Mô tả:
Cây thảo cao cỡ 1-2m. Thân rễ mọc bò ngang, dài hình trụ, đường
kính tới 2 cm, màu đỏ nâu, phủ nhiều vẩy, chia thành nhiều đốt không đều
nhau, màu trắng nhạt. Lá không cuống, sáng bóng, hình mũi mác hẹp, hai
đầu nhọn, dài tới 40cm rộng tới hơn 2cm, bẹ lá dạng vẩy, lưỡi bẹ dạng vảy
nhọn. Cụm hoa hình chùy, mọc ở ngọn, thẳng có lông mềm, dài chừng
10cm. Hoa mọc sít nhau, có lá bắc nhỏ, đính trên những gờ nổi ngắn. Đài
hình ống, có lông, chia 3 răng ngắn. Tràng có ống ngắn có lông cả hai mặt,
có 3 thùy tù, lõm, thùy lưng lớn hơn. Bao phấn hình chữ nhật, nhẵn. Nhị lép
hình dùi ngắn và tù. Cánh môi trắng có rạch màu đỏ rượu vang, hình trái
soan. Bầu có lông. Nhụy lép 2, hình bản dày, gần như vuông. Quả hình cầu,
có lông. Cây có hoa từ tháng 11 đầu tháng 1.
12 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1447 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Dược học cao lương khương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DƯỢC HỌC
CAO LƯƠNG KHƯƠNG
Tên Việt Nam:
Riềng ấm, Riềng núi, Cao lương khương, Tiểu lương khương, Lương
khương.
Tên Hán Việt khác:
Man khương (Bản Thảo Cương Mục), Mai quang ô lược, Tỷ mục liên
lý hoa (Hòa Hán Dược Khảo), Tiểu lương khương (Trung Quốc Dược Học
Đại Từ Điển).
Tên khoa học:
Alpinia offcinarum Hace
Họ khoa học:
Zingberaceae.
Lịch sử:
(1) Vị này ban đầu có ở quận Cao Lương (Nay là Cao Châu), củ giống
như củ Gừng (khương) nên có tên là Cao lương khương.
(2) Nó ở trên núi cao mà hơi lạnh nên gọi là Cao lương (lương: lạnh).
Mô tả:
Cây thảo cao cỡ 1-2m. Thân rễ mọc bò ngang, dài hình trụ, đường
kính tới 2 cm, màu đỏ nâu, phủ nhiều vẩy, chia thành nhiều đốt không đều
nhau, màu trắng nhạt. Lá không cuống, sáng bóng, hình mũi mác hẹp, hai
đầu nhọn, dài tới 40cm rộng tới hơn 2cm, bẹ lá dạng vẩy, lưỡi bẹ dạng vảy
nhọn. Cụm hoa hình chùy, mọc ở ngọn, thẳng có lông mềm, dài chừng
10cm. Hoa mọc sít nhau, có lá bắc nhỏ, đính trên những gờ nổi ngắn. Đài
hình ống, có lông, chia 3 răng ngắn. Tràng có ống ngắn có lông cả hai mặt,
có 3 thùy tù, lõm, thùy lưng lớn hơn. Bao phấn hình chữ nhật, nhẵn. Nhị lép
hình dùi ngắn và tù. Cánh môi trắng có rạch màu đỏ rượu vang, hình trái
soan. Bầu có lông. Nhụy lép 2, hình bản dày, gần như vuông. Quả hình cầu,
có lông. Cây có hoa từ tháng 11 đầu tháng 1.
Phân biệt:
(1) Cần phân biệt với Cây Riềng Tàu, Lương khương (Aipinia
chinensis Rosc), là cây thảo cao cỡ 1m, thân rễ màu xám vàng, thơm. Lá
mọc 2 hàng, hình trái xoan, mũi mác, nhẵn cả hai mặt, dài tới 30cm, rộng
6cm, bẹ nhẵn, lưỡi bẹ lõm có hai thùy ngắn, tròn, cuống lá ngắn. Chùy hoa ở
ngọn mảnh, nhẵn, có các nhánh cách xa nhau, mang nhiều hoa, lá bắc dễ
rụng hoặc không có, lá bắc con màu trắng bao lấy đài hoa, cuống hoa nhẵn
hình sợi, hoa màu trắng. Đài hình ống, nhẵn có 3 răng. Tràng có ống thụt
vào mang các thùy thuôn, lõm. Bao phấn hình bầu dục, chỉ nhị dài gấp 3 lần,
cánh môi hình bầu dục, nhị lép hình dùi. Bầu hình bầu dục, nhẵn, nhụy kép
hình bản dày, thuôn, khía tai bèo ở ngọn. Quả mọng khô hình cầu, to bằng
hạt đậu Hà Lan, chứa 4 hạt. Có hoa vào mùa hạ. Cây mọc hoang ở một số
nơi trong nước ta. Củ dùng làm thuốc giúp sự tuần hoàn máu.
(2) Có khi dùng cây Riềng nếp, Đại cao lương khương (Alpinia
galanha Swarts) to cao hơn cây Riềng ấm, thân rễ màu hồng, ít thơm, nhưng
không tốt bằng loại trên. Cây mọc hoang ở miền núi và được trồng khắp nơi
trong nước ta. Cây được trồng bằng thân rễ vào mùa đông xuân. Mùa hoa
quả tháng 5-9, dùng thân rễ thu hái vào mùa đông xuân rồi phơi khô làm
thuốc kích thích tiêu hóa, đầy bụng, đau họng, tiêu lỏng. Dùng từ 2-3 chỉ sắc
hoặc tán bột uống tươi, có thể gĩa nhỏ ngâm nước muối và dịch chân. Phơi
khô dùng chữa ho, khát nước (Xem: Cao lương khương tử).
Địa lý:
Có khi trồng hoặc mọc hoang khắp nơi trong nước Việt Nam.
Thu hái:
Chọn thân rễ (củ) vào giữa tháng 2-3, phơi khô có thể thu hái quanh
năm.
Phần dùng làm thuốc:
Thân rễ.
Mô tả dược liệu:
Thân rễ riềng núi hình viên chùy, tẻ nhánh thô, khoảng 9-15mm. vỏ
ngoài màu nâu đỏ, có vòng ngang hình dợn sóng, hình thành bởi lá thoái
hóa, vùng đỉnh thường có vết thân, mặt hông và mặt bụng có vết rễ ít, chất
cứng bền khó gãy, mặt cắt màu vàng đỏ, chất xơ, hơi có mùi thơm đặc biệt.
Loại có mùi thơm nhẹ, không xốp. Từng đoạn khô, gìa màu vàng nâu, không
mốc một là tốt.
Bào chế:
Khi dùng Cao lương khương nên sao qua, cũng có khi dùng với Gừng,
Ngô thù du, đất vách hướng đông sao qua (Bản Thảo Cương Mục).
Thành phần hoá học:
+ Trong rễ có 0,5-1,5% tinh dầu. Thành phần có Methyl Cinnamate,
Eugenol, Pinene, Cadimene, Galangin, Kaempfende, Kaempferol, Quercetin,
Isorhamnetin, Galangol (Trung Dược Học).
+ Có tinh dầu mà thành phần chủ yếu là Cineol và Methylxinamta.
Ngoài ra còn có một chất dầu vị cay là Galangol, 3 chất kết tinh, đều là dẫn
chất của Flavonoid: Galangin, Anpinin và Kamferit (Dược Liệu Việt Nam).
Tác dụng dược lý:
+ Tác dụng kháng khuẩn:: nước sắc Cao lương khương in vỉto có tác
dụng ức chế nhiều loại vi khuẩn như trực khuẩn bạch hầu, liên cầu khuẩn
dung huyết, Anthrax bacillus, song cầu khuẩn viêm phổi, tụ cầu vàng, trực
khuẩn thương hàn, trực khuẩn lao (Trung Dược Học).
+ Nước sắc Cao lương khương có tác dụng hưng phấn ruột cô lập của
súc vật thí nghiệm, nồng độ cao lại có tác dụng ức chế. Dầu thơm Lương
khương có tác dụng kiện Vị (Trung Dược Học).
Tính vị:
+ Vị cay, tính ấm (Bản Thảo Thập Di).
+ Vị cay, tính ấm (Trung Dược Học).
+ Vị cay, tính rất ôn (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Quy kinh:
+ Vào kinh Tỳ, Vị (Lôi Công Bào Chế Dược Tính Giải).
+ Vào kinh Tỳ, Vị (Trung Dược Học).
+ Vào kinh Tỳ, Vị (Đông Dược Học Thiết Yếu).
Tác dụng:
Ôn Vị, tán hàn, chỉ thống, tiêu thực, dùng làm thuốc kiện Vị.
Chủ trị:
Đau dạ dày, nôn mửa do Tỳ Vị hư hàn.
Liều dùng:
Dùng từ 1-3 chỉ.
Kiêng kỵ:
Mửa do nhiệt thịnh, vị hỏa. Hoắc loạn do thương thử, ỉa chảy do hỏa
nhiệt đau do tim hư cấm dùng.
Sơ chế:
Đào thân rễ về rửa sạch cắt bỏ lá và rễ con, cắt từng đoạn 4-6cm, phơi
khô, (có khi đồ qua mới phơi khô). Khi dùng ngâm mềm, xắt lát phơi khô
dùng vào thuốc thang.
Cách dùng:
Trong trường hợp tỳ hư mà sốt rét dùng Cao lương khương sao với
dầu mè (Châu thị tập nghiệm phương).
Bảo quản:
Để nơi khô ráo, phơi nhẹđể khỏi mất tinh dầu.
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị hoắc loạn, trên thổ dưới tả, đau bụng do ác khí: Cao lương
khương nướng cho thơm, mỗi lần dùng 150g, sắc với 1 thăng rượu, chia làm
3-4 lần uống (Ngoại Đài Bí Yếu).
+ Trị hoắc loạn, nôn mửa không ngừng: Cao lương khương sống 6g,
gĩa nát, Đại táo 1 trái, sắc uống nguội (Băng Hồ Thang - Phổ Tế Phương).
+ Trị Tâm Tỳ đau do hàn: Cao lương khương 30g, gĩa nát, vắt lấy
cốt, sắc với 3 chén nước lớn, còn 2 chén rưỡi, bỏ bã, thêm vào 1 chén gạo
nấu cháo ăn (Thánh Huệ Phương).
+ Trị Tâm Tỳ đau và các loại bị tổn thương vì độc: Cao lương
khương, Can khương 2 vị bằng nhau, ngâm, rửa, tán bột, trộn với hồ bột
miến, làm viên to bằng hạt ngô đồng. Mỗi lần uống 50 viên với nước Quất
bì, sau khi ăn. Có thai cấm uống (Hòa Tễ Cục Phương).
+ Trị Tỳ Vị hư, hàn ngược, hàn nhiều nhiệt ít, ăn uống kém: Cao
lương khương sao với dầu mè, Gừng khô ngâm nước rửa, mỗi thứ 30g, rồi
tán bột. Mỗi lần lấy 15g, dùng mật heo trộn thành viên hoàn, khi cần uống
với rượu, mỗi lần 40 viên. Đại khái là hàn phát ra ở Đởm, dùng mật heo để
dẫn Can khương và Cao lương khương là Nhị khương nhập vào Đởm để khử
hàn mà táo Tỳ Vị. Một hàn một nhiệt, âm dương tương chế do đó mà có hiệu
quả. Có bài khác chỉ dùng Nhị khương (Can khương, Cao lương khương)
nửa sống nửa chín, sao đen, Xuyên sơn giáp (sao đen) 9g, tán bột, mỗi lần
dùng 6g nấu với thận heo, uống với rượu (Chu Thị Tập Nghiệm Phương).
+ Trị phù khi có thai, trước đó do thương hàn biến thành: Cao lương
khương 9g, tẩm với nước mật heo một đêm rồi sao đen với đất tường nhà,
xong bỏ đất đi, lấy 15 trái táo nhục lớn, sấy khô, tán bột, mỗi lần dùng 9g
với nước nóng, khi nào rét do thương hàn thì uống vào (Vĩnh Loại Kiềm
Phương).
+ Trị răng sưng đau: Lương khương 2 tấc ta, Toàn yết sấy khô 4g, tán
bột, xát vào, khi ra đờm dãi thì súc miệng và ngậm bằng nước muối (Bách
Nhất Tuyển Phương).
+ Trị nhức đầu: Cao lương khương sống, tán nhuyễn, thổi vào trong
lỗ mũi nhiều lần cho hắt hơi (Phổ Tế Phương).
+ Trị dạ dày đau do hàn: Cao lương khương, Hương phụ, các vị bằng
nhau tán bột, thêm nước Gừng, Muối làm thành viên, mỗi lần uống 3-6g,
ngày 2-3 lần, uống với nước (Lương Phụ Hoàn - Lương Phương Tập Dịch).
+ Trị đau nhức do loét dạ dày hay tá tràng, Cao lương khương 9g,
Ngũ linh chi 6g, tán bột, uống với nước đồng tiện và rượu - Cấm dùng trong
trường hợp xuất huyết tương đối nặng (Lâm Sàng Thường Dụng Trung
Dược Thủ Sách).
+ Trị đau quặn ngực bụng do cảm hàn: Cao lương khương 6g, Hậu
phác, Sinh khương, Đương quy đều 9g, Quế tâm 4,5g, sắc uống (Cao Lương
Khương Thang - Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị nôn mửa do Vị hàn: Cao lương khương 9g, sao qua, tán bột
uống với nước (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+ Trị nôn mửa do hư hàn: Lương khương, Phục linh, Đảng sâm đều
9g, sắc uống (Sổ Tay Trung Dược Lâm Sàng).
Tham khảo:
+ Cao lương khương trừ hàn thấp, ôn Tỳ Vị. Đối với người cao tuổi
Tỳ Thận hư hàn, tiêu chảy, kiết lỵ, tâm vị bạo thống, do khí nộ, do hàn đờm,
dùng Cao lương khương tính vị thuần dương, cay nóng để trị các chứng hàn
lạnh kinh niên, tác dụng giống như Quế, Phụ. Nếu hàn tà phạm Vị gây ra
nôn mửa, thương thực do ăn chất sống lạnh sinh hoắc loạn thổ tả, phải dùng
nhiều… Nếu trị Tỳ Vị hư hàn, cần phối hợp với Sâm, Kỳ, Bán hạ, Bạch truật
là tốt. Nếu dùng độc vị mà dùng nhiều, thuốc có tính cay nóng, tẩu tán sẽ
làm hao tổn trung khí" (Bản Thảo Hội Ngôn).
+ Can khương, Lương khương, Sinh khương, đều có tác dụng ôn
trung khử hàn. Nhưng Can khương chuyên về ôn Tỳ, chỉ tả, Lương khương
chuyên về ôn trung, chỉ thống, còn Sinh khương chuyên về ôn vị chỉ ẩu
(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Can khương đại nhiệt, thiên về hoá hàn tà ở Tỳ, trị tiêu chảy do Tỳ
hàn. Sinh khương cay nhiều hơn ôn, thiên về đi lên và đi ra phần biểu để khử
hàn tà ở ngoài, chống nôn mửa. Cao lương khương thì ôn nhiều hơn cay,
giỏi công ở bên trong, đi vào phần lý, thiên về tán hàn ở Vị, chỉ thống (Đông
Dược Học Thiết Yếu).
+ Cao lương khương và Can khương đều có vị cay, tính ấm, đều là
thuốc chủ yếu để ôn tán hàn tà ở trung tiêu. Cao lương khương thiên về trị
hàn ở Vị. Cao lương khương khác với Sinh khương ở chỗ Cao lương khương
ôn nhiều hơn tân, thiên về tẩu ở phần lý, tán hàn ở Vị, chỉ thống. Sinh
khương tân nặng hơn ôn, thiên về tẩu ở phần biểu, tân tán phong hàn mà hoà
Vị khí để chỉ ẩu (Thực Dụng Trung Y Học).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21_1602.pdf