Xuất xứ:
Ngô Phổ Bản Thảo.
Tên khác:
Giả tô, Khương giới (Biệt Lục), Thử minh (Bản Kinh), Kinh giới huệ,
Kinh giới thán, Nhất niệp kim, Tái sinh đơn, Như thánh tán, Độc hành tán,
Cử khanh cố bái tán, Tịnh giới (Hòa Hán Dược Khảo),Hồ kinh giới, Thạch
kinh giới, Trân la kinh (Bản Thảo Cương Mục)
Mô tả cây:
Kinh giới là một loại cỏ, sống hằng năm, mùi rất thơm, cao 0,60 -0,80m, thân vuông, phía gốc màu hơi tía, toàn cây có lông mềm ngắn. Lá
mọc đối, lá dưới gốc không có cuống hay gần như không có cuống, xẻ sâu
thành 5 thùy, lá phía trên c ũng không cuống, xẻ 3 đến 5 thùy. Hoa tự mọc
thành bông gồm những hoa mọc vòng ở mỗi đốt. Bông hoa dài 3 -8cm, hoa
nhỏ, màu tím nhạt. Quả hình trứng hay hình trái xoan, dài chừng 1mm, mặt
bóng,màu nâu.
18 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1319 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Dược học kinh giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DƯỢC HỌC
KINH GIỚI
Xuất xứ:
Ngô Phổ Bản Thảo.
Tên khác:
Giả tô, Khương giới (Biệt Lục), Thử minh (Bản Kinh), Kinh giới huệ,
Kinh giới thán, Nhất niệp kim, Tái sinh đơn, Như thánh tán, Độc hành tán,
Cử khanh cố bái tán, Tịnh giới (Hòa Hán Dược Khảo), Hồ kinh giới, Thạch
kinh giới, Trân la kinh (Bản Thảo Cương Mục)
Mô tả cây:
Kinh giới là một loại cỏ, sống hằng năm, mùi rất thơm, cao 0,60 -
0,80m, thân vuông, phía gốc màu hơi tía, toàn cây có lông mềm ngắn. Lá
mọc đối, lá dưới gốc không có cuống hay gần như không có cuống, xẻ sâu
thành 5 thùy, lá phía trên cũng không cuống, xẻ 3 đến 5 thùy. Hoa tự mọc
thành bông gồm những hoa mọc vòng ở mỗi đốt. Bông hoa dài 3 - 8cm, hoa
nhỏ, màu tím nhạt. Quả hình trứng hay hình trái xoan, dài chừng 1mm, mặt
bóng, màu nâu.
Địa lý:
Cây Kinh giới (Schizonepeta tenuifolia) chưa thấy mọc ở Việt Nam.
Ở nước ta chỉ mới thấy trồng loại Kinh giới Elsholtzia Cristata để ăn và làm
thuốc.
Thu hái:
Vào mùa thu, lúc hoa nở bông còn xanh, nhổ cả cây phơi hay sấy khô
gọi là toàn Kinh giới, nhưng có nời chỉ cắt hoa và cành, nếu cắt hoa phơi
khô gọi là Kinh giới tuệ, nếu hái toàn cây trừ bỏ phần rễ thì gọí là Kinh giới.
Bộ phận dùng làm thuốc:
Toàn cây (Herba Schizonepetae). Thứ mầu tím nhạt, thân nhỏ, bông
nhiều hoa dầy là tốt.
Mô tả dược liệu:
Cây thẳng đứng, hình trụ vuông, 4 mặt có rạch dọc, phần trên nhiều
cành. Dài 50-100cm, đường kính 0,3-0,5cm. Ngoài mặt mầu tím nhạt. Chất
nhẹ, dòn, dễ bẻ gẫy, chỗ gẫy có tủy mầu trắng. Lá mọc đối, phiến lá se, thùy
nhỏ, dài. Đầu cành mọc hoa tự tán vòng, hình trụ, mầu lục, dài 6,6cm-10cm,
đường kính 0,6cm. Mùi thơm, vị hơi chát, cay và mát (Dược Tài Học).
Bào chế:
+ Bỏ tạp chất, rửa sạch, thái từng đoạn, phơi khô để dùng. Hoặc cho
Kinh giới vào nồi, chảo, sao đen, phơi khô, để dùng (Đông Dược Học Thiết
Yếu).
+ Chặt ngắn, phơi hoặc sấy nhẹ đến thật khô, hoặc sao cháy (Dược
Liệu Việt Nam).
+ Kinh giới thán: Lấy Kinh giới, cho vào nồi rang với lửa to cho thành
mầu nâu đen nhưng còn tồn tính. Rẩy nước vào, lấy ra phơi khô để dùng
(Dược Tài Học).
Bảo quản:
Đậy kín, để nơi khô ráo (Dược Liệu Việt Nam).
Thành phần hóa học:
+ Trong Kinh giới có d- Menthone, Menthone, d- Limonene (Trung
Dược Học).
+ Trong Kinh giới Schizenepeta tenuifolia có chừng l,8% tinh dầu.
Thành phần chủ yếu của tinh dầu này là d. Menton, một ít d. Limonen
(Những Cây Thuốc Vị Thuốc Việt Nam).
+ Pulegone, Menthone, Isomenthone, Isopulegone, 1-Ethoxypentane,
3-Methylcyclohexanone, Benzaldehyde, 1-Octaen-3-Ol, 3-Octanone, 3-
Octanol, Cymene, Limonence, Neomenthol, Menthol, Piperitone,
Piperitenone, Humulene, Caryophyllene, b Pinene, 3,5-Dimethyl-2-
Cyclohexen-1-One, Ethenyl Dimhyl Bezene, Cineole, Carvone,
Dihydrocarvone, Verbenone (Diệp Định Giang, Trung Dược Thông Báo
1985, 10 (7): 307).
+ Schizonol, Schizonodiol (Oshima Y và cộng sự Planta Med, 1989,
55 (2): 179).
+ Schizonol, Diosmetin, Hesperidin, Hesperetin-7-O-Rutinoside,
Luteoline (Oshima Y và cộng sự, Planta Med, 1989, 55)2): 179).
+ Rosmaniric acid monomethyl ester, Schizoteuin A (Kubo M và
cộng sự, C A 1993, 118: 240923b).
Tác dụng dược lý:
+ Tác dụng điều hòa nhiệt độ: Uống nước sắc Kinh giới có tác dụng
tăng tuần hoàn ở phần biểu. Có báo cáo cho rằng nó có tác dụng hạ nhiệt
(Trung Dược Học).
+ Tác dụng cầm máu: Nước sắc Kinh giới có tác dụng rút ngắn thời
gian đông máu (Trung Dược Học).
+ Cầm máu (sao cháy thành than trên thực nghiệm thấy có tác dụng
rút ngắn thời gian máu chảy và máu đông (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Nước sắc và cồn ngâm kiệt thuốc có tác dụïng hạ nhiệt nhẹ, an
thần, làm gĩan cơ trong phế quản của chuột lang, chống dị ứng (Trung Dược
Học).
Tính vị:
+ Vị cay, tính ấm (Bản Kinh).
+ Không độc (Biệt Lục).
+ Tính hơi ôn (Trấn Nam Bản Thảo).
+ Vị cay, the. Tính hơi ấm (Trung Dược Học).
+ Vị cay, tính ấm (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Vị cay, tính hơi ấm (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Quy kinh:
+ Vào kinh túc Quyết âm Can, phần khí (Bản Thảo Cương Mục).
+ Vào kinh Phế, can (Lôi Công Bào Chích Luận).
+ Vào kinh túc Quyết âm Can, túc Thiếu dương Đởm, túc Dương
minh Vị (Bản Thảo Hối Ngôn).
+ Vào kinh Phế, Can (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ
Sách).
+ Vào kinh Phế và Can (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Tác dụng:
+ Phá kết tụ khí, hạ ứ huyết, trừ thấp tý (Bản Kinh).
+ Trợ Tỳ Vị (Thực Liệu Bản Thảo).
+ Lợi ngũ tạng, tiêu thực, hạ khí, tỉnh tửu [giải rượu] (Nhật Hoa Tử
Bản Thảo).
+ Tán hàn, giải biểu, thấu chẩn, chỉ huyết (Lâm Sàng Thường Dụng
Trung Dược Thủ Sách).
+ Giải biểu, khứ hàn, tán nhiệt, chỉ huyết (Đông Dược Học Thiết
Yếu).
Chủ trị:
Người bị chứng phong hàn ở biểu sợ lạnh sốt nóng, hoặc thời kỳ đầu
của chứng sởi kiêm cảm mạo sợ lạnh. Người bị ngoại cảm mắt đỏ, họng đau,
mụn nhọt sốt nóng sợ lạnh, cùng thổ huyết, chảy máu cam (sao đen sử dụng
cầm máu) (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Cách dùng:
+ Dùng vào thuốc thì thường dùng cả hoa, lá, cành cây phơi khô. Nếu
dùng làm thuốc phát hãn thì dùng sống. Nếu dùng làm thuốc chỉ huyết,
lương huyết thì sao đen (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Kiêng kỵ:
+ Kiêng ăn cua, cá và thịt lừa, thịt cá lóc (Bản Thảo Cương Mục).
+ Phàm người biểu hư hay ra mồ hôi, huyết hư hàn nhiệt không do
phong hàn gây nên, cùng chứng nhức đầu do âm hư hỏa vượng họng đau
không phải ngoại cảm, đều phải kiêng kỵ (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Biểu hư, tự ra mồ hôi, tỳ hư, tiêu chảy: khi dùng nên thận trọng
(Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Người không có dấu hiệu ngoại cảm phong hàn thấp: không nên
uống (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Kinh giới kỵ lửa và tương phản với các thứ cua biển, cá lóc, thịt lừa
(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị chứng đầu phong, cổ cứng không quay được: Sau tiết thu tháng
8, dùng vải bọc hoa Kinh giới làm gối để gối đầu, hoặc trải ra giường nằm
lên cũng được, nhưng đến tiết Lập xuân thì phải bỏ đi (Thiên Kim phương).
+ Trị miệng và mũi máu chảy dữ dội, do tửu sắc quá độ, hư hỏa đến
cùng cực gây nên: Kinh giới, tán bột. Uống 8g với nước sắc Trần bì. Cùng
lắm uống 2-3 lần là khỏi (Thánh Huệ phương).
+ Trị thổ huyết lâu ngày không khỏi: Kinh giới tươi, lấy cả gốc rễ,
ngọn, rửa sạch, gĩa, vắt lấy nước cốt chừng ½ chén, uống với bột Kinh giới
khô là khỏi (Thánh Huệ phương).
+ Trị phong nhiệt, đầu đau, họng đau: hoa Kinh giới, Thạch cao, 2 vị
bằng nhau, tán bột, mỗi lần uống 12g với nước trà nóng (Vĩnh Loại Kiềm
phương).
+ Trị phong nhiệt gây nên đau răng: gốc cây Kinh giới, Ô cửu căn,
Thông bạch căn, 3 thứ bằng nhau, sắc kỹ, ngậm rồi nhổ đi thì khỏi (Y Học
Tập Thành).
+ Trị 120 chứng phong hoặc kinh giản (động kinh) của trẻ nhỏ: Hoa
kinh giới 80g, Bạch phàn 40g (nửa để sống, nửa phi). Tán bột, trộn với hồ
làm thành viên, to bằng hạt Ngô đồng, dùng Chu sa bọc ngoài. Mỗi lần uống
10 viên với nước sôi, ngày 2 lần (Y Học Tập Thành).
+ Trị trúng phong không nói được: Hoa Kinh giới, tán bột, uống 8g
với rượu là khỏi ngay (Kinh Giới Tán – Hội Công Đàm Lục).
+ Trị sản hậu bị trúng phong cấm khẩu, tay chân co duỗi liên tục, cơ
thể uốn cong hoặc sản hậu bị huyết vận, bất tỉnh, tay chân cứng thẳng, mắt
lệch, miệng méo, mắt trợn trừng, kèm thổ tả muốn chết: Hoa Kinh giới, cả
hạt, đem bồi qua cho dòn, tán bột. Mỗi lần uống 12g với rượu ngâm đậu
hoặc uống với nước Đồng tiện. Nếu cấm khẩu thì cậy miệng ra mà đổ thuốc
vào. Hễ thuốc đổ vào được thì công hiệu như thần (Dũ Phong Tán – Hoa
Đà).
+ Trị ghẻ lở: Kinh giới, tán bột. Lấy Sinh địa gĩa nát, nấu thành cao,
hòa với bột Kinh giới làm viên to bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 30
viên với nước trà xanh hoặc rượu (Phổ Tế phương).
+ Trị trẻ nhỏ bị phong hàn, bất tỉnh, phiền nhiệt có đờm; Hoa Kinh
giới 20g, bồi khô, tán bột. Thêm ít Xạ hương, trộn đều. Mỗi lần uống 2g với
nước trà. Người lớn dùng liều cao hơn (Phổ Tế phương).
+ Trị tiểu bí, bụng dưới sưng đau: Kinh giới, Đại hoàng, 2 vị bằng
nhau, tán bột. Mỗi lần uống 12g với nước nóng. Nếu tiểu không thông thì
Đại hoàng giảm bớt phân nửa. Nếu tiêu không thông thì Kinh giới giảm bớt
phân nửa (Phổ Tế phương).
+ Trị sản hậu mệt mỏi, mê man do uất giận mới phát: Hoa Kinh giới,
nửa sống, nửa sao, tán bột. Mỗi lần uống 8g với nước Đồng tiện. Nếu bị
cong người như uốn ván thì dùng rượu làm thang, uống (Đái Nguyên Lễ
Yếu Quyết phương).
+ Trị sản hậu bị huyết vận, hình như có cái gì che lấp ở trái tim gây
nên uất kết, mắt trợn ngược, buồn phiền muốn chết: Hoa Kinh giới, tán
nhuyễn, mỗi lần uống 8g với nước Đồng tiện pha với với ít rượu, rất công
hiệu. Nếu không mở miệng ra được thì cậy răng đổ thuốc vào. Gần đây, các
bậc danh y đều dùng bài này rất nhiều, không mấy bệnh là không hiệu
nghiệm như thần (Đồ Kinh Bản Thảo).
+ Trị sản hậu bị huyễn vậng (chóng mặt) do huyết hư gây nên phong
đến nỗi tinh thần mê man, tối tăm mắt mũi: Hoa Kinh giới 52g, Đào nhân
20g (bỏ vỏ và đầu nhọn đi), sao, tán bột. Mỗi lần uống 12g (Bảo Mệnh Tập).
+ Trị sản hậu bị kiết lỵ: Hoa Kinh giới, 5 cái lớn, cho vào 1 cái bát,
đậy kỹ, đốt cho cháy tồn tính, thêm ít Xạ hương, lấy nước đun sôi hòa vào
cho uống. Bài này tuy nhỏ, không đáng bao nhiêu nhưng công hiệu của nó
rất nhiều, đã từng trị biết bao nhiêu bệnh nặng, bệnh khó, không nên coi
thường (Thâm Sư phương).
+ Trị cửu khiếu ra máu: Kinh giới, nấu với rượu, ngậm (để chuyển
ngấm khắp miệng) rồi nuốt dần là khỏi (Trực Chỉ phương).
+ Trị thổ huyết lâu ngày không khỏi: Kinh giới, tán bột. Dùng Sinh
địa, gĩa nát, vắt lấy nước cốt, hòa với 8g bột Kinh giới, uống là hết (Kinh
Nghiệm phương).
+ Trị tiểu ra máu: Kinh giới, Sa nhân, 2 thứ bằng nhau, tán bột. Mỗi
lần uống 12g với nước cơm gạo nếp, ngày 3 lần (Tập Giản phương).
+ Trị phụ nữ bị băng huyết không cầm: Hoa Kinh giới, đốt trên ngọn
đèn dầu mè cho khô, tán bột. Mỗi lần uống 8g với nước Đồng tiện. Đây là
bài thuốc của Thái hậu Hạ Thái Quân (Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương).
+ Trị sản hậu chảy máu cam nhiều: Kinh giới, bồi khô, tán bột. Uống
8g với nước Đồng tiện (Phụ Nhân Đại Toàn Lương Phương trích của Hải
Thượng Lương phương).
+ Trị đinh độc sưng đau, các chứng nhọt độc: Kinh giới 1 nắm, sắc
với 5 chén nước còn 1 chén, chia làm 3 lần uống lúc nguội (Dược Tính
Luận).
+ Trị các chứng phong làm mắt lệch, miệng méo (liệt mặt): Kinh giới
(loại xanh) 1 cân, Bạc hà (tươi) 1 cân, tất cả cho vào cối đá, gĩa nát, dùng vải
trắng sạch vắt lấy nước cốt rồi cho vào nồi đất hoặc nồi nhôm, nấu thành
cao. Lại lấy phần bã gĩa, lấy 2 phần, bỏ đi 1 phần bã xấu. Đem 2 phần tốt đó
phơi nắng cho khô, tán bột. Trộn với cao đã nấu trước, làm thành viên, to
bằng hạt Ngô đồng. Mỗi lần uống 15 viên với nước đun sôi, ngày 2 lần. Cần
kiêng những thức ăn có tính động phong hỏa như cua biển, tôm, thịt mỡ,
rượu (Kinh Nghiệm phương).
+ Trị trẻ nhỏ bị thoát giang: Kinh giới, Tạo giáp, 2 thứ bằng nhau, nấu
lấy nước thật đặc, dùng để rửa. Rồi lấy sắt nung đỏ nhúng vào nước, lấy
nước đó bôi. Bài này cũng trị được chứng tử cung sa (Kinh Nghiệm
phương).
+ Trị trẻ nhỏ rốn sưng: Hoa Kinh giới nấu lấy nước đặc để rửa. Rồi
dùng Hành nướng cắt mỏng để nguội cho nó hết hơi hỏa độc rồi dán vào chỗ
đó là tiêu tan ngay (Hải Thượng Lương phương).
+ Trị ngón chân lở loét: Kinh giới gĩa nát, đắp vào chỗ đau (Giản Tiện
phương).
+ Trị trĩ lậu sưng đau: Hoa Kinh giới, nấu nước thật đặc, hàng ngày
dùng để rửa thường xuyên sẽ khỏi (Giản Tiện Phương).
+ Trị tiêu ra máu: Kinh giới 80g, Hoa hòe 40g, sao vàng sẫm, tán bột.
Mỗi lần uống uống 12g với nước trà xanh (Giản Tiện Phương).
+ Trị bắp chân lở loét: Kinh giới đốt thành than, trộn với nước cốt
Hành, bôi. Nhưng phải dùng Cam thảo nấu lấy nước, rửa rồi mới bôi thuốc
vào (Trích Huyên phương).
+ Trị mọi chứng ở đầu, mắt đau do lao huyết, phong khí gây nên đầu
đau, chóng mặt: Hoa Kinh giới, tán bột, mỗi lần uống 12g với rượu (Long
Mộc Luận).
+ Trị sản hậu bị trúng phong: Kinh giới tán nhuyễn, hòa với rượu
uống. Công dụng như thuốc tiên (Dược Phẩm Vậng Yếu).
+ Trị sởi, mề đay, có thể dùng bài sau đây có kết quảù tốt: Kinh giới
tuệ 8g, Kim ngân hoa, Liên kiều, mỗi thứ 16g, Cát căn 12g, Bạc hà 4g, Cam
thảo 3g, Thuyền thoái 2g, sắc nước uống (Lâm Sàng Thường Dụng Trung
Dược Thủ Sách).
Tham khảo:
+ Phụ nữ sản hậu đều lấy Kinh giới làm vị thuốc cốt yếu vậy (Đái
Nguyên Lễ Yếu Quyết Phương).
+ Ông Chu Thủ Nhân ở huyện Võ Tiến nói rằng: Cái cổ của ông đau
cứng không thể quay được, thế mà tôi dùng bài thuốc dưới đây mấy ngày là
bớt. Nếu bị lở loét thối tha, dùng gốc cây Kinh giới 1 đoạn ở dưới gốc chẻ
nhỏ, bỏ vào nồi nước nấu sôi kỹ, để hơi ấm rửa. Một lúc sau, xem chỗ lở nát
có chỗ nào tím đen thì dùng kim khêu cho chảy máu độc ra, rồi lại rửa 3-4
lần nữa. Lại dùng Chương não, Hùng hoàng, 2 vị bằng nhau, tán bột, hòa với
dầu mè, bôi vào chỗ chảy nước, ngày hôm sau lại rửa, lại bôi thuốc cho đến
khi khỏi (Hoạt Pháp Cơ Yếu).
+ Kinh giới trị phong. Quan tướng quốc họ Cổ gọi là Tái Sinh Đơn,
ông Hứa học sĩ cho là nó có công như thần như thánh; Ông Đái viện sứ cho
rằng Kinh giới là thuốc chủ yếu của bệnh sản hậu; Ông Tiêu Tồn Kính gọi là
một nắm vàng. Không phải vô cớ mà có những tên gọi như vậy. Tuy nhiên,
khi dùng phải xét: người đời nay hễ gặp chứng phong liền dùng Kinh giới,
Phòng phong là thuốc sơ khí, tán phong, sùng với nhau. Họ không biết rằng
phong ở trong da, ngoài niêm mạc thì dùng Kinh giới làm chủ, không giống
như Phòng phong nó chạy vào đến xương thịt của người ta (Dược Phẩm
Vậng Yếu).
+ Ngày xưa ông Giả Tự Đạo nói rằng, bài Kinh Giới Tán xuất xứ từ
‘Hội Công Đàm Lục’, trước sau đã dùng nhiều lần, rất công hiệu. Chính con
tôi tên là Thuận bị bệnh trúng phong không nói được, nguy kịch đến nơi, thế
mà uống bài này liền đỡ ngay, thật là quý vậy thay. Thật là bài thuốc vãn tử
hồi sinh làm cho người ta chết sống lại được vậy (Trung Quốc Dược Học
Đại Từ Điển).
+ Ông Lý Thời Trân nói rằng: Bài Dũ Phong Tán đã được các sách
đều khen ngợi là hay cả (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Kinh giới là 1 vị thuốc thánh trong những bệnh về phong dược và
về huyết cùng các chứng mụn nhọt ghẻ lở vậy (Trung Quốc Dược Học Đại
Từ Điển).
+ Sức phát hãn của Kinh giới huệ mạnh hơn Kinh giới. Không có mồ
hôi dùng Kinh giới huệ, có mồ hôi dùng Kinh giới sao; vào huyết phận dùng
Kinh giới sao thành than (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Kinh giới có tác dụng phát tán khử hàn như Ma hoàng, nhưng Ma
hoàng lại mạnh mẽ, nhanh chóng, Kinh giới thì tương đối hòa hoãn. Vả lại
Ma hoàng thiên về khứ hàn tà ở lưng thuộc kinh Thái dương, còn Kinh giới
thì khứ hàn tà ở toàn thân (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Kinh giới có tên riêng là Giả tô, vì tính vị cay ôn, giống như Tử tô,
nhưng Kinh giới cay mà không gắt, ôn mà không táo, đúng là thuốc hơi cay,
hơi ôn Cho nên người bị thương hàn, ôn bệnh thuộc cảm mạo, thì bất luận
phong hàn, phong nhiệt đều có thể dùng được (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Phân biệt:
+ Cây Kinh giới ở Việt Nam vẫn trồng để ăn, làm gia vị và làm thuốc
(đã được xác định là Elsholtzia cristata Willd. cùng họ. Cây cũng thuộc loại
thảo, cao 0,30 - 0,45m, thân nhẵn, mọc thẳng đứng. Lá mọc đối, phiến lá
thuôn nhọn, dài 5 - 8cm, rộng 3cm, mép có răng cưa, cuống gầy dài 2 --
3cm. Hoa nhỏ, không cuống, màu tím nhạt, mọc thành bông ở đầu cành rất
mau. Quả gồm 4 hạch nhỏ, nhẵn, dài 0,5cm.
+ Một cây khác cũng được gọi là Kinh giới và dùng làm thuốc là cây
Origanum syriacum (Lour.) cùng họ (Tài Nguyên Cây Thuốc Việt Nam).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 96_7985.pdf