Xuất xứ:
Bản Kinh.
Tên hán Việt khác:
Đái thảm (Bản Kinh), Đái thâm, Thục chi, Bách bản, Ngải thảo, Kỵ
thảo, Độc thầm (Biệt Lục), Vương tôn (Dược Tính Bản Thảo), Dương nhục
(Nhật Hoa Tử Bản Thảo), Hoàng thị, Miên kỳ, Đái phấn (Bản Thảo Cương
Mục), Đố phụ, Cam bản ma, Bách dược miên (Hòa Hán Dược Khảo), Hoàng
kỳ, Sinh hoàng kỳ, Chích hoàng kỳ, Thanh chích kỳ, Mật chích kỳ, Đại hữu
kỳ, Miên hoàng kỳ, Mạc giáp hoàng kỳ, Thượng hữu kỳ, Tây thượng kỳ, Kỳ
diện, Bạch thủy hoàng kỳ, Đại hoàng kỳ, Thổ hoàng-kỳ, Nham hoàng kỳ
(Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển), Độc căn (Cam Túc Trung Dược Thủ
Sách), Nhị nhân đài (Liêu Đình Kinh Tễ Thực Vật Chí), Thổ sơn bạo
phương căn (Tân Cương Dược Tài), Miên hoàng kỳ, Thượng hoàng kỳ, Mật
trích hoàng kỳ, Thanh trích hoàng kỳ, Sinh hoàng kỳ, Sinh hoàng kỳ bì
(Đông Dược Học Thiết Yếu).
38 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1339 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Dược học hoàng kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DƯỢC HỌC
HOÀNG KỲ
Xuất xứ:
Bản Kinh.
Tên hán Việt khác:
Đái thảm (Bản Kinh), Đái thâm, Thục chi, Bách bản, Ngải thảo, Kỵ
thảo, Độc thầm (Biệt Lục), Vương tôn (Dược Tính Bản Thảo), Dương nhục
(Nhật Hoa Tử Bản Thảo), Hoàng thị, Miên kỳ, Đái phấn (Bản Thảo Cương
Mục), Đố phụ, Cam bản ma, Bách dược miên (Hòa Hán Dược Khảo), Hoàng
kỳ, Sinh hoàng kỳ, Chích hoàng kỳ, Thanh chích kỳ, Mật chích kỳ, Đại hữu
kỳ, Miên hoàng kỳ, Mạc giáp hoàng kỳ, Thượng hữu kỳ, Tây thượng kỳ, Kỳ
diện, Bạch thủy hoàng kỳ, Đại hoàng kỳ, Thổ hoàng-kỳ, Nham hoàng kỳ
(Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển), Độc căn (Cam Túc Trung Dược Thủ
Sách), Nhị nhân đài (Liêu Đình Kinh Tễ Thực Vật Chí), Thổ sơn bạo
phương căn (Tân Cương Dược Tài), Miên hoàng kỳ, Thượng hoàng kỳ, Mật
trích hoàng kỳ, Thanh trích hoàng kỳ, Sinh hoàng kỳ, Sinh hoàng kỳ bì
(Đông Dược Học Thiết Yếu).
Tên khoa học:
Astragalus membranaceus (Fisch) Bge.
Họ khoa học:
Thuộc họ Cánh Bướm (Fabaceae).
Mô tả:
Cây thảo sống lâu năm, thân mọc thẳng đứng phân nhiều cành, cao
khoảng 6-70cm, phân nhiều cành. Rễ hình trụ đường kính 1-2cm, dài và đâm
sâu, dai rất khó bẻ, vỏ ngoài màu nâu đỏ hay màu vàng nâu. Lá kép lông
chim lẻ, mọc so le, gồm 15-25 lá chét hình trứng dài, trên trục lá có lông
trắng, lá kèm mọc rời, lá kèm phía dưới hình trứng tròn, lá kèm phía trên
hình mác. Lá chét có từ 8-13, dài từ 6-20m, rộng 3-8mm, đầu lá nhọn hoặc
tròn. Hoa tự dài hơn lá. Cuống hoa tự dài 4-12cm, lá bắc hình mũi mác ngắn
hơn lá dài. Đài hoa hình chuông xẻ răng cưa ngắn. Tràng hoa màu vàng
nhạt. Nhị đực 10, xếp thành 2 bó. Quả loại đậu hình bán nguyệt bẹt, dài
2,5cm, rộng 9mm, có lông dính dát quả, đầu quả dài ra thành hình gai nhọn.
Ở Trung Quốc mùa hoa vào tháng 6-7, quả tháng 8-9.
Địa lý:
Sống tốt ở nơi đất cát, thoát nước tốt, bờ rừng, hay gặp ở các tỉnh
Diên An, Du Lâm, Bửu Kê, Đông Bắc, Hoa Bắc, Tây Bắc, Tứ Xuyên. Cây
được trồng hoặc mọc hoang ở Trung Quốc. Mãi cho tới nay nước ta còn phải
nhập Hoàng kỳ của Trung Quốc ở nước ta mới còn đang di thực chưa được
phổ biến.
Thu hái, sơ chế:
Vào mùa thu, thu hoạch rễ, thường thu hoạch sau 3 năm, sau 6-7 năm
thì càng tốt. Đào rễ rửa sạch đất cát cắt bỏ đầu và rễ con, phơi hay sấy khô.
Phần dùng làm thuốc:
Rễ (Radix Astragali).
Mô tả dược liệu:
Rễ hình viên trụ, rắn và có bột, ít khi phân nhánh, trên thô dưới nhẵn,
dài 30-60cm, đường kính 1,5-3,5cm. Mặt ngoài màu vàng tro hoặc nâu xám,
có những vân dọc. Mặt bẻ có những sợi cứng và xơ. Chất mềm xốp và cứng,
vỏ ngoài màu trắng, chính giữa màu trắng vàng, giữa hai lớp có vòng màu
nâu nhạt, có nhiều củ có khe từ chính giữa phát lan ra. Rễ to mập nhiều thịt
ít xơ, dai bền, ruột vàng là tốt.
Có thứ vỏ đen (trên thương trường gọi là Hắc kỳ) thịt vàng. Có thứ
còn non (tên thương trường gọi là Nộn kỳ) thịt trắng nhiều bột không xơ là
thứ thượng phẩm. Có khi người ta giả Hắc kỳ bằng cách nhuộm đen Hoàng
kỳ, nhưng khi rửa thì hết đen (Danh Từ Dược Vị Đông Y).
Bào chế:
- Cắt bỏ đầu, đồ lên nửa ngày, tước ra sợi nhỏ để lên mặt đá đập dập
mà dùng (Lôi Công bào chích luận).
- Đập dập nát, tẩm mật Ong sao 3 lần, có khi tẩm muối đồ chín (Bản
Thảo Cương Mục).
- Rửa sạch, ủ hơi mềm, xắt hoặc bào mỏng 1-2 ly. Sấy nhẹ hoặc phơi
cho khô (dùng sống). Hoặc sau khi làm khô đập nát tước nhỏ, tẩm mật rồi
sao vàng (cách này hay dùng gọi là Chích hoàng-kỳ). Hoặc ngâm mật Ong
loãng 2-3 ngày cho thấm rồi quấn giấy bản lùi vào tro, nếu làm ít, hoặc sao
vàng.( Trung Dược Đại Từ Điển).
Bảo quản:
Để nơi cao ráo, nơi ẩm dễ hư. Khi đã tẩm mật thì không nên để lâu.
Thành phần hóa học:
+ Theo Sở dược thuộc Viện nghiên cứu y học Bắc kinh: trong Hoàng
kỳ có Cholin, Betain, nhiều loại Acid Amin và Sacarosa.
+ Theo Lý Thừa Cố (Sinh dược học 1952): trong Hoàng kỳ có
Sacarosa, Glucosa, tinh bột, chất nhầy, gôm, hơi có phản ứng Alcaloid.
+ Trong Hoàng kỳ có Sacarosa, nhiều loại Acid Amin, Protid (6,16-
9,9%), Cholin, Betain, Acid Folic, Vitamin P, Amylase (Trung Dược Học).
+ Trong Hoàng kỳ có 2’, 4’ - Dihyroxy-5,6-Dimethoxyisoflavane,
Choline, Betaine, Kumatakenin, Sucrose, Glucoronic Acid, b-Sitosterol
(Chinese Hebral Medicine).
+ Soyasaponin I, Calycosin-7-O-b-D-Glucoside, 2’-Hydroxy-3’, 4’-
Dimethoxyisoflavane-7-O-b-D-Glucoside, 9,10-Dimethoxypterocarpan-3-O-
b-D-Glucoside (Vương Đức Khiêm – Trung Thảo Dược 1989, 20 (5): 198.
+ Palmatic acid, Linoleic acid, Linolenic acid (Lưu Thiên Bồi – Gian
Tô y Dược 1978, 2: 32).
+ Coriolic acid (Subarnas Anas và cộng sự Planta Med, 1991, 57 (6):
590.
Tác dụng dược lý:
1) Tăng cường chức năng miễn dịch của cơ theå: Hoàng kỳ làm tăng
chức năng thực bào của hệ thống tế bào lưới, nếu cùng dùng với Linh chi,
Đảng sâm thì tác dụng càng rõ. Người bình thường sau khi cho uống nước
sắc Hoàng kỳ thì IgM, IgE và cAMP trong máu tăng lên rõ, SIaA trong
nước miếng giảm rõ. Hoàng kỳ và Polysaccharide của nó có khả năng làm
cho tế bào tương của lách súc vật tăng sinh, thúc đảy sự hình thành kháng
thể và nâng cao tính miễn dịch của thể dịch. Hoàng kỳ không những làm
tăng cường chức năng miễn dịch mà lại còn có tác dụng điều tiết 2 chiều, có
thể coi Hoàng kỳ như 1 vị thuốc điều tiết miễn dịch (Trung Dược Học).
2) Thúc đẩy quá trình chuyển hóa trong cơ theå: Làm thí nghiệm mỗi
ngày: thụt vào bao tử chuột nhắt nước sắc Hoàng kỳ trong 3 tuần, chuột
khỏe lên. Hoàng kỳ dùng trong nuôi dưỡng tế bào làm cho tế bào sinh
trưởng nhanh, số lượng tế bào hoạt động tăng lên nhiều, tuổi thọ kéo dài.
Nghiên cứu thực nghiệm cũng cho thấy thuốc làm tăng cương1 chuyển hóa
sinh lý của tế bào, tác dụng này có thể do thuốc có tác dụng điều chỉnh
cAMP và cGMP trong tế bào.Hoàng kỳ có thể thúc đẩy sự chuyể hoa Protid
của huyết thanh và gan, đây cũng là 1 mặt quan trọng của tác dụng ‘Phù
Chính’ của thuốc (Trung Dược Học).
3) Tác dụng lợi tiểu: Nước sắc và cao lỏng Hoàng kỳ đối với súc vật
thực nghiệm (chuột cống, thỏ, chó...) và người thường đều có tác dụng lợi
tiểu rõ rệt. Súc vật sau khi uống thuốc, lượng nước tiểu tăng 64% (Trung
Hoa Y Học Tạp Chí, 47 (1): 7-11, 1961) nhưng phạm vi liều lượng có hiệu
quả hẹp, liều thấp không có tác dụng, ngược lại, liều quá cao lại làm cho
nước tiểu giảm(Tác Dụng Hạ Áp Và Lợi Niệu Của Hoàng Kỳ, Dược Học
Học Báo 12 (5), 319-324, 1965).
4) Tăng Lực co bóp của của tim bình thường: đối với trạng thái suy
tim do mệt mỏi hoặc do nhiễm dộc, tác dụng cường tim của thuốc càng rõ.
Dịch tiêm Hoàng kỳ có tác dụng 100% làm cho mạch co bóp và làm nhanh
nhịp tim cô lập của thỏ (Trung Dược Học).
5) Hạ áp: Nước sắc, cao lỏng, cồn Hoàng kỳ tiêm dưới da hoặc tĩnh
mạch cho súc vật đã gây mê đều có tác dụng hạ áp nhanh nhưng thời gian
ngắn. Tác dụng hạ áp có thể do thuốc làm dãn mạch ngoại vi ( Trung Dược
Ưùng Dụng Lâm Sàng). Thí nghiệm trên chuột bạch và chuột lang còn
chứng minh thuốc có tác dụng tăng sứ đề kháng của mao mạch, do đó, có thể
đề phòng hiện tượng thẩm thấu của mao mạch tăng mạnh do Clorofoc,
Histamin tạo nên (Trung Dược Học).
6) Đối với Thận và niệu đạo:
+ Trên lâm sàng cho thấy Hoàng kỳ cùng dùng với Đảng sâm trị đạm
niệu do Thận hư nhiễm mỡ. Nếu dùng liều cao thuốc có tác dụng làm giảm
đạm niệu. Có báo cáo cho bằng dùng bột Hoàng kỳ tốt hơn (Trích Luận Văn
Hội Nghị Khoa Học Sinh Lý Trung Quốc, trang 135,1964).
+ Dùng lượng lớn Hoàng kỳ có thể giảm phù và cải thiện trạng thái
dinh dưỡng của cơ thể (Trích Luận Văn Báo Cáo Tại Hội Nghị Khoa Học
Sinh Lý Toàn Quốc Trung Quốc Lần Thứ 2, trang 13,1963).
7) Kháng Khuẩn: trong ống nghiệm thuốc có tác dụng kháng khuẩn
đối với trực khuẩn lỵ Shigella, liên cầu khuẩn dung huyết, phế cầu, tụ cầu
vàng (Trung Quốc Tạp Chí 1947, 67: 648-656,).
8) Đối với tử cung: dịch tiêm Hoàng kỳ có tác dụng hưng phấn co bóp
tử cung cô lập của chuột cống 100%. Nước sắc Hoàng kỳ có tác dụng ức
chế ruột cô lập của thỏ. Polysaccharide Hoàng kỳ có tác dụng kháng tế bào
ung thư. Dịch tiêm Hoàng kỳ trong ống nghiệm có tác dụng làm tăng trưởng
xương đùi của phôi thai gà (Trung Dược Ưùng Dụng Lâm Sàng).
9) Đối với gan: Hoàng kỳ có tác dụng bảo vệ gan, chống giảm sút
Glycogen ở gan (Trích Luận Văn Báo Cáo Tại Hội Nghị Học Thuật Của Hội
Dược Học Trung Quốc 1963, trang 332-333).
Tính vị:
+ Vị ngọt, tính hơi ôn (Bản Kinh).
+ Khí ấm, vị ngọt, tính bình (Y Học Khải Nguyên).
+ Vị ngọt, tính hơi ôn (Trung Dược Học).
+ Vị ngọt tính hơi ấm (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Vị ngọt, tính ấm (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Quy kinh:
+ Vào kinh thủ Thiếu dương (Tam tiêu), túc Thái âm (Tỳ), túc Thiếu
âm (Thận), Mệnh môn (Thang Dịch Bản Thảo).
+ Vào kinh thủ Thiếu dương, thủ Thái âm (Phế), túc Thái âm (Bản
Thảo Mông Thuyên).
+ Vào kinh thủ Dương minh (Đại trường), thủ Thái âm (Bản Thảo
Kinh Sơ).
+ Vào kinh thủ thái âm (Phế), túc thái âm (Tỳ), thủ thiếu âm (Tâm)
(Trung Dược Học).
+ Vào kinh Phế và Tỳ (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Vào 2 kinh Phế, Tỳ (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ
Sách).
Tác dụng:
. Dùng sống: Ích vệ, cố biểu, lợi thủy, tiêu thủng, thác độc, sinh cơ.
Dùng nướng: bổ trung ích khí..(Trung dược đại tự điển ).
. Dùng sống: cố biểu, lợi tiểu. Tẩm sao: Có tác dụng bổ khí huyết; bổ
tỳ vị.(Trung quốc dược học đại tự điển ).
. Bổ khí, cố biểu, lợi thủy, thác độc, bài nùng, lâu lành các vết thương,
sinh cơ (Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Dược Điển ).
Chủ trị:
+ Chủ ung nhọt lở loét lâu ngày, bài nùng, chỉ thống, trị bệnh phong
hủi, ngũ trĩ, bổ hư, tiểu nhi bách bệnh (Bản Kinh).
+ Chủ tử cung bị phong tà khí, trục ác huyết ở ngũ tạng, bổ hư tổn
(nam giới), ngũ lao (5 tạng hư tổn) gầy ốm, chỉ khát, bụng đau, tiêu chảy, lỵ,
ích khí, lợl âm khí (Biệt Lục).
+ Chủ hư suyễn, thận suy, tai điếc, trị hàn nhiệt (Dược Tính Bản
Thảo).
+ Hoàng ky trợ khí, tráng gân cốt, trưởng nhục, mạnh cơ bắp, bổ
huyết, phá trưng tích, trị loa lịch, anh lựu, trường phong, huyết băng, đái hạ.
.. các bệnh trước và sau khi sinh đẻû, tiêu khát, ho có đờm (Nhật Hoa Tử
Bản Thảo).
+ Trị hư lao, mồ hôi tự ra, bổ phế khí, làm mạnh da lông, tả phế nhiệt,
mạch huyền, mồ hôi tự ra, trị tỳ vị hư nhược, các chứng ung mụn họt, lở
ngứa (Y Học Khởi Nguyên).
+ Dùng sống:Trị mồ hôi tự ra, mồ hôi trộm, huyết tý, nhũ ung, ung
thư (mụn nhọt) không vỡ mủ hoặc vỡ mủ mà không gom miệng.
Dùng nướng: Trị nội thương lao quyện, tỳ hư, tiêu chảy, thoát giang,
khí hư, huyết thoát, băng đới, các chứng khí suy, huyết hư (Trung Dược Đại
Từ Điển).
+ Trị đái đường, đái đục, đái buốt...Dương hư, tự ra mồ hôi, mệt mỏi
ăn ít, khí hư phù thũng, Khí hư, mất huyết, băng huyết, Ung nhọt, lở loét
không liền miệng . Trung khí hạ hãm gây ra các chứng bao tử sa, trực trường
sa, tử cung sa (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị khí hư, không có sức, ăn ít, trung khí hạ hãm, tiêu chảy lâu ngày,
thoát giang, tiêu ra máu, băng lậu, phần biểu hư mồ hôi tự ra, khí hư, thủy
thủng, ung nhọt không vỡ mủ, vết thương không liền miệng, huyết hư, gầy
ốm, nội nhiệt, tiêu khát, Thận viêm mạn, tiểu đục, tiểu đường. Nướng mật
có tác dụng ích khí bổ trung, trị khí hư, không có sức, ăn ít, tiểu đường
(Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc Dược Điển).
Liều dùng: 12-20g, có khi tới 80g .
Kiêng kỵ:
- Ghét vị Miết giáp (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
- Ghét vị Bạch tiễn bì (Nhật Hoa Tử Bản Thảo).
- Mụn đậu sắc đen, khí thịnh, không dùng. Phần biểu có tà khí, không
dùng, Chứng âm hư chỉ dùng ít thôi, sợ vị Phòng phong (Y Học Nhập
Môn).
- Không có khí hư mà biểu lý có thực tả thì cấm dùng. Thực chứng,
hư chứng có âm hư hỏa vượng cấm dùng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ
Điển).
- Ngực, hoành cách mô có bỉ khí, tích tụ: không dùng, Dương thịnh
âm suy: không dùng, thượng tiêu có nhiệt, hạ tiêu hư hàn: không dùng,
người giận dữ nhiều, Can khí không hòa: không dùng, mụn đậu, ghẻ lở mà
phần huyết nhiệt: không dùng (Bản Thảo Kinh Sơ).
- Phục linh làm sứ cho nó (Dược Tài).
- Thực chứng mà âm hư dương thịnh, không dùng (Trung Dược Đại
Từ Điển).
Đơn thuốc kinh nghiệm
+ Trị phong thấp, mạch Phù, cơ thể nặng, sợ gió, ra mồ hôi: Bạch
truật 30g, Cam thảo 20g, Hoàng kỳ 40g, Phòng kỷ 40g. Tán bột. Mỗi lần
dùng 20g, thêm Gừng 4 lát, Táo 1 trái, sắc uống.(Phòng Kỷ Hoàng Kỳ
Thang - Kim Quỹ Yếu Lược).
+ Trị huyết tý, âm dương đều yếu, mạch bộ thốn và quan đều Vi, bộ
xích Tiểu,Kết, bên ngoài cơ thể mất cảm giác, giống như chứng phong tý:
Hoàng kỳ, Quế chi, Thược dược đều 120g, Sinh khương 240g, Táo 12 trái.
Sắc, chia ra uống (Hoàng Kỳ Quế Chi Ngũ Vật Thang - Kim Quỹ Yếu
Lược).
+ Trị vàng da do nghiện rượu, vùng dưới tim đau, chân sưng, tiểu
vàng, hoặc uống rượu sinh ra những nốt vàng đen đỏ ở da, do say rượu quá
mà gặp gió và nước mà gây ra: Hoàng kỳ 80g, Mộc lan 40g, tán bột, uống
mỗi lần 8g với rượu, ngày 3 lần (Trửu Hậu phương).
+ Trị tiêu khát: Can địa hoàng 200g Chích thảo 120g, Hoàng kỳ
120g, Mạch môn (bỏ lõi) 120g, Phục thần 120g, Quát lâu 120g, sắc uống (
Hoàng Kỳ Thang - Thiên Kim phương).
+ Trị móng tay lở sưng tấy ở hai bên ngón tay ngón chân, lòi thịt đỏ,:
Hoàng kỳ 80g, Lan nhự 120g, ngâm với giấm 1 đêm, thêm mỡ Heo 5 chén
nhỏ, sắc với lửa nhỏ còn 3 chén, bỏ bã, bịt ở trên chỗ lở loét, ngày 3 lần
thay, thịt đó sẽ tiêu (Ngoại Đài Bí Yếu).
+ Trị Phế ung, thổ ra huyết: Hoàng kỳ 80g, tán bột, mỗi lần dùng 8g
sắc với nước uống lúc còn nóng. Ngày uống 3-4 lần (Thánh Huệ Phương).
+ Trị các chứng hư, bất túc, chân tay mỏi mệt, ngực phiền, hồi hộp,
tiêu khát, miệng môi khô, sắc mặt vàng úa, không muốn ăn uống hoặc lúc
đầu khát mà sau phát ghẻ nhọt, hoặc bị mụn nhọt rồi sinh ra khát: Chích
thảo 40g, Hoàng kỳ (nướng mật) 240g, Gĩa nát, mỗi lần dùng 8g, thêm Táo
1 trái, sắc uống (Hoàng Kỳ Lục Nhất Thang - Cục Phương).
+ Trị người gìa tức mệt, bứt rứt: Miên Hoàng kỳ, Trần bì (bỏ xơ
trắng), mỗi thứ 20g, tán bột, mỗi lần uống 12g, Vừng (Mè) 1 chén nhỏ,
nghiền nát, lọc như tương, sắc cho tới khi thấy có nổi như sữa mới bỏ vào
một thìa mật ong rồi sắc tiếp. Uống lúc đói, thuốc này dược tính bình hòa
không lạnh không nóng, uống vào không bị bí tắc, hiệu quả như thần (Hòa
Tễ Cục Phương).
+ Trị nôn ra máu không dứt: Hoàng kỳ 10g, Tử bối phù bình 20g, tán
bột, mỗi lần uống 4g với nước Gừng và Mật (Thánh Tế Tổng Lục).
+ [HDT1] Trị mồ hôi tự ra: Bạch truật 80g, Hoàng kỳ 40g, Phòng
phong 40g. Tán bột.Mỗi lần dùng 12g, thêm Gừng 3 lát sắc uống (Ngọc
Bình Phong Tán – Đan Khê Tâm Pháp).
+ Trị ung thư (mụn nhọt) lâu ngày có mủ mà không vỡ ra: Đương quy
8g, Hoàng kỳ 16g, Tạo giác thích 6g, Xuyên khung 12g, Xuyên sơn giáp
(sao) 4g, Sắc uống. (Thấu Nùng Tán - Ngoại Khoa Chính Tông).
+ Trị ung thư (mụn nhọt) phá mủ mà vết thương không gom miệng:
Cam thảo 8g, Hoàng kỳ 12g, Mẫu lệ 12g, Ngũ vị tử 4g, Nhân sâm 12g, Phục
linh 12g, Sinh khương 12g. Sắc uống ấm(Hoàng Kỳ Nhân Sâm Mẫu Lệ
Thang - Tứ Thánh Tâm Nguyên).
+ Trị tiểu không thông: Miên hoàng-kỳ 8g, nước 2 chén, sắc còn 1
chén, uống nóng. Trẻ con dùng phân nửa (Tổng Vi Luận)
+ Trị bạch trọc do khí hư: Hoàng kỳ (sao với muối) 20g, Phục linh
40g, tán bột, mỗi lần uống 8g với nước, lúc đói (Hoàng Kỳ Tán - Kinh
Nghiệm Lương Phương).
+ Trị khát, bổ hư, nam nữ suy nhược, hồi hộp, đái đường, sắc mặt
vàng úa, không ăn uống được, hoặc trước khát sau lở nhọt, hoặc trước lở
nhọt sau khát (tiêu khát), nên uống thường thuốc này để bổ khí huyết và an
hòa ngũ tạng lục phủ, phòng chống được các loại bệnh ung thư: Miên hoàng
kỳ (cắt bỏ đầu đuôi) 240g, trong đó lấy một nửa sấy khô, tán bột, Phấn cam
thảo 40g, trong đó 20g dùng sống, 20g sao vàng tán bột. Mỗi lần uống 8g
với nước sôi, ngày 3 lần, hoặc có thể sắc uống (Hoàng Kỳ Lục Nhất Thang-
Ngoại Khoa Tinh Yếu Phương).
+ Trị trường phong, tả huyết: Hoàng kỳ, Hoàng liên, lượng bằng nhau.
Tán bột, trộn với bột miến làm hoàn, uống (Tế Sinh Phương).
+ Trị cơ bị nhiệt, táo nhiệt, mắt đỏ, mặt hồng, mạch Hồng Đại mà Hư:
Hoàng kỳ 40g, Đương quy (tẩy rượu) 8g, sắc uống lúc đói. (Đương Quy Bổ
Huyết Thang - Nội Ngoại Thương Biện Hoặc Luận).
+ Trị tiểu ra máu, có khi buốt rát đau không chịu nổi: Hoàng kỳ,
Nhân sâm, liều lượng bằng nhau, tán bột[TVN2] , lấy 1 củ Đại la bặc (củ
cải lớn), sắc ra 45 miếng (bằng ngón tay lớn), tẩm với 80g mật, sao cho tới
khi nào hết mật. Chấm bột thuốc ăn khi nào cũng được hoặc uống với nước
muối (Vĩnh Loại Kiềm Phương).
+ Trị ho ra máu mủ, vì trong hư có nhiệt, không thể dùng thuốc mát
được: Cam thảo 40g, Hoàng kỳ tốt 160g, tán bột, mỗi lần uống 8g với nước
nóng (Tịch Duyên Thưởng Phương).
+ Trị cơ quan sinh dục ngứa: Hoàng kỳ, Nhân sâm, mỗi thứ 40g, tán
bột, Long não tốt 4g, dùng nước cốt ngó sen làm viên bằng hạt đậu xanh,
mỗi lần uống 20 viên với nước nóng (Bản Sự Phương).
+ Trị chóng mặt, hoa mắt, cơ thể suy yếu, ít ăn và rong kinh băng
huyết, sa trực trường, sa tử cung do khí hư: Bạch truật, Cam thảo, Đảng sâm
Đương qui, Hoàng kỳ mỗi thứ 12g, Sài hồ 6g, Thăng ma 4g, Trần bì 6g,
Sắc uống (Bổ Trung Ích Khí Thang - Tỳ Vị Luận).
+ Trị phát sốt do huyết hư và chứng muốn thoát do huyết hư sau khi
mất máu nhiều: Hoàng kỳ 40g, Đương quy 8g. Sắc, thêm một ít Đồng tiện
uống (Đương Quy Bổ Huyết Thang - Nội Ngoại Thương Biện Hoặc Luận).
+ Trị mụn nhọt do khí huyết bất túc, sưng tấy lở loét hãm vào không
lành được hoặc lâu ngày không lành:
. Bạch truật 8g, Cam thảo 4g, Đương quy 12g, Hoàng kỳ 16g, Kim
ngân hoa 16g, Tạo giác thích, Thiên hoa phấn, Trạch tảû mỗi thứ 12g,
Xuyên khung 8g, sắc uống (Hoàng Kỳ Nội Thác Tán - Y Tông Kim Giám).
. Cam thảo 6g, Đương quy 16g, Hoàng kỳ, Kim ngân hoa mỗi thứ
20g, Sắc uống (Tứ Diệu Thang – Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Trị khớp đau do cơ thể suy nhược, phong thấp: Bạch thược 120g,
Hoàng kỳ 120g, Quế chi 120g, Sinh khương 240g, Đại táo 12 trái (Hoàng
Kỳ Quế Chi Ngũ Vật Thang - Kim Quỹ Yếu Lược).
+ Trị các chứng suy nhược mạn tính do tỳ khí hư nhược, mệt mỏi kém
ăùn hoặc các chứng tiêu chảy kéo dài, rong kinh, sa tử cung, sa trực trường:
dùng bài Bổ Trung Ích Khí Thang: Hoàng kỳ, Đảng sâm, Bạch truật, Đương
qui mỗi thứ 12g, Thăng ma 4g, Sài hồ, Trần bì mỗi thứ 6g, Cam thảo 4g, sắc
nước uống, thuốc có tác dụng bổ khí, thăng dương (Lâm Sàng Thường Dụng
Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị Bao tử sa: Dùng Hoàng kỳ (sống), Thăng ma, Sài hồ, Ngũ vị tử
chế thành dịch tiêm ‘Thăng Tạng Linh’, mỗi lần tiêm bắp 4ml, ngày 2 lần
hoặc tiêm huyệât Trung quản, Túc tam lý mỗi huyệt 0,5ml cách nhật, l tháng
là l liệu trình, có kết hợp thuốc trị các bệnh khác, sau khi ăn, bệnh nhân nằm
nghỉ. Trị 33 ca bao tử sa, kết quả khỏi 9 ca, tốt 9 ca, có kết quả 10 ca, tỷ lệ
kết quả 84,9% (Tổ Tiêu Hóa Nội Khoa Thuộc Sở Nghiên Cứu Trung Y Tỉnh
Thái Nguyên –‘Tiểu Kết 42 Ca Bao Tử Sa Điều Trị Bằng ‘Thăng Tạng
Linh’, Sơn Tây Y Dược Tạp Chí 1978, 2: 31).
+ Trị trực trường sa, lòi dom: Dùng Hoàng kỳ 30-50g phối hợp với
Đan sâm 15g, Sơn tra nhục 10g, Phòng phong, Thăng ma mỗi thứ 3g, sắc
nước uống mỗi ngày l thang, dưới 3 tuổi giảm liều. Nếu có lòi ra ngoài, thêm
Thuyền thoái, Kinh giới (than), Băng phiến tán bột trộn với Hương dầu bôi
trị sa trực trường, kết quả tốt (Vương Chí Thanh, ‘ Trị Sa Trực Trường Bằng
Thuốc’, Sơn Đông Trung Y Tạp Chí 1983, 2: 43).
+ Làm thuốc phòng cảm mạo: Tổ nghiên cứu trị cảm mạo, viêm phế
quản đã
cho uống mỗi ngày 5 viên Hoàng kỳ (mỗi viên có lg thuốc sống),
ngày 3 lần hoặc cách nhật sắc 15g Hoàng kỳ uống, 10 ngày một liệu trình,
nghỉ thuốc 5 ngày, uống liệu trình 2. Đã dùng cho 540 nguời dễ cảm mạo, số
lần người cảm giảm bình quân 2,7 lần và rút ngắn được thời gian mắc bệnh
(Trung Y Tạp Chí 1980, l: 7 l),
+ Phòng cảm mạo: Dương Vĩnh Phương và cộng sự dùng Hoàng kỳ
15g, Đại táo 10g, chế thành thuốc bột chia làm 2 bao hòa nước uống, người
lớn mỗi lần l bao, ngày 2 lần. Đã theo dõi 160 ca chứng minh thuộc có tác
dụng phòng chống cảm mạo nhẹ phát sinh, hạ thấp tỷ lệ bệnh viêm Phế
quản, hen phế quản, viêm mũi dị ứng (Hồ Nam Trung Y Học Viện Học Báo
1987, 4: 13).
+ Phòng bệnh viêm đường hô hấp trên trẻ em: Chiết xuất nước Hoàng
kỳ cho vào ống 2ml (tương đương thuốc sống 2g), ngày uống l lần. Thẩm
Vỹ Bình đã theo dõi 100 ca, kết quả 94% (Giang Tô Trung Y Tạp Chí 1988,
9: 32).
+ Trị viêm mũi dị ứng: Bồ Chí Thành dùng dịch tiêm Hoàng kỳ chích
vào mũi mỗi bên 2ml, 3 ngày 1 lần, 10 lần là một liệu trình, theo dõi 47 ca
có kết quả 93,26% (Nam Kinh Y Học Viện Học Báo 1988, 3: 246).
+ Phòng trị ho suyễn: Tổ Hô hấp bệnh viện Nhi khoa thuộc Y học
viện số 1 Thượng Hải dùng ống thuốc Hoàng kỳ 2ml (mỗi 1 ml có 1g thuốc
sống), chia Thủy châm 2 huyệt Túc tamlý, mỗi tuần 2 lần, 3 tháng là một
liệu trình, dùng liền 3-4 liệu trình, mỗi liệu trình cách nhau 2 tuần, theo dõi
41 ca, kết quả 85,4%, kết quả tốt 56, l%, bệnh nhân ăn ngon, ngủ tốt, tinh
thần tốt, ít bị cảm, một số bệnh nhân tăng trọng, vết chàm ngoài da tiến bộ
rõ, hết hoặc giảm mồ hôi trộm (Trung Hoa Nhi Khoa Tạp Chí 1978, 2: 87).
+ Trị phế quản viêm mạn: Nhóm nghiên cứu phế quản viêm mạn tính
của Quân y viện số 5 thuộc Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
dùng bài thuốc: Hoàng kỳ 24g, Tuyền phúc hoa 10g, Bách bộ 10g, Địa long
6g, chế thành 54 viên thuốc, nặng 0,31g, mỗi lần uống 6 viên, ngày 3 lần, 10
ngày là một liệu trình, uống 3 liệu trình. Đã trị phế quản viêm mạn tính 254
ca, đạt kết quả 98 ca, khỏi lâm sàng (ổn định) 35,4 ca, tốt nhất đối với các
thể bệnh hư hàn, tỳ hư, đàm thấp và thận hư (Tân Trung Y Tạp Chí 1982, 2:
12).
+ Trị dạ dày loét, hành tá tràng loét: Tổ Tiêu hóa nội khoa bệnh viện
số 2 Tân Y Học Viện Giang Tô dùng tiêm bắp dịch Hoàng kỳ mỗi lần 2ml
(1ml tương đương 1g thuốc sống), ngày 2 lần, đã trị 18 ca dạ dày loét, 5 l ca
hành tá tràng loét, 4 ca loét hỗn hợp. Kết quả: sau 1 tuần dùng thuốc, các
triệu chứng chủ yếu đều giảm với mức độ khác nhau, kiểm tra X-quang sau
1 tháng 36 ca: có 13 ca hết ổ loét, có tiến bộ 15 ca, không kết quả 10 ca
(Giang Tô Y Dược Tạp Chí 1977, l: 20).
+ Trị dạ dày loét, hành tá tràng loét: Huệ Quang Hỷ dùng bài Hoàng
Kỳ Kiến Trung Thang Gia Giảm trị 43 ca dạ dày hành tá tràng viêm loét::
Hoàng kỳ 12g, Bạch thược 12g, Cam thảo 5g, Quế chi 10g, Sinh khưong 3g,
Đại táo 5 quả, Đường phèn 30g, sắc nước, chia 2 lần uống, tùy chứng gia
giảm, tất cả bệnh nhân đều được chụp X-quang trước và sau uống thuốc. Kết
quả sau thời gian dùng thuốc từ 25 đến 53 ngày, 22 ca khỏi, 17 ca tiến bộ, 4
ca không kết quả, tỷ lệ có kết quả 90,7% (Hồ Nam Y Dược Tạp Chí 1977, 2:
35).
+ Trị bệnh gan mạn tính: Ngô Khai Chi dùng dịch tiêm Hoàng kỳ 4ml
(1ml có 1g thuốc sống) tiêm bắp ngày 1 lần, có cho thêm một số Vitamin
bảo vệ gan, trị viêm gan mạn 29 ca, liệu trình từ 1 đến 3 tháng, có kết quả
cải thiện triệu chứng lâm sàng và gan nhỏ lại (Triết Giang Trung Y Tạp Chí
1983, 3: !03).
+ Trị bệnh gan mạn tính: Hậu Thế Vinh và cộng sự dùng dịch tiêm
Sâm Kỳ mỗi 1ần tiêm bắp 4ml (mỗi ml có 2g thuốc sống) Hoàng kỳ, 1g Đan
sâm, ngày l lần, mỗi tuần tiêm 6 lần, một liệu trình 3 tháng. Đã trị 112 ca
trong đó có 58 ca chỉ dùng thuốc này và phối hợp Vitamin, kết quả trước
mắt 83% thuốc có tác dụng tốt hơn đối với viêm gan kéo dàl, tỉ lệ kết quả
89,5% có triệu chứng cải thiện và chức năng gan hồi phục tốt (Trung Thảo
Dược 1980, 12: 551).
+ Trị bệnh gan mạn tính: Mạnh Tiên đã dùng 100% dịch tiêm Hoàng
kỳ tiêm vào huyệt Túc tam lý (2 bên), Thận du (2 bên), mỗi 3 ngày thay
nhau tiêm 1 lần, mỗi 1ần 1ml, 2 tháng là một iệu trình. Một số bệnh nhân
được tiêm thêm 1ml dịch Đảng sâm và cho thuốc bảo vệ gan. Đã trị 114 ca
HbsAg dương tính, số bệnh nhân chuyển âm tính và tiến bộ 13 1 ca, tỷ lệ
75,3% (Cát Lâm Trung Y Duợc Tạp Chí 1985, 5: 24).
+ Trị nhũn não: Trương Học Văn và cộng sự dùng ‘Thông Mạch Sơ
Lạc Dịch’ (Hoàng kỳ, Đơn sâm, Xuyên khung, Xích thưực) 250ml truyền
tĩnh mạch mỗi ngày, 10 ngày là một liệu trình, nghỉ 4 ngày, tiếp tục liệu
trình hai, đồng thời mỗi ngày sắc uống bài Thông Mạch (Hoàng kỳ, Hồng
hoa, Xuyên khung, Đơn sâm, Sơn tra, Ngưu tất, Địa long, Quế chi). Trị 110
ca nhũn não, khỏi 52 ca, kết quả tốt 36 ca, tiến bộ 20 ca, tỉ lệ kết qủa
98,2%((Tân Trung Y Tạp Chí 1982, 3: 37).
+ Trị bệnh tim mạch: Tổ nghiên cứu bệnh mạch vành bệnh viện Phụ
Ngoại thuộc Viện Khoa Học Y Học Trung Quốc dùng bài thuốc: Hoàng kỳ
30g, Xích thược, Đan sâm mỗi thứ 15g, Đương qui 12g, Xuyên khung IOg,
mỗi ngày 1 thang, sắc uống, một liệu trình 4-6 tuần, kết hợp thuốc Tây điều
trị triệu chứng, trị 98 ca nhồi máu cơ tim cấp thể khí hư, huyết ứ, kết quả 90
ca hồi phục, 8 ca tử vong. So với Tổ chỉ dùng Tây y 15 1 ca, hồi phục 101
ca, tử vong 44 ca (Trung Hoà Nội khoa Tạp Chí 1976, 4: 216).
+ Trị chứng bạch cầu giảm: Phùng Vân Trung dùng bài: Hoàng kỳ
(sống) 30g, Điều sâm 15g, Tiểu hồng táo 20 quả, sắc uống, trị chứng bạch
cầu giảm do Dibazol 14 ca có kết quả tốt (Vân Nam Trung Y Tạp Chí 1980,
2: 28).
+ Trị bệnh thận: Tổ nghiên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 43_1368.pdf