Xuất xứ:
Bản Kinh.
Tên gọi:
1- Hoàng là vàng, cầm là kiềm (màu vàng sẫm). Vị thuốc có màu
vàng sẫm nên gọi là Hoàng cầm (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
2- Khi phơi khô ruột xốp nhẹ, nên gọi tên Nội hư, Khô trường, Hủ
trường, Khôcầm (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Tên Hán Việt khác:
Hủ trường (Bản Kinh), Không trường, Túc cầm (Biệt Lục), Hoàng
văn, Kinh cầm, Đỗ phụ, Nội hư, Ấn dầu lục (Ngô Phổ Bản Thảo), Khổ đốc
bưu (Ký Sự), Đồn vĩ cầm, Thử vĩ cầm (Đường Bản Thảo), Điều cầm (Bản
Thảo Cương Mục), Khô cầm, Bắc cầm, Phiến cầm, Khô trường, Lý hủ thảo,
Giang cốc thụ, Lý hủ cân thảo (Hòa Hán Dược Khảo), Điều cầm, Tử cầm,
Đạm tử cầm, Đạm hoàng cầm, Tửu cầm, Đông cầm, Hoàng kim trà, Lạn tâm
hoàng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
19 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Dược học hoàng cầm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DƯỢC HỌC
HOÀNG CẦM
Xuất xứ:
Bản Kinh.
Tên gọi:
1- Hoàng là vàng, cầm là kiềm (màu vàng sẫm). Vị thuốc có màu
vàng sẫm nên gọi là Hoàng cầm (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
2- Khi phơi khô ruột xốp nhẹ, nên gọi tên Nội hư, Khô trường, Hủ
trường, Khô cầm (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Tên Hán Việt khác:
Hủ trường (Bản Kinh), Không trường, Túc cầm (Biệt Lục), Hoàng
văn, Kinh cầm, Đỗ phụ, Nội hư, Ấn dầu lục (Ngô Phổ Bản Thảo), Khổ đốc
bưu (Ký Sự), Đồn vĩ cầm, Thử vĩ cầm (Đường Bản Thảo), Điều cầm (Bản
Thảo Cương Mục), Khô cầm, Bắc cầm, Phiến cầm, Khô trường, Lý hủ thảo,
Giang cốc thụ, Lý hủ cân thảo (Hòa Hán Dược Khảo), Điều cầm, Tử cầm,
Đạm tử cầm, Đạm hoàng cầm, Tửu cầm, Đông cầm, Hoàng kim trà, Lạn tâm
hoàng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Tên khoa học:
Scutellaria baicalensis Georgi (Scutellaria macratha Fisch).
Họ khoa học:
Họ Hoa Môi (Lamiaceae).
Mô tả:
Cây thảo sống dai, cao 30-60cm, có thể tới 50cm, có rễ hình to thành
hình chùy, vỏ ngoài màu đen. Thân mọc đứng hình 4 cạnh, phân nhánh ở
gốc. Lá mọc đối cuống rất ngắn hoặc có cuống, cuống lá hình mác hẹp gợn
sóng, đầu hơi tù, dài 1,5-3cm, rộng 2-7mm, lá nguyên. Hoa mọc thành bông
ở đầu cành nằm về một bên, màu lam tím, tràng hoa gồm 2 môi 4 nhị, 2 nhị
lớn dài hơn tràng, màu vàng, bầu có 4 ngăn.
Địa lý:
Cây này nước ta không có hiện phải nhập của Trung Quốc. Cây
thường sống ở vùng cao nguyên đất vàng, sườn núi về hướng mặt trời mọc,
nơi khô ráo. Có nhiều ở Thiểm Tây, Diên An. Phân bố nhiều ở các tỉnh vùng
Bắc và Tây Nam Trung Quốc.
Thu hái, sơ chế:
Thu hái vào mùa xuân thu rửa sạch đất cát phơi khô sơ cạo bỏ vỏ thô
rồi phơi tiếp.
Phần dùng làm thuốc:
Rễ (Radix Scutellariae). Loại bên trong cứng đầy chắc mịn ngoài màu
vàng trong xanh, thịt đầy rỗng ruột ít là loại tốt, loại thô hoặc nhỏ không
đều, lõi có khe bộng màu đen là loại xấu, loại sau khi gặp ẩm biến thành
màu đen thì không dùng làm thuốc.
Mô tả dược liệu:
Rễ khô hình trụ tròn hoặc hình chùm xoắn, ở đỉnh hơi khô, nhỏ dần về
phía dưới, cong, dài chừng 12cm-16cm, đoạn trên thô khoảng 24-25mm
hoặc hơn 35mm. Mặt ngoài màu nâu vàng, phần trên hơi sần sùi có những
đường nhăn dọc, xoắn hoặc có những vân hình mạng, phía dưới ít sần sùi, có
đường nhăn nhỏ hơn. Phần trên và phần dưới đều có vết tích của rễ con, bên
trong có màu vàng lục, chính giữa rỗng ruột, màu nâu vàng. Rễ gìa phần lớn
rỗng ruột, bên trong có màu đen nâu, gọi là Khô cầm hay Phiến cầm. Rễ
mới, bên trong đầy ruột gọi là Tử cầm hoặc Điều cầm (Dược Tài Học).
Bào chế:
1- Hoàng cầm dùng rượu sao thì khí nó đi lên, sao với nước tiểu thì
khí nó đi xuống, sao với nước mật Lợn thì tả hỏa ở can đởm. Chữa những
chứng nóng thường thì dùng sống (Bản Thảo Cương Mục).
2- Thứ Khô cầm (có tác dụng tả phế hỏa), làm tiêu khí nóng ở da thịt)
thì bỏ đầu, bỏ ruột đen rửa sạch, ủ kín một đêm cho mềm, bào mỏng, 1-2 ly.
Phơi khô dùng sống. Sau khi phơi khô tẩm rượu 2 giờ sao qua (cách này
thường dùng) (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
3- Hấp chín bào mỏng phơi khô, dùng sống, sao với rượu, sao với
Muối, sao với nước Gừng, sao với mật Heo tùy theo phái của Thầy thuốc.
4- Trị bệnh ở phần trên thì sao với rượu. Tả hỏa ở Can, Đởm thì sao
với nước mật heo (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Bảo quản:
Để nơi khô táo, tránh ẩm vì dễ mốc, để lâu bị mọt ăn.
Thành phần hóa học:
+ Baicalei, Baicalin, Wogonin, Wogonoside, Neobaicalein, b-
Sitosterol, Benzoic acid (Trung Dược Học).
+ Baicalein, Neo Baicalein skullcapflavone, Baicalin, Wogonin,
Wogonoside (Vieenj Nghiên Cứu Trung Y, Trung Hoa Y Học Tạp Chí
1973, 7: 417).
+ Oroxylin Oroxylin A, Methoxylbaicalei Popova T P và cộng sự, A
A, 1975, 82: 28553z).
+ Skullcapflavone (Chương Hộ Đạo Phu, Dược Học Tạp Chí [Nhật
Bản] 1975, 95 (1): 108).
+ Dihydrooroxylin A, Chrysin, 2’,5,8-Trihydroxy-7-Methoxyflavone,
2’, 5, 8-Trihydroxy-6,7-Dimethoxyflavone, 4’5, 7-Trihydroxy-6-
Methoxyflavanone Cao Mộc tu Cáo, Dược Học Tạp Chí [Nhật Bản] 1980,
100 (12): 1220).
Tác dụng dược lý:
. Tác dụng miễn dịch: Tác dụng chống dị ứng của Baicalein liên hệ
đến sự ức chế khả năng giải phóng enzym ra khỏi các tế bào, có lẽ do thủ
thể ức chế. Tác dụng ngăn ngừa dị ứng này làm cho cơ dãn rathuốc có tác
dụng đối với da của heo được gây dị ứng và chất Histamin. Chất Baicalein
và Baicalin có tác dụng gĩan phế quản đối với tiểu phế quản của heo bị gây
dị ứng suyễn. Cả hai chất này có tác dụng ức chế phù co thắt và giảm tính
thẩm thấu mao mạch ở chuột. Chất Baicalin cũng ngăn ngừa phổi xuất huyết
ở chuột xuống mức thấp nhất (Chinese Herbal Medicine).
. Tác dụng kháng khuẩn: Hoàng cầm có kháng phổ rộng. Trong thí
nghiệm, nó có tác dụng ức chế đối với nhiều khuẩn bệnh gồm Tụ cầu vàng,
Ytực khuẩn bạch hầu, phế cầu khuẩn, não mô viêm Neisseria. Có báo cáo
cho thấy Tụ cầu khuẩn vàng kháng Peniciline lại rất nhậy ở trong Hoàng
cầm.. nhiều thí nghiệm báo cáo cho thấy thuốc có tác dụng kháng lại trực
khuẩn lao. Trong khi thuốc có dấu hiệu tốt đối với chuột thì lại không có tác
dụng đối với heo Hà Lan. Cho chuột bị nhiễm virus dùng Hoàng cầm, không
có dấu hiệu giảm tổn hại ở phổi và tăng thời gian sống hơn so với với nhóm
đối chứng. Trong thí nghiệm cũng thấy có tác dụng kháng lại với nấm da và
có khả năng diệt Leptospira (Chinese Herbal Medicine).
. Tác dụng điều hòa nhiệt độ: Từ năm 1935, có báo cáo cho biết rễ
Hoàng cầm có tác dụng hạ nhiệt (Chinese Herbal Medicine).
. Tác dụng đối với huyết áp: nước sắc, cồn chiết, dịch truyền, kể cả
nước và cồn trích Hoàng cầm đều có tác dụng hạ áp đối với chó, thỏ và mèo
được gây mê. Cho uống hoặc chích đều làm hạ áp đối với chó có huyết áp
bình thường hoặc huyết áp cao do thận. Một nghiên cứu về tác dụng hạ áp
cho thấy: chất trích từ loại cây ở Vân Nam có tác dụng mạnh nhất, kế đến là
loại của Hà Bắc, còn những chất trích từ phía Đông Bắc Trung Quốc thì yếu
nhất. Đa số các nghiên cứu cho thấy tác dụng giáng áp của Hoàng cầm tùy
thuộc vào tác dụng gĩan mạch (Chinese Herbal Medicine).
. Tác dụng lợi tiểu: Nước sắc Hoàng cầm có tác dụng lợi tiểu đối với
chó và người bình thường (Chinese Herbal Medicine).
. Tác dụng chuyển hóa lipid: Nước sắc hỗn hợp Hoàng cầm, Hoàng
liên và Đại hoàng không gây ảnh hưởng đối với Cholesterol/Phospholipid ở
thỏ bình thường nhưng làm hạ lipid nơi người thực hiện chế độ cao ăn kiêng
Cholesterol trong 7 tuần hoặc nơi người đã được trị bằng Thyroid (Chinese
Herbal Medicine).
. Tác dụng đối với mật: nước sắc hoặc cồn chiết xuất Hoàng cầm làm
tăng lượng mật ở chó và thỏ. Ảnh hưởng này do Baicalei mạnh hơn là
Baicalin. Thỏ bị thắt ống mật cho thấy Bilirubin tăng sau 1-6 giờ và giảm
trong khoảng 24-48 giờ so với nhóm đối chứng (Chinese Herbal Medicine).
+ Tác dụng đối với vết vị trường: Nước sắc và cồn chiết xuấtHoàng
câmg có tác dụng ức chế nhu động ruột. Cồn chiết xuất ức chế tác dụng của
chất Pilocarpin, tác dụng này không ảnh hưởng bởi thần kinh phế vị
(Chinese Herbal Medicine).
+ Tác dụng đối với hệ thần kinh trung ương: Chất Baiclin làm giảm sự
di chuyển và phản xạ của chuột (Chinese Herbal Medicine).
Tính vị:
+ Vị đắng, tính bình (Bản Kinh).
+ Tính rất hàn, không độc (Biệt Lục).
+ Vị đắng, ngọt (Dược Tính Luận).
+ Vị đắng, tính hàn (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Vị đắng, tính lạnh (Trung Dược Học).
Quy kinh:
+ Vào kinh thủ Thiếu âm Tâm, thủ Thái âm Phế, túc Thái âm Tỳ, thủ
Thiếu dương Tam tiêu, túc Thiếu dương Đởm (Bản Thảo Cương Mục).
Vào kinh Phế, Đại trường, Bàng quang, Đởm (Lôi Công Bào Chích
Luận).
+ Vào kinh Tâm, Phế, Đại trường, Đởm (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Vào kinh Tâm, Phế, Can, Đởm, Đại trường (Trung Dược Học).
Tác dụng:
+ Tiết lợi, trục thủy, hạ huyết bế (Bản Kinh).
+ Tiêu cốc, lợi tiẻu trường, an tử huyết bế (Biệt Lục).
+ Tả thực hỏa, trừ thấp nhiệt, chỉ huyết, an thai (Trung Dược Đại Từ
Điển).
+ Thượng hành tả phế hỏa, hạ hành tả Bàng quang hỏa, thanh thai
nhiệt, trừ lục kinh thực hỏa thực nhiệt (Trấn Nam Bản Thảo).
+ Tả phế hỏa, thanh thấp nhiệt (Trung Dược Học).
Chủ trị:
+ Trị ho do Phế nhiệt, an thai, tiêu chảy, lỵ, bụng đau, hoàng đản, các
loại bệnh nhiệt, ung nhọt, mắt đỏ, mắt sưng đau (Đông Dược Học Thiết
Yếu).
+ Trị ho do phế nhiệt, nhiễm trùng đường hô hấp trên, tiêu chảy, kiết
lỵ do thấp nhiệt, nôn ra máu, chảy máu cam, tiêu ra máu, rong kinh, thai
động không yên (do nhiệt), huyết áp cao, thấp chẩn (Lâm Sàng Thường
Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Liều dùng: 12 – 20g
Kiêng kỵ:
+ Tỳ vị hư hàn không có thấp nhiệt, thực hỏa, phụ nữ thai hàn không
nên dùng (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Phế có hư nhiệt, tiêu chảy do hàn hoặc hạ tiêu có hàn: không dùng
(Trung Dược Học).
+ Ghét Hành sống, sợ Đơn sa, Mẫu đơn, Lê lô, được Sơn thù du, Long
cốt làm sứ rất tốt (Dược Đối).
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị mình nóng, miệng đắng, kiết lỵ, bụng đau, chất lưỡi hồng, mạch
Huyền Sác: Hoàng cầm 12g, Cam thảo, Thược dược, mỗi thứ 8g, Đại táo 3
trái. Sắc uống (Hoàng Cầm Thang – Thương Hàn Luận).
+ Trị huyết ra lai rai do nhiệt: Hoàng cầm 40g sắc uống nóng (Thiên
Kim Dực phương).
+ Trị nôn ra máu, chảy máu cam, lúc có lúc không, do tích nhiệt mà
gây ra: Hoàng cầm 40g, bỏ ruột đen, tán bột. Mỗi lần dùng 12g, sắc với một
chén nước còn 6 phân uống nóng (Hoàng Cầm Tán - Thánh Huệ phương).
+ Trị trẻ nhỏ giật mình kinh sợ, khóc đêm: Hoàng cầm, Nhân sâm,
đều 0,4g, tán bột. Mỗi lần uống một ít với nước sắc trúc diệp (Hoàng Cầm
Tán – Thánh Tế Tổng Lục).
+ Trị thương hàn, tiêu tích nhiệt, tả hỏa ở ngũ tạng: Đại hoàng, Hoàng
liên, Hoàng bá, các vị bằng nhau tán bột, chưng thành bánh, làm viên to
bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống20-30 viên với nước (Tam Bổ Hoàn –
Đan Khê Tâm Pháp).
+ Trị trong Phế có hỏa: Phiến cầm sao, tán bột, trộn nước làm thành
viên, to bằng hạt ngô đồng. Mỗi lần uống 20-30 viên với nước (Thanh Kim
Hoàn - Đan Khê Tâm Pháp).
+ Trị đầu đau ở đầu lông mày, phong nhiệt có đàm: Hoàng cầm ngâm
rượu, Bạch chỉ, 2 vị bằng nhau, tán bột. Mỗi lần uống 8g với nước trà (Đan
Khê Tâm Pháp).
+ Trị trẻ nhỏ giật mình kinh hoảng, khóc đêm: Hoàng cầm, Nhân
sâm, 2 vị bằng nhau, tán bột. Mỗi lần uống 4g với nước (Phổ Tế phương).
+ Trị gan nóng sinh mờ mắt, không kể người lớn hay trẻ con: Hoàng
cầm 40g, Đạm đậu xị 120g. Tán bột, mỗi lần dùng 12g, bọc trong gan heo,
chưng chín mà ăn, uống với nước nóng, ngày 2 lần. Kiêng rượu và Miến (Vệ
Sinh Gia Bảo).
+ Trị đầu đau thuộc Thiếu dương kinh hoặc Thái dương kinh, có thể ở
chính giữa hay một bên: Phiến cầm, ngâm mềm với rượu, phơi nắng, tán bột.
Mỗi lần uống 4g với rượu hoặc trà (Tiểu Thanh Không Cao - Lan Thất Bí
Tàng).
+ Trị nôn ra máu, chảy máu cam, rong kinh: Hoàng cầm 120g, sắc với
3 thăng nước, còn 1 thăng rưỡi, mỗi lần uống 4g, uống nóng(Thốt Bệnh Loại
phương).
+ Trị rong kinh, phụ nữ tuổi sau 49 (rối loạn tiền mãn tính): Điều cầm
tâm 80g, ngâm với nước giấm gạo 7 ngày, sao khô rồi tẩm tiếp, làm như vậy
cho được 7 lần, rồi tán bột. Hồ với giấm làm viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn.
Mỗi lần uống 70 viên, lúc đói với rượu nóng, ngày 2 lần (Cầm Tâm Hoàn -
Thụy Trúc Đường Kinh Nghiệm phương).
+ Trị rong kinh: Hoàng cầm tán bột, mỗi lần uống 4g với Rượu tích
lịch (dùng quả cân bằng Đồng đốt nóng rồi bỏ trong Rượu). Hứa Học Sĩ ghi
rằng, khi bị rong kinh dùng thuốc bổ huyết và cầm máu, nhưng bài này trị
dương thừa ở âm, cái gọi là trời nắng làm cho đất nóng, kinh nguyệt nóng
tràn ra ngoài cũng là vì lẽ đó (Bản Sự phương).
+ An thai, thanh nhiệt: Điều cầm, Bạch truật, 2 vị bằng nhau, sao, tán
bột, trộn với nước cơm làm viên, to bằng hạt Ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 50
viên với nước hoặc thêm Thần khúc. Hễ khi có thai muốn điều lý thì dùng
bài Tứ Vật bỏ Địa hoàng, thêm Bạch truật, Hoàng cầm, tán bột, uống luôn
rất tốt (Đan Khê Tâm Pháp).
+ Trị sau khi sinh huyết ra nhiều, uống nước không dứt: Hoàng cầm,
Mạch môn đông, các vị bằng nhau, sắc uống nóng (Dương Thị Gia Tàng).
+ Trị ra máu không cầm, tay chân lạnh ngắt muốn chết: lấy 8g Hoàng
cầm, sao rượu, tán bột, uống với rượu thì cầm (Quái Chứng Kỳ phương).
+ Trị đơn độc, hỏa độc: Hoàng cầm tán bột, trộn với nước đắp vào
(Mai Sư Tập Nghiệm).
+ Trị thấp nhiệt làm tiêu chảy, bụng đau: Hoàng cầm, Thược dược,
Hoàng liên, Chích cam thảo, Xa tiền tử, Phòng phong, Thăng ma (Trung
Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị bạch đới đau bụng: Hoàng cầm, Thược dược, Hoàng liên, Chích
cam thảo, Hoạt thạch, Thăng ma (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị ho nhiệt do đàm ủng tắc: Hoàng cầm 18g. Sắc uống (Lâm Sàng
Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị ho do phế nhiệt: Hoàng cầm, Liên kiều, Chi tử mỗi thứ 12g, Đại
hoàng, Hạnh nhân, Chỉ xác mỗi thứ 8g, Cát cánh, Bạc hà, Cam thảo, mỗi thứ
4g. Sắc uống (Hoàng Cầm Tả Phế Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung
Dược Thủ Sách).
+ Trị bụng đau do nhiệt lỵ, mót rặn: Hoàng cầm, Thược dược, mỗi
thứ 12g, Hoàng liên 4g, Hậu phác 6g, Quảng trần bì 6g, Mộc hương 3,2g,
Sắc uống (Gia Giảm Thược Dược Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung
Dược Thủ Sách).
+ Trị huyết nhiệt, thai động không yên: Hoàng cầm, Thược dược,
Bạch truật, mỗi thứ 12g, Đương quy 8g, Xuyên khung 4g. Sắc uống (Đương
Quy Tán - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
Tham khảo:
+ Theo kinh nghiệm riêng, dùng sống có tác dụng thanh nhiệt tả hỏa,
dùng sao có tác dụng cầm máu đồng thời có thể tránh được vị đắng lạnh tổn
thương tới Vị. Sao với Rượu có tác dụng tăng thêm sự thanh trừ hỏa nhiệt ở
vùng trên (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Hoàng cầm là thuốc của Phế kinh nó còn nhập vào kinh Túc thiếu
dương. Hoàng cầm được rượu thì khí chạy lên có khả năng thanh thấp nhiệt
ở thượng tiêu, được Sài hồ thì lui được khi nóng khi lạnh, trừ phong nhiệt,
thanh giải được cơ biểu, được Thược dược thì trị kiết lỵ, được Tang bạch bì
thì tả phế hỏa, được Bạch truật thì an thai. Cổ nhân có bài “Cầm Tâm Hoàn”
trị có kinh nhiều, băng huyết, rong kinh, trong đó Hoàng cầm có tác dụng
cầm máu, tuy nhiên chỉ có thể dùng trong chứng huyết nhiệt vọng hành (đi
bậy) (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Bài ‘Tam Hoàng Hoàn’, Tôn Tư Mạo trong sách ‘Thiên Kim
phương’ ghi rằng ông Tấu là Thái thú ở Ba Quận dùng bài Tam Hoàng Hoàn
gia giảm, trị đàn ông bị ngũ lao thất thương, tiêu khát, không sinh được da
thịt, phụ nữ bị đới hạ tay chân khi nóng khi lạnh, tả hỏa ở ngũ tạng. Trong 3
tháng mùa xuân, dùng Hoàng cầm 160g, Đại hoàng 120g, Hoàng liên 160g.
Trong 3 tháng mùa hè dùng Hoàng cầm 240g, Đại hoàng 40g, Hoàng liên 7
lượng. Trong 3 tháng mùa thu, dùng Hoàng cầm 240g, Đại hoàng 120g,
Hoàng liên 120g. Trong 3 tháng mùa đông, dùng Hoàng cầm 120g, Đại
hoàng 200g, Hoàng liên 80g. Ba vị này tùy theo thời tiết mà thay đổi. Tán
bột, trộn mật làm viên to bằng hạt đậu đen, uống ngày 3 lần, mỗi lần 5 viên
với nước cơm. Nếu chưa đỡ thì tăng thêm đến 7 viên, uống liên tục 1 tháng
thì bệnh đỡ, cấm ăn thịt Heo (Đồ Kinh Bản Thảo).
+ Mọi thứ Hoàng cầm đều là thuốc thanh hỏa vẫn có ý nghĩa thoái
nhiệt dưỡng âm, chứ không phải là thuốc giáng hỏa, phạt hỏa, nhưng thứ nhẹ
xốp thì đi lên mà thanh hỏa ở phía trên, loại rắn chắc thì đi xuống mà thanh
hỏa ở phần dưới. Vị Hoàng cầm là chủ dược bổ Vị, cũng như Bạch truật là
thuốc chính thức bổ Tỳ. Tôi đã bàn kỹ việc dùng thuốc ở tạng phủ. Đào Ẩn
Cư nói rằng: “Hoàng cầm hay chữa bệnh từ bụng đến tiểu trường”. Trọng
Cảnh nói: “Chứng thiếu dương đau bụng thì bỏ Hoàng cầm gia Bạch thược,
dưới tâm hồi hộp, tiểu không thông thì bỏ Hoàng cầm gia Phục linh, dường
như không nhất trí với Ẩn Cư, nhưng không biết chứng đau bụng cảm hàn,
tim hồi hộp mà tiểu tiện không lợi, mạch không Sác thì cấm dùng Hoàng
cầm, nếu chứng bụng đau do huyết nhiệt, phế nhiệt, tiểu tiện không lợi thì
không dùng sao được? Người biết xem sách, trước tiên phải tìm hiểu bệnh lý
mà không câu nệ vào lời văn của sách. Sách ‘Trực Chỉ’ ghi rằng, sức thoái
nhiệt của Sài hồ không bằng Hoàng cầm, vì không biết Hoàng cầm sở dĩ
thoái được nhiệt là do khí vị đắng, dễ phát tán, trị phần ngọn của hỏa [chữa
ngọn], còn Hoàng cầm sỡ dĩ thoái được nhiệt do tính vị hàn, hàn thì thắng
nhiệt, trừ được gốc của hỏa [trị gốc] (Dược Phẩm Vậng Yếu).
+ Loại Hủ trường cầm, bên trong rỗng mà nát, có tác dụng tả phế hỏa,
trị chứng khí nghịch ở thượng cách, dùng trị đờm nhiệt trong dạ dày và vàng
da do thấp nhiệt. Loại Túc cầm, bên trong khô mà rỗng, trị chứng phế có
đờm hỏa, thông lợi phần khí, trị phong thấp lưu hành, khi nóng khi lạnh, các
chứng đinh nhọt lở ngứa, nóng bỏng, dùng nó để nung mủ, và chữa tất cả
các chứng thực nhiệt, đờm nhiệt, tích huyết ở phần trên. Loại Điều cầm, bé,
chắc thẳng mà cứng, tả hỏa ở đại trường, trục thủy, tiêu thức ăn, cầm chứng
tiêu chảy do nhiệt, xổ máu mủ của kiết lỵ, mót rặn, trị âm thoái nhiệt. Loại
Tử cầm, nhỏ, chắc, tròn mà cứng, trừ nhiệt ở Bàng quang, giúp nguồn sinh
hóa, lợi tiểu trường, trị 5 chứng lâm, đau thắt ở tiểu trường, bế kinh, an thai
(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Hoàng cầm, Hoàng liên, Hoàng bá đều là thuốc đắng lạnh; nhưng
Hoàng liên chuyên về thanh tâm hỏa, Hoàng cầm chuyên về thanh phế nhiệt,
Hoàng bá lại chuyên về thanh thấp nhiệt ở hạ tiêu (Trung Dược Học Giảng
Nghĩa).
+ Rễ gìa của Hoàng cầm ở bên trong rỗng và khô, gọi là Khô câm
hoặc Phiến cầm, thể chất nhẹ, đi lên, chuyên tả hỏa ở thượng tiêu, chủ yếu
trị đờm nhiệt ở vùng ngực, ho, suyễn, vàng da. Rễ Hoàng cầm còn tươi mới
đào thì bên trong chắc, gọi là Tử cầm hoặc Điều cầm, thể chất nặng, chủ đi
xuống, chuyên tả hỏa ở hạ tiêu, đại trường, chủ yếu trị bụng dưới căng
trướng, tiêu ra máu, kiết lỵ (Đông Dược Học Thiết Yếu).
+ Hoàng cầm, Hoàng bá, Hoàng liên tuy đều có vị đắng, tính hàn, mầu
vàng, nhưng vị đắng của Hoàng cầm yếu hơn, tính hàn nhẹ hơn, công dụng
trừ nhiệt cũng kém hơn Hoàng bá và Hoàng liên (Đông Dược Học Thiết
Yếu).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 42_1134.pdf