] (Nhật Hoa Tử Bản Thảo).
+ Sinh tinh, bổ tủy, dưỡng huyết, ích dương, làm mạnh gân xương.
Trị hư tổn, tai ù, mắt mờ, chóng mặt, hư lỵ... Toàn thân con hươu đều bổ
dưỡng cho con người (Bản Thảo Cương Mục).
+ Trị trẻ nhỏ bị đậu trắng nhạt, nước đậu không vỡ, tiêu chảy, người
gìa Tỳ Vị hư hàn, mệnh môn không có hỏa hoặc ăn uống thất thường (Bản
Thảo Sơ Yếu).
+ Tráng nguyên dương, bổ khí huyết, ích tinh tủy, cường gân cốt. Trị
hư lao, gầy ốm, tinh thần mê muội, chóng mặt, tai ù, mắt mờ, lưng gối đau,
liệt dương, hoạt tinh, tử cung hư lạnh, băng lậu, đái hạ (Trung Dược Đại Từ
Điển).
Liều dùng:
Lộc nhung không cho vào thuốc sắc, chỉ tán nhỏ, hòa uống riêng từ
1,2 - 4g.
Kiêng kỵ:
+ Bỗng nhiên bị tê dại, không dùng (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
+ Thận hư có hỏa: không nên dùng. Thượng tiêu có đờm nhiệt hoặc
Vị (dạ dầy) có hỏa: không dùng. Phàm thổ huyết, hạ huyết, âm hư hỏa tích:
không dùng (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Người âm hư hỏa vượng: không dùng (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Trong người có thực nhiệt: không dùng (Lâm Sàng Thường Dụng
Trung Dược Thủ Sách).
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị tinh huyết suy kiệt, sắc mặt đen sạm, tai ù, mắt hoa, miệng khô,
khát, lưng đau, gối mỏi, tiểu đục, trên táo dưới hàn: Lộc nhung, Đương quy
(đều tẩy rượu). Lượng bằng nhau, tán bột. Dùng thịt Ô mai nấu thành cao,
trộn thuốc bột làm hoàn. Ngày uống 8-12g lúc đói với nước cơm (Hắc Hoàn
- Tế Sinh Phương).
+ Trị tinh huyết đều khô, doanh vệ hao tổn, sốt về chiều, tự ra mồ hôi,
hồi hộp, lo sợ, chân tay mỏi, các loại hư yếu: Lộc nhung (chưng rượu), Phụ
tử (bào) đều 40g. Tán bột. Chia làm 4 phần. Thêm Sinh khương 10 lát, sắc
uống ấm(Nhung Phụ Thang - Thế Y Đắc Hiệu Phương).
+ Trị hư yếu, liệt dương, da mặt không tươi, tiểu nhiều, không muốn
ăn uống: Lộc nhung 20-40g. Ngâm rượu 7 ngày, uống dần (Lộc Nhung Tửu
- Phổ Tế Phương).
+ Trị Thận dương bất túc, tinh khí hao tổn gây nên liệt dương, di tinh,
hoạt tinh, tiết tinh, lưng đau, gối mỏi, đầu váng, tai ù: Lộc nhung, Nhân
sâm, Thục địa, Câu kỷ tử, Phụ tử. Làm thành hoàn, uống (Sâm Nhung Vệ
Sinh Hoàn - Trung Dược Ứng Dụng Lâm Sàng).
+ Trị phụ nữ bị băng lậu, vô sinh do dương hỏa suy: Lộc nhung 40g,
Thục địa 80g, Nhục thung dung 40g, Ô tặc cốt 40g. Tán bột. Ngày uống 8-
12g. (Lộc Nhung Tán - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị phụ nữ bị băng lậu: Lộc nhung 1g, A giao, Đương quy đều 12g,
Ô tặc cốt 20g, Bồ hoàng 6g. tán bột. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 4g với rượu
ấm (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị liệt dương, tiểu nhiều: Lộc nhung, sao rượu, tán bột. Mỗi lần
uống 0,8g-1,2g với nước sắc 20g Dâm dương hoắc (Lâm Sàng Thường
Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị tủy hư yếu, chân tay mềm, xương mềm, trẻ nhỏ phát dục kém,
châm mọc răng, chậm biết đi: Lộc nhung 1g, Ngũ gia bì, Sơn thù, Phục linh,
Đơn bì, Trạch tả đều 12g, Thục địa 16g, Xạ hương 0,1g. tán bột. Trộn với
mật làm viên. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 4-12g (Địa hoàng Hoàn Gia Vị -
Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị tiêu chảy do Thận hư: Trương Quế Bảo dùng dung dịch Lộc
Nhung Tinh tiêm bắp, mỗi ngày hoặc cách nhật tiêm liền 2 lần. Trị 16
trường hợp, có kết quả: 03, khỏi: 12, không khỏi: 01 ( Tạp Chí Trung Y
Dược Cát Lâm 1985, 2:22).
+ Trị liệt dương: Từ Khả Phúc dùng Lộc Nhung Tinh thủy châm các
huyệt Khí hải, Quan nguyên, Trung cực, Khúc cốt, Túc tam lý, mỗi huyệt
0,5ml, huyệt Mệnh môn 1ml, cách 1 ngày tiêm 1 lần. Mỗi liệu trình 15 lần
(Có kết hợp uống thêm Trung dược theo biện chứng). Điều trị 42 trường
hợp, có kết quả tốt (Tạp Chí Trung Y Triết Giang 1983, 11:498).
+ Trị rốí loạn dẫn truyền nhĩ thất: Thái Tố Nhân dùng Lộc nhung tinh
tiêm bắp mỗi ngày 2ml, một liệu trình là 25-30 ngày. Trị 20 ca, có kết quả
85% (Tạp Chí Y Học Triết Giang 1988, l: 22).
Tham khảo:
+ " Mã lộc tủy (tủy của hươu) hoặc Mai hoa lộc tủy: trị nam giới và
nữ tử bị thường trung tuyệt mạch, gân cơ đau cấp, ho nghịch [dùng rượu hòa
uống](Danh Y Biệt Lục).
+ Ngọc hành và tinh hoàn của hươu đực có tác dụng bổ trung, yên ngũ
tạng, tráng dương khí, ngâm rượu hoặc nấu cháo gạo mà ăn. Chủ trị chứng
lưng đau, Thận hư, tai ù, liệt dương, tử cung lạnh, vô sinh." (Danh Y Biệt
Lục).
+ Toàn thân con hươu đều bổ dưỡng người, nấu, chưng, sấy khô,
ngâm rượu uống đều tốt (Bản Thảo Cương Mục).
+ Lộc huyết: đại bổ hư tổn, ích khí huyết, giải ôn độc, dược độc, dùng
tốt đối với các chứng hư tổn, lưng đau, hồi hộp, mất ngủ, phế nuy, thổ huyết,
băng trung, đái hạ (Bản Thảo Cương Mục).
+ Lấy não và tủy sống của Lộc nấu thành cao, mỗi ngày dùng 40g,
thêm mật 80g, luyện đều, cho vào hũ sành bịt kín, dùng làm thuốc tư bổ rất
tốt (Bản Thảo Cương Mục).
+ Lộc Thai bổ dưỡng chân khí (thiên chân) là thuốc tốt để tư ích thiếu
hỏa. Thuốc bổ hạ nguyên, điều kinh, sinh con, tư huyết hư, tinh tổn, băng
lậu, đới hạ, cho vào thuốc hoàn tán hoặc nấu cao uống (Bản Thảo Tân Biên).
+ Tính con Hươu dâm mà không suy yếu, sưng của nó chưa đầy vài
tháng đã lớn và dài nặng đến một hai chục cân, sinh trưởng lạ lùng, không
có cái gì hơn nó. Vì tính nó nhiệt, sinh hóa không ngừng, khí hóa không
đông đặc, cho nên nó có tác dụng bổ thận rất tốt (Dược Phẩm Vậng Yếu).
+ Lộc nhung là vị thuốc cốt yếu để bổ huyết cũ, sinh huyết mới (Dược
Phẩm Vậng Yếu).
+ " Những loại thuốc trợ dương khác phần nhiều là táo nhưng Lộc
nhung mạnh mà không táo. Những vị thuốc hành khí phần nhiều là tán, Lộc
nhung bốc lên nhưng không tán. Những vị thuốc hành huyết khác phần
nhiều là công, Lộc nhung bổ mà không công. Là thứ huyết nhục hữu tình,
dùng để chữa hư tổn, gầy ốm hay hơn các loại thuốc khác. Toàn bộ tinh khí
của hươu ở cả nơi sừng, dưới gốc sừng liền với mạch Đốc, sừng hươu là
loại sừng lớn nhất trong các loại thú, vì vậy có thể biết rằng mạch Đốc của
hươu rất thịnh, có thể bổ được mạch Đốc của cơ thể con người . Mạch Đốc
thông với Thận, lại ích được Thận.
Trong sừng đều có máu xuyên suốt, mạch Xung là bể của huyết
(huyết hải), vì vậy có thể bổ dưỡng được mạch Xung. Mạch Đốc và mạch
Xung cả 2 đều được bổ như vậy là bổ cả khí lẫn huyết. Sừng hươu tính ôn,
vì vậy càng trợ dương, là 1 vật gồm nhiều công năng đặc thù. Lộc nhung là
sừng non mới mọc của hươu, công hiệu bổ dương ích huyết rất lớn. Lộc giác
là sừng gìa của hươu đã trưởng thành, có tác dụng bổ dương ích khí, bồi
thêm tinh tủy nhưng hơi kém Lộc nhung. Lộc giác giao là sừng hươu cưa
cắt từng tấc một, cho nước vào nấu lên, cô lại, nhỏ thành giọt tròn đông lại
là được, là thuốc ôn bổ tinh huyết. Lộc giác sương là sừng hươu cưa cắt
thành từng tấc một, cho vào hũ nhỏ, đổ nước và rượu vào, lấy chậu đậy lại,
đắp bùn kín rồi đặt vào trong đống cám, đốt lên để nung cho sừng mềm ra,
lấy dao tre cạo sạch lớp sương trắng đọng lại trên miếng sừng . Tinh huyết bị
thiếu mà có thể hấp thu được chất béo bổ thì dùng loại cao, nếu chỉ có dương
hư mà không hấp thụ được tư bổ thì dùng loại sương trắng (Lộc giác sương).
Gân hươu thì bổ gân cốt, ích khí lực. Thịt hươu chủ về bổ trung, ôn khí
huyết " (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Dùng Lộc nhung trị xương gẫy giúp cho xương mau liền. Trường
hợp mụn nhọt lở loét, dùng Lộc nhung có tác dụng làm lành chỗ loét (Sổ
Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 83_4328.pdf