Xuất xứ:
Bản Kinh.
Tên khác:
Xích phác, Hậu bì (Biệt Lục), Liệt phác (Nhật Hoa), Trùng bì (Quảng
Nhã), Đạm bá (Hòa Hán Dược Khảo), Xuyên hậu phác, Chế quyển phác, Tử
du phác, Chế xuyên phác, Chế tiểu phác, Dã phác, Tiểu xuyên phác, Ngoa
đồng phác, Thần phác, Xuyên phác ty, Tiền sơn phác (Trung Quốc Dược
Học Đại Từ Điển).
Tên khoa học:
Magnolia offinalis Rehd. et Wils. : Magnolia officinalis var. Biloba
Rehd. et Wils, Magnolia hypoleuca Sicb. et Zucc.
27 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1201 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Dược học hậu phác, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DƯỢC HỌC
HẬU PHÁC
Xuất xứ:
Bản Kinh.
Tên khác:
Xích phác, Hậu bì (Biệt Lục), Liệt phác (Nhật Hoa), Trùng bì (Quảng
Nhã), Đạm bá (Hòa Hán Dược Khảo), Xuyên hậu phác, Chế quyển phác, Tử
du phác, Chế xuyên phác, Chế tiểu phác, Dã phác, Tiểu xuyên phác, Ngoa
đồng phác, Thần phác, Xuyên phác ty, Tiền sơn phác (Trung Quốc Dược
Học Đại Từ Điển).
Tên khoa học:
Magnolia offinalis Rehd. et Wils. : Magnolia officinalis var. Biloba
Rehd. et Wils, Magnolia hypoleuca Sicb. et Zucc.
Họ khoa học:
Họ Mộc Lan (Magnoliaceae).
Mô tả:
Cây gỗ lớn, cao 6 - 15m, vỏ cây màu nâu tím, cành non có lông, bế
khổng hình tròn hoặc hình viên chùy. Lá mọc so le, nguyên, thuôn hình
trứng ngược, đầu lá h~i nhọn, dài 20 - 45cm, rộng 10 - 20cm, có mép
nguyên hoặc hơi lượn sóng, khi còn non có lông màu tro sau biến dần thành
màu trắng, trên gân lá có nhiều lông nhung, gân phụ có chừng 20 - 40 đôi.
Hoa mọc ở đầu cành, to, trắng thơm, đường kính có thể tới 15cm. Quả mọc
tập trung, thuôn hình trứng, dài độ 12cm, đường kính 6cm, trong có chứa 1 -
2 hạt.
Địa lý:
Mọc nơi ẩm thấp, đất tốt ở sườn núi. Có nhiều ở Hồ Bắc, Tứ Xuyên,
An Huy, Triết Giang, Vân Nam (Trung Ouốc). Cây này chưa thấy phát hiện
ở Việt Nam.
Thu hái, sơ chế:
Thu hái vỏ cây trên 20 năm vào tiết Lập thu tới Hạ chí, để cho nó ra
mồ hôi rồi phơi trong râm cho khô, cuộn thành ống hoặc cán cho thẳng.
Hoặc sau khi bóc vỏ, phơi nơi mát cho khô, nhúng vào nước sôi, rồi
lấy ra chất thành đống cho nước chảy hết, phơi khô, rồi lại hấp để cho vỏ
mềm, cuộn thành ống, phơi nơi mát cho khô.
Phần dùng làm thuốc:
Vỏ thân (Cortex Magnoliae). Thứ vỏ dầy mềm, màu nâu tía, thơm và
có nhiều dầu là tốt, đặc biệt thứ có đốm sáng (Kim tinh Hậu phác) là tốt hơn
cả
Mô tả dược liệu:
Vỏ thân cây khô biểu hiện dạng ống hặc nửa ống, có khi sau khi cắt
người ta ép phẳng, cô dạng hình bản, dài chừng 0,3m - 0,7m, dày 3,2 -
6,5mm, mặt ngoài biều hiện màu nâu tro hoặc mần nâu đậm, xù xì không
bằng phẳng, có đường nhăn không qui tắc, đồng thời thường có những khối
ban màu nâu đậm, mặt trong biểu hiện màu nâu tím hay đỏ nâu, tương đối
phẳng, có đường vân nhỏ, thẳng dọc. Mặt bề ngang màu nâu vàng hoặc nâu
đậm, không bằng phẳng, chất cứng, dễ gẫy dòn, mặt cắt ngang có vết dầu ở
lớp giữa, còn lớp trong có xơ gỗ, thớ sợi nhỏ. Có mùi thơm cay đặc biệt, vị
cay tê, hơi đắng. (Dược Tài Học).
Bào chế:
+ Rửa sạch nhanh, cạo bỏ vỏ thô, xắt lát mỏng 2 - 3 ly, tẩm nước sữa
tô (cứ 1 cân Hậu phác thì sao với 4 lượng sữa tô), sao chín để dùng trong
hoàn tán. Nếu dùng trong thuốc thang để uống thì dùng nước cốt gừng (cứ 1
cân Hậu phác thì sao với 8 lượng nước gừng) cho khô (Lôi Công Bào Chích
Luận).
+ Cạo bỏ vỏ thô, rửa qua, lấy 2 vị Gừng sống, Tô diệp trộn vào, nấu
chín rồi bỏ Gừng và Tô diệp đi, cắt phiến, phơi trong râm cho khô để dùng
(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
Bảo quản:
Đậy kín, để nơi khô ráo, vì dễ mốc. Tránh nóng vì dễ mất tinh dầu
thơm.
Thành phần hóa học:
+ Magnolol, Honokiol, Obovatol, 6’-O-Methylhonokiol,
Magnaldehyde B, C, Randainal, Dipiperityl Magnonol, Piperitylhonokiol,
Bornymagnolol, Randiol, Magnatriol B (Yahara S và cộng sự, Chem Pharm
Bull, 1991, 39 (8) : 2024).
+ Magnocurarine, Salici Foline (Thôi Kiến Phương, Dược Học Học
Báo 1988, 23 (5) : 383).
+ b -Eudesmol 17,4%, Cadinol 14,6%, Guaiol 8,7%, Cymene 7,8%,
1,4-Cineol 5,6%, Caryophellen 5%, Linalool 4,6%, a -Terpineol 4,5%,
Globulol 3,1%, a -Humulene 3,9%, 4-Terpineol 3,4% (Q L Pu và cộng sự,
Planta Med, 1990, 56 (1) : 129).
Tác dụng dược lý:
. Chất Magnolol (thành phần Phenol của Hậu phác) có tác dụng phòng
ngừa loét dạ dày trên thực nghiệm, có tác dụng ức chế Histamin gây co thắt
tá tràng, ức chế dạ dày tiết dịch (Trung Dược Học).
. Thuốc sắc Hậu phác có tác dụng kích thích ruột cô lập của chuột và
chuột Hà lan. Thuốc cũng có tác dụng hưng phấn cơ trơn khí quản (Trung
Dược Học).
. Chất kiềm Hậu phác và hoa Hậu phác có tác dụng hạ huyết áp
(Trung Dược Học).
. Nước sắc thuốc có tác dụng kháng khuẩn rộng: trên thực nghiệm in
vitro, thuốc có tác dụng ức chế tụ cầu vàng, liên cầu khuẩn phổi, liên cầu
khuẩn tán huyết, tnực khuẩn lỵ ( Shigella sonnei ) và những nấm gây bệnh
thường gặp (Trung Dược Học).
+ Giảm đầy hơi lúc châm tê cắt tử cung: Tác gỉa cho 36 bệnh nhân
uống bột Hậu phác trước phẫu thuật, kết qủa lúc rạch phúc mạc, đại trường
không phình, một số ít hơi đầy, dùng tay đẩy nhẹ là được. So với 163 ca
không cho uống Hậu phác tốt hơn rất rõ, ( Báo Cáo Của Bệnh Viện Phụ Sản
Trực Thuộc Học Viện Y Học Thượng Hải số I, Tạp Chí Tân Y).
Tính vị:
+ Vị đắng, tính ôn (Bản Kinh).
+ Vị cay, ôn, tính đại nhiệt (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Vị rất nóng, không độc (Biệt Lục).
+ Vị đắng, cay, tính ấm (Trung Dược Học).
+ Vị cay, tính ôn (Trung Dược Đại Từ Điển).
Quy kinh:
+ Vào kinh Tỳ, Vị (Lôi Công Bào Chích Luận).
+ Vào kinh túc Thái âm Tỳ, thủ Dương minh Đại trường, túc Dương
minh Vị (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Vào kinh túc Quyết âm Can, thủ Thiếu âm Tâm (Bản Thảo Kinh
Giải).
+ Vào kinh Tỳ, Vị, Đại trường (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Vào 3 kinh Tỳ Vị, Đại trường (Lâm Sàng Thường Dụng Trung
Dược Thủ Sách).
Tác dụng:
+ Ôn trung, ích khí, tiêu đờm, hạ khí (Biệt Lục).
+ Trừ đờm ẩm, khứ kết thủy, phá súc huyết, tiêu hóa thủy cốc, chỉ
thống (Dược Tính Luận).
+ Ôn trung, hạ khí, táo thấp, tiêu đờm (Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Tả nhiệt, tán mãn, ôn trung (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược
Thủ Sách).
Chủ trị:
+ Hậu phác trị phế khí đầy tức mà ho suyễn: (Thang Dịch Bản Thảo).
+ Trị bụng đầy, bụng đau, ngực đầy tức, ngực đau, nôn mửa, ăn vào là
nôn ra, đờm ẩm, suyễn, ho, tiêu chảy do hàn thấp, kiết lỵ do hàn thấp (Trung
Dược Đại Từ Điển).
Liều dùng: 6 – 20g.
Kiêng kỵ:
+ Tỳ Vi hư nhược, chân nguyên bất túc: cấm dùng. Phụ nữ có thai
uống vào tổn thương nhiều tới thai khí (Trung Quốc Dược Học Đại Từ
Điển).
+ Ghét Trạch tả, Tiêu thạch, Hàn thủy thạch (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Kỵ đậu, ăn đậu vào thì khí động (Dược Tính Luận).
+ Can Khương làm sứ cho Hậu phác (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị bụng đầy mà mạch đi Sác: Hậu phác nửa cân, Chỉ thực 5 trái,
dùng 1 đấu 2 thăng nước, sắc còn 5 thăng, thêm vào 120g Đại hoàng, lại sắc
còn 3 thăng, uống nóng 1 thăng, thấy bụng sôi là tốt. Nấu uống nước đầu mà
không thấy sôi chuyển thì đừng uống tiếp (Hậu Phác Tam Vật Thang - Kim
Quỹ Yếu Lược).
+ Trị trường vị thực nhiệt, khí trệ, trướng mãn, táo bón: Hậu phác
12g, Chỉ xác 8g, Đại hoàng 12g. Sắc uống (Hậu Phác Tam Vật Thang – Kim
Quỹ Yếu Lược).
+ Trị thổ tả, bụng đau: Hậu phác sao với nước cốt gừng, tán bột. Mỗi
lần uống 8g vớí nước mới múc ở giếng lên (Thánh Huệ phương).
+ Trị đàm ủng, nôn khan, ngực đầy tức, ăn không xuống: Hậu phác
40g, sao với Sinh khương, tán bột. Mỗi lần uống 8g với nước cơm (Thánh
Huệ phương).
+ Trị bụng đau, bụng trướng, bụng đầy: Hậu phác nửa cân, Cam thảo,
Đại hoàng, mỗi thứ 120g, Táo 10 trái, Chỉ thực 5 trái, Quế 60g, Sinh khương
150g, sắc với 1 đấu nước còn 4 thăng, chia làm 3 lần, uống nóng trong ngày.
Nếu có nôn mủa thì thêm Bán hạ (Thất Vật Hậu Phác Thang – Cục phương).
+ Trị kinh nguyệt không thông: Hậu phác 120g, sao, xắt lát, sắc với 3
thăng nước còn 1 thăng, chia làm 2 lần, uống lúc đói. Không quá 3 thăng là
có hiệu quả (Mai Sư phương).
+ Trị kiết lỵ đi ra toàn xác thức ăn, lâu ngày không bớt: Hậu phác
120g, Hoàng liên 120g, sắc với 3 thăng nước còn 1 thăng, uống lúc đói (Mai
Sư phương).
+ Đại bổ Tỳ Vị suy nhược, ôn trung, giáng khí, hóa đàm, kích thích
tiêu hóa, trị nôn mửa, tiêu chảy: Hậu phác bỏ vỏ, Sinh khương để luôn cả vỏ,
xắt lát, sắc với 5 thăng nước cho cạn. Bỏ gừng đi, sấy khô Hậu phác, rồi lấy
160g Can khương, 80g Cam thảo, nước 5 thăng, sắc chung với Hậu phác cho
cạn. Bỏ Cam thảo đi, sấy khô gừng và Hậu phác, tán bột. Dùng Táo nhục,
Sinh khương đều sắc chín, bỏ gừng đi, lấy Táo quết nhuyễn, trộn thuốc bột
làm thành viên, to bằng hạt ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 50 viên với nước
cơm(Hậu Phác Tiễn Hoàn - Bách Nhất Tuyển phương).
+ Trị khí trướng, ngực đầy, ăn kém, lúc nóng lúc lạnh, bệnh lâu ngày
không bớt: Hậu phác sao với nước cốt gừng, tán bột. Mỗi lần uống 8g với
nước gạo lâu năm, ngày uống 3 lần (Đẩu Môn phương).
+ Trị bụng đầy, tiêu chảy: Hậu phác, Can khương, 2 vị bằng nhau, tán
bột. Trộn với mật làm viên, to bằng hạt ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 50 viên
với nước cơm (Bảo Thi phương).
+ Trị trẻ nhỏ bị thổ tả, Vị hư kèm theo động kinh kéo đàm: Hậu phác
40g, sắc với nước Bán hạ 7 lần, ngâm với nước cốt gừng nửa ngày, phơi
khô. Mỗi lần lấy 4g ngâm với 3 thăng nước vo gạo một buổí, cho đến khi
khô thì thôi, nếu chưa khô thì sao cho khô, bỏ Hậu phác đi, chỉ dùng Bán hạ
mà thôi. Mỗi lần uống 2g hoặc 4g với nước sắc Bạc hà (Tử Phác Tán
phương).
+ Trị đại trường khô táo: Hậu phác sống (tán bột), ruột heo nấu nhừ,
trộn thuốc bột làm viên, to bằng hạt ngô đồng lớn. Mỗi lần uống 30 viên với
nước gừng (Thập Tiện Lương phương).
+ Trị Tâm Tỳ không điều hòa, đi tiểu ra chất đục: Hậu phác sao v6i
nước cốt gừng 40g, Bạch phục linh 4g, Rượu l chén, sắc uống nóng (Kinh
Nghiệm phương).
+ Trị bụng đầy do thương thực: Hậu phác, Trần bì, Chỉ xác, Mạch
nha, Sơn tra, Thào qủa, Sa nhân. Sao khô uống với nước (Trung Quốc Dược
Học Đại Từ Điển).
+ Trị tiêu chảy do thấp nhiệt: Hậu phác, Quất bì, Hoàng liên, Cam
thảo, Thương truật, Bạch truật, Cát căn. Sắc uống (Trung Quốc Dược Học
Đại Từ Điển).
+ Trị bạch đới giai đoạn đầu: Hậu phác, Binh lang, Mộc hương,
Hoàng liên, Hoạt thạch, Quất bì, Cam thảo, Bạch thược (Trung Quốc Dược
Học Đại Từ Điển).
+ Trị bụng đầy: Hậu phác, Bạch truật, Nhân sâm, Bạch thược, Phục
linh sắc uống (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị nôn mửa do Vị hàn: Hậu phác, Sinh khương, Quất bì, Hoắc
hương, Sa nhân, Bán hạ (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị tích khối lạnh cứng lâu năm trong người: Hậu phác, Tam lăng,
Bồng nga truật, Binh lang, Nbân sâm, Thanh bì (Trung Quốc Dược Học Đại
Từ Điển).
+ Trị ngực đầy do khí, kích thích cho ăn nhíều: Hậu phác, Thương
truật, Quất bì, Cam thảo, làm thuốc tán uống (Trung Quốc Dược Học Đại Từ
Điển).
+ Trị kinh nguyệt không thông: Hậu phác 120g, sao, xắt lát, thêm Đào
nhân, Hồng hoa, sắc với 3 thăng nước, còn 1 thăng, chia làm 2 lần, uống lúc
đói (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị Tỳ Vi hư hàn, khí trệ, trướng mãn: Hậu phác 8g, Sinh khương
8g, Bán hạ 12g, Cam thảo 8g, Đảng sâm 12g. Sắc uống (Hậu Phác Sinh
Khương Bán Hạ Cam Thảo Nhân Sâm Thang - Lâm Sàng Thường Dụng
Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị bụng đau do lạnh, bụng đầy tức không ăn được: Hậu phác 12g,
Trần bì 8g, Can khương 4g, Thảo đậu khấu 6g, Xích phục linh 12g, Mộc
hương 4g, Cam thảo 4g, Sinh khương, Đại táo, mỗi thứ 12g. Sắc uống (Hậu
Phác Ôn Trung Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị thấp đàm ủng phế, ngực đầy tức, ho suyễn, phế quản viêm mạn
tính: Hậu phác 8g, Ma hoàng 4g, Thạch cao (sống) 20g, Hạnh nhân 12g, Bán
hạ 12g, Ngũ vị tử 4g, Can khương 3,2g, Tế tân 2g, Tiểu mạch 16g. Sắc uống
(Hậu Phác Ma Hoàng Thang).
+ Trị sợ gió, tự ra mồ hôi, ngực đầy, ho, suyễn: Quế chi, Bạch thược,
Sinh khương, Đại táo, Hậu phác, Hạnh nhân, mỗi thứ 12g, Cam thảo 4g, Sắc
uống (Quế Chi Gia Hậu Phác Hạnh Tử Thang - Lâm Sàng Thường Dụng
Trung Dược Thủ Sách).
Tham khảo:
+ Tất cả các chứng ẩm thực, đình tích, khí thủng, bạo trướng cùng
lãnh khí, nghịch khí, lãnh khí tích tụ lâu ngày, nhập vào bụng, ruột sôi kêu,
đàm ẩm, nôn ra đờm rãi, Vị lạnh, nôn mửa, bụng đau, têu chảy. Người Tỳ Vị
thực mà cảm phong hàn, người khí thực mà uống lầm Sâm, Kỳ gây nên
suyễn trướng, thì Hậu phác là thuốc cần dùng. Thuốc tính chuyên tiêu đạo,
tản mà không thu , không có tác dụng bổ ích (Bản Thảo Kinh Sơ).
+ Cùng dùng với Chỉ thực, Đại hoàng thì có tác dụng tả thực mãn, cho
nên bài ‘Đại Sài Hồ Thang’ có Hậu phác. Dùng với Thương truật, Trần bì thì
có tác dụng trừ thấp mãn, vì vậy, trong bài ‘Bình Vị Tán’ có Hậu phác cùng
dùng với Nhân sâm, Bạch truật trị hư mãn. Cùng dùng với Bán hạ, Đởm tinh
có tác dụng táo thấp, thanh đàm. Cùng dùng với Bạch truật, Cam thảo có tác
dụng hòa trung, kiện vị. Dùng với Chỉ xác, La bạc tử có tác dụng hạ khí,
thông trường. Dùng với Tía tô, Tiền hồ có tác dụng phát tán phong hàn.
Cùng dùng với Sơn tra, Chỉ thực có tác dụng sơ khí, tiêu thực. Cùng với Ngô
thù, Nhục quế có tác dụng hành thấp, táo âm. Đối với chứng thực, thuốc có
tác dụng lý khí, hành khí. Nhưng chứng khí thịnh, thuốc dùng không phảí là
không xem xét, mà đối với chứng hư nên ít dùng (Bản Thảo Hối Ngôn).
+ Hậu phác trị khí lạnh tích tụ lâu ngày, bụng sôi dạng hư, thức ăn cũ
không tiêu, làm tan nước đình đọng, phá huyết ứ, tiêu cơm nước, trị nôn ra
nước chua, làm ấm vị khí, trị đau do hàn, trị người bệnh hư yếu mà nước
tiểu trắng (Dược Tính Bản Thảo).
+ Hậu phác có tác dụng kiện tỳ, trị ăn vào nôn ra, chứng hoắc loạn,
chuột rút, khí lạnh nóng, tả bàng quang và tất cả bệnh khí ở ngũ tạng, bệnh
thai tiền sản hậu của đàn bà, vùng bụng không yên, diệt trùng giun trong
ruột, làm sáng mắt, thính tai, điều hòa các khớp (Nhật Hoa Chư Gia Bản
Thảo).
+ Hậu phác vị đắng, tính ấm, thể chất nặng mà giáng xuống, là thuốc
của Tỳ Vị. Ôn trung, hạ khí là công năng gốc của nó, kiện tỳ, tiêu đầy
trướng, tiêu đờm, cầm nôn mửa, tiêu thực, giảm đau, bồi thành ruột, lợi tiểu,
đều do tác dụng ôn trung vậy, lại có khả năng tả thực ở Vị, do đó đạt hiệu
quả trong khi dùng trong bài ‘Bình Vị Tán’, chứng đầy do hàn rất cần thiết,
là theo ý làm tan khối kết của nó vậy. Nhưng vì hành khí quá mạnh, nên
chứng hư không nên dùng quá nhiều (Bản Thảo Đồ Giải).
+ Hậu phác vị đắng, khí ấm. Ông Chân Quyền cho rằng Hặu phác vị
đắng, tính cay và rất nóng, phải nói là thuốc có vị cay, nóng, đắng, ấm. Vì
cay nóng thái quá thì tính nó phải có độc, lấy cái được nhờ dương khí mà
sửa chữa lại, nên không có độc. Cả khí lẫn vị đều nồng nặc là phần âm giáng
trong dương, vào kinh Túc thái âm, kinh thủ túc dương minh, nó chủ trị
chứng thương hàn trúng phong, đau đầu, nóng lạnh, cơ tê dại do khí huyết,
do ngoại tà phong hàn làm tổn thương ở phần dương thì thành chứng đau
đầu, nóng lạnh. Phong, hàn, thấp, vào phần tấu lý thì khí huyết ngưng trệ mà
thành chứng tý, nặng thì cơ nhục tê dại. Thuốc này vị cay nên tán được khối
kết, vị đắng nên táo được thắp, tính ấm nên đuổi được phong hàn, trị được
các chứng trên. Sách ‘Biệt Lục’ ghi rằng Hậu phác chủ về ôn trung, tiêu
đờm, hạ khí, trị hoắc loạn và bụng đau, bụng đầy, trong Vị bị hàn, nôn mửa
không cầm, chứng tiêu chảy, kiết lỵ, tâm phiền, bứt rứt, do trường vị khí
nghịch ủng trệ và đàm ẩm lưu kết, ăn uống thức ăn sống lạnh gây nên. Được
Hậu phác thì hạ tiết khai thông, ôn ấm tạng Thận, các chứng không cần hết
mà lại hết, còn như các chứng tiểu gắt, tuy thuộc bệnh ở hạ tiêu, nhưng
thường bởi vì có thấp nhiệt hạ chú, các loạí giun cũng do trường vị có thắp
nhiệt gây nên. Vị đắng có khả năng táo thấp, sát trùng, vì vậy, Hậu phác
cũng đều trị được. Trong sách ‘Bản Kinh’ lại ghi là Hậu phác chủ về tim hồi
hộp và sách ‘Biệt Lục’ ghi rằng Hậu phác trừ kinh sợ, khử lưu nhiệt, tất cả
đều không phải chứng thích nghi của Hậu phác. Chứng hồi hộp thuộc tâm
hư, không liên quan gì đến Tỳ Vị, Hậu phác có khí vị rất ấm lại có thể trừ
được lưu nhiệt sao? Còn về tác dụng ích khí, hậu trường vị cũng do ý là tà
khí bị trừ thì chính khí tự được bổ ích, tích trệ tiêu rồi thì trường vi tự được
bồi bổ vậy, không phải ngoài công năng tiêu tán lại có công năng bồ ích,
người dùng phải tỏ tường (Bản Thảo Kinh Sơ ).
+ Hậu phác vị cay, đắng, sách ghi là dùng chung với Chỉ thực, Đại
hoàng tức là bài Thừa Khí Thang thì làm tiết tả được chứng đầy tức. Dùng
cùng Thương truật, Quất bì tức là bài Bình Vị Tán, thì trừ được chứng thấp
đầy. Dùng cùng thuốc giải lợi thì chữa được chứng đau đầu trong bệnh
thương hàn. Dùng với thuốc tiêu xổ thì bồi bổ được trường vị. Đại khái là
khí cay thì tán nên hợp với chứng thấp, chứng mãn, vị đắng thì giáng nên xổ
được chứng đầy, cứng. Người đời nay không rõ, lầm cho là sách ghi Hậu
phác ôn trung, ích khí, hậu trường vị, thành thử bất kể hư chứng hay thực
chứng đều dùng cả. Không biết chứng thực thì khí có ích, hư chứng thì
không tồn chăng? Thực thì trường vị có thể hậu được, hư thì trường vị
không bạc chãng? Còn như cho rằng phá huyết, sát trùng cũng là khí hành
nên huyết tự thông, vị đắng là ý sát trùng. Hễ sách liệt kê công năng của
thuốc đều là rút từ khí vị của thuốc, không phải là ghi theo chủ trị riêng của
từng vị thuốc, đó là ý kiến riêng vậỵ. Phác tức là vỏ cây Tần, lấy loại dầy,
màu tím là loại tốt (Bản Thảo Cầu Chân).
+ Hậu phác khí ấm, bẩm thụ mộc khí đi lên, lúc mùa xuân, vào kinh
túc Quvết âm Can, vị đắng, không độc, được vị hỏa của đất phương Nam,
vào thủ Thiếu âm Tâm kinh, khí vị thăng nhiều hơn là giáng dương. Sách
‘Nạn Kinh’ ghi rằng: thương hàn có 5 loại, là trúng phong, thương hàn, thấp
ôn, nhiệt ôn, ôn bệnh vậy. Trúng phong, thương hàn là chứng trúng phong.
Phong khí thông với Can, mạch Can và mạch Đốc hội ở đỉnh đầu, phong bị
dương tà sở thương ở trên cho nên đau đầu, chủ trị cho chứng này là vị Hậu
phác vào Can, có tính ấm, làm tan vậy. Hàn nhiệt, hồi hộp là bệnh nóng lạnh
mà hồi hộp vậỵ. Tâm hư thì hồi hộp, Can hư thì kinh. Hậu phác khí ấm, có
thể đến Can, vị đắng có thể thanh Tâm. Can tàng huyết, Tâm sinh huyết,
huyết ngưng kết thì thành chứng tý (tê), vị đắng có thể tiết được, tính ấm có
tác dụng hành đi được, vì vậy trị chứng huyết tý cơ nhục tê dại, cũng vì
huyết chạy được mà bì mao không tê dại vậy. Vị đắ ng thì tiết được, tính ấm
thì hành được, vì vậy cũng chủ trị được.Giun là do thấp hóa ra, vị đắng thì
táo thấp, có thể sát trùng, cho nên khử được (Bản Thảo Kinh Giải).
+ Hậu phác khí ấm, bẩm mộc khí mà vào tạng Can, vị đắng, không
độc, được vị của hỏa mà vào Tâm, nhưng khí vị hậu mà chủ giáng, giáng thì
ấm mà chuvên về tan, đắng chuyên về tiết, nên sở chủ đều là thực chứng.
Chứng trúng phong, tiêu tiểu không thông, chứng thương hàn, suyễn, tiêu
chảy, bụng đầy tức, sau khi phát hãn, táo bón, đầu đau, trọc khí xông lên, tất
cả đều nên lấy Hậu phác làm chủ để trị. Còn như vị ấm thì tán được hàn, vị
đắng thì tiết nhiệt được, tán được, tiết được thì có thể giải được chứng lo sợ,
hồi hộp do khí nghịch gây nên. Tán được thì khí hành, tiết được thì huyết
hành, nên có thể trị được chứng huyết tý, cơ nhục tê dại. Giun vốn từ thấp
khí sinh ra, Hậu phác tán mà tiết được thì giun sán khử được, thông sướng
cái đầy tức hạ khí. Trong kinh văn không có văn tự ghi rõ, ông Trọng Cảnh
sử dụng vì vị đắng ấm của nó là ra ngoài kinh văn vậy (Bản Thảo Kinh
Độc).
+ Hậu phác có vị đắng, kèm có hơi ngọt, cho nên vào thẳng trung
châu tỳ thổ mà tán khí kết, vị đắng từ ấm, cho nên ở phần khí mà tan được.
HIễ bệnh bởi hàn thấp tà là rất đúng, còn bệnh bởí thấp nhiệt, có đắng hàn để
thanh nhiệt, táo thấp, mà mượn cái vị đắng tính ấm này nhằm tán kết của nó,
cũng thu được công hiệu. Về điều mà các tiên hiền dùng để trừ đầy tức làm
đầu, không nên lẫn lộn với chứng hư đầỵ tức mà không có tà. Nếu như là
hàn thấp thực tà, vốn theo chính trị của nó, tức là thấp nhiệt thành bệnh. Nếu
tích nhiệt do ãn uống những vị béo và ngoại cảm uất nhiệt, cũng là chứng
thực trướng. Trong thuốc đắng lạnh có thể mượn Hậu phác đề trừ đi, hoặc là
trong khí hư mà thấp nhiệt thì ắt phải xét hư thực, nặng nhẹ, càng phải xét
theo thời gian mới bị hoặc đã lâu để định công bổ nhiều hay ít, vị thuốc này
lại chưa có thể khử được, nếu vị thuốc đắng, hàn trừ tà quá nhiều, mà vị
thuốc kiện tỳ ít, dùng cái này tán kết thấp nhíệt thì e rằng vị đắng hàn công
thẳng không thể tán được, lại như vị thuốc đắng, ngọt, kiện tỳ nhiều mà
thuốc trừ nhiệt ít, dùng thuốc này bổ ích quá nhanh, e rằng vị ngọt mà bổ
không thể thu ngay được, suy từ nghĩa này, các chứng hễ dùng Hậu phác đều
toàn là như vậy cả (Bản Thảo Thuật Cầâu Nguyên).
+ Hậu phác trị tam dương biểu chứng, trúng phong, thương hàn, đầu
đau do nhiệt. Hậu phác không phải là thuốc trị phần biểu sao lại chỉ đưa ra
làm công năng hàng đầu. Hậu phác vốn không phải là thuốc giải biểu, chứng
sợ hãi, hồi hộp hoặc huyết tý cơ bắp tê dại, lại toàn là biểu chứng, theo ý của
sách ‘Bản Kinh’, vì Hậu phác chủ về thương hàn, trúng phong, đầu đau, hàn
nhiệt hoặc hồi hộp, kinh sợ, hoặc khí huyết tý (tê), cơ bắp tê dại. Lưu Tiền
Giang cho rằng cây cỏ mà bốn mùa không héo, hoặc được thuần âm; hoặc
được thuần dương, như Hậu phác thì được thuần dương, vì vậy lấy phần vỏ
cây sử dụng mà khí vị đắng caỵ, sắc đỏ sẫm, vỏ tím, đó là vì quy về hình
quy về khí vậy. Vị đắng hạ tiết được, nhưng đắng mà ấm thì không hạ tiết
mà làm ấm tan. Nếu đắng lạnh thì xổ thẳng như Chỉ thực là vậy, giúp sự sinh
hóa của khí ở trung châu Tỳ thổ, thuốc này tuy vị đắng, nhưng đắng xong có
cảm giác hơi ngọt, cho nên vào thẳng tỳ thổ, mà tan được khí kết, những lời
này là bằng chứng trị được chứng thương hàn, trúng phong gốc bởi Tỳ thổ.
Chứng thương hàn trúng phong biến hóa tuy nhiều, đại khái không vượt ra
ngoài tác dụng thương âm, thương dương, Thương âm thì táo chứng biến
hóa làm thành hồi hộp, sợ hãi. Thương dương thì thấp chứng biến hóa, biến
hóa thì thành khí huyết tý. Chứng hồi hộp, sợ hãi, thực ra gồm các chứng vật
vã, bứt rứt. Chứng khí huyết tý, thực ra bao gồm các chứng hậu đầy tức nôn
mửa, tiêu chảy. Giữa hai chứng hậu trên đều giống với biểu tà, biểu lấy lý
làm gốc mà tán biểu của nó, không xét đến phần lý thì cành lá đều không thể
phục sinh. Lý lấy biểu làm tiếp viện, mà thông phần lý, không xét phần biểu
thì ngoại tà nhân đó mà đi sâu hơn vào bên trong. Đấy, Hậu phác không trị
thương hàn trúng phong, mà thương hàn, trúng phong nội ngoại liên quan
nhau, ắt không thể thiếu vị Hậu phác được, vì vậy nên đưa vào làm đầu công
dụng là thế. Cơ bắp tê dại, trong sách Trọng Cảnh cho rằng như giun bò
trong da, không biết đau. Cảm giác như giun bò là chứng hậu, biểu khí hư đã
lâu ngày thì cảm giác không biết đau là chứng hậu dương khí bị uất kết, đây
là vấn đề cơ bắp bị tê dại. Nếu sử dụng trong các chứng không biết đau, thì
không còn nghi ngờ gì mà không dùng Hậu phác. Lưu Tiền Giang ghi rằng,
Chỉ thực vị đắng mà cay, đắng nhiều cay ít, trong đắng lại có ít chua, hễ
đắng chua thì có khả năng tiết khí, còn hàn thì có tính giáng xuống, do đó,
vốn tính đi xuống, nhân lúc thởi tiết giáng xuống đang thịnh, lấy cái âm
mạnh nhất, và nhanh nhất. Hậu phác lúc đầu nếm thì đắng, trong đắng có hơi
hơi ngọt, sau cùng có ý cay mà không phải cay, là cái thừa của đắng, ấm, tục
gọi là ma (tê) vậy. Nhưng Hậu phác từ đắng ấm để tán kết, không như
Chỉthực từ đắng hàn để tiết trệ. Khí lấy ấm nóng làm thăng, làm bổ, vì quá
đắng thì chuyển từ giáng tiết mà tiêu đạo. Vì vậy, chủ trị của Hậu phác phải
hợp với chứng hàn hoặc chứng thấp, chủ trị của Chỉ thực hợp với chứng
nhiệt hoặc chứng táo, mỗi vị thuốc tùy chứng mà sử dụng. Ngược lại, thì
Hậu phác dùng cho chứng kết táo nhiệt là mượn cách tòng trị mà đạt hiệu
quả. Nếu dùng lầm Chỉ thực cho chứng hàn thấp, tltì khí vốn hạ mà lại còn
bị giáng nữa, thì không chỉ không có ích mà còn có hại là đằng khác nữa
(Bản Kinh Sơ Chứng).
+ Công năng chủ yếu của Hậu phác là táo thấp, trừ trướng đầy. Trâu
Thụ cho rằng Hậu phác có vị đắng, có thể tiết xuống dưới, nhưng vị đắng từ
tính ôn ra thì không thể tiết xuống được, mà làm thành ôn tán, nếu đắng mà
từ' hàn ra, thì thẳng mà tiết xuống, giống như vị Chỉ thực vậy. Đối với việc
phân tích chức năng của Hậu phác và Chỉ thực, có thể coi như là đúng vậy.
Vì Hậu phác lấy việc tán đầy, trừ trướng để trị, còn vị Chỉ thực lấy việc tiêu
kết đạo trệ để mà dùng. Chính vì điều đó mà Trọng Cảnh dùng Hậu phác để
trị chứng trướng mãn. Như bài ‘Hậu Phác Tam Vật Thang’ trong sách ‘Kim
Quỹ Yếu Lược’ lấy vị Hậu phác làm quân, Đại hoàng, Chỉ thực làm tá, để trị
bụng trướng, táo bón, dựa vào chứng trướng làm trọng mà tích trệ làm nhẹ.
Trong sách Cục phương, bài ‘Bình Vị Tán’, dùng Hậu phác kết hợp với
Thương truật, Trần bì, Cam thảo, trị Tỳ Vị có thấp trệ, không thể vận hóa, là
hội chứng thấp nặng mà khí trệ nhẹ. Vì thế cho nên, bài trước dùng để trừ
trướng, tán mãn làm chủ, còn bài sau lấy táo thấp, vận lỳ để trị. Tuy sở trị
khác nhau nhưng tóm lại không ra khỏi công dụng ôn tán (Trung Dược Học
Giảng Nghĩa).
+ Hậu phác vị đắng, nếu không chế sao với gừng thì sẽ làm cay trong
lưởi họng (Bản Thảo Diễn Nghĩa).
+ Khi dùng vào thuốc, Hậu phác phải sao với nước cốt gừng hoặc tẩm
nước cốt gừng rồi sao (Nhật Hoa Chư Gia Bản Thảo).
Phân biệt: cùng một tên Hậu phác, nhưng cây trên là cây chính thức
để dùng với tên Hậu phác, hiện nay phải nhập của Trung Quốc. Ngoài ra cần
phân biệt với các thứ Hậu phác sau:
1- Thứ Hậu phác Magnolia Offi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72_9815.pdf