Xuất Xứ:
Sách Bản Kinh.
-Tên Khác:
A giao nhân, A tỉnh giao, A tỉnh lư bì giao, Bồ hoàng sao A giao
(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), Bì giao, Bồn giao, Hiển minh bả, Ô
giao, Phó tri giao, Phú bồn giao (Hòa Hán Dược Khảo), Cáp sao a giao,
Châu a giao, Hắc lư bì giao, Sao a giao, Sao a giao châu, Thanh a giao,
Thượng a giao, Trần a giao (Đông Dược học Thiết Yếu), Lư bì giao (Thiên
Kim).
-Tên Khoa Học:
Colta Asini, Gelantinum Asini, Gelantina Nigra.
-Mô Tả: A giao là keo chế từ da con lừa (Equus Asinus L.). Thường
A giao được làm dưới dạng miếng keo hình chữ nhật, dài 6cm, rộng 4cm,
dầy 0,5cm, mầu nâu đen, bóng, nhẵn và cứng. Khi trời nóng thì mềm, dẻo,
trời khô thì dòn, dễ vỡ, trời ẩm thì hơi mềm. Mỗi miếng nặng khoảng 20g.
vết cắtnhẵn, mầu nâu đen hoặc đen, bóng, dính (Dược Tài Học).
20 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1105 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Dược học a giao, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DƯỢC HỌC
A GIAO
- Xuất Xứ:
Sách Bản Kinh.
- Tên Khác:
A giao nhân, A tỉnh giao, A tỉnh lư bì giao, Bồ hoàng sao A giao
(Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), Bì giao, Bồn giao, Hiển minh bả, Ô
giao, Phó tri giao, Phú bồn giao (Hòa Hán Dược Khảo), Cáp sao a giao,
Châu a giao, Hắc lư bì giao, Sao a giao, Sao a giao châu, Thanh a giao,
Thượng a giao, Trần a giao (Đông Dược học Thiết Yếu), Lư bì giao (Thiên
Kim).
- Tên Khoa Học:
Colta Asini, Gelantinum Asini, Gelantina Nigra.
- Mô Tả: A giao là keo chế từ da con lừa (Equus Asinus L.). Thường
A giao được làm dưới dạng miếng keo hình chữ nhật, dài 6cm, rộng 4cm,
dầy 0,5cm, mầu nâu đen, bóng, nhẵn và cứng. Khi trời nóng thì mềm, dẻo,
trời khô thì dòn, dễ vỡ, trời ẩm thì hơi mềm. Mỗi miếng nặng khoảng 20g.
vết cắt nhẵn, mầu nâu đen hoặc đen, bóng, dính (Dược Tài Học).
- Bào Chế:
a - Theo Trung Quốc.
* Chọn loại da gìa, dầy, lông đen. Vào mùa đông - xuân (khoảng
tháng 2 -3 hàng năm, lấy da lừa ngâm vào nước 2-5 ngày cho mềm ra rồi cạo
lông, cắt thành từng miếng mỏng (để nấu cho dễ tan) . Nấu 3 ngày 3 đêm,
lấy nước cũ ra, thay nước mới, làm như vậy 5-6 lần để lấy hết chất keo của
da lừa. Lọc qua rây bằng đồng có lỗ nhỏ rồi khuấy với nước lọc có ít phèn
chua, chờ vài giờ sau cho các tạp chất lắng xuống, gạn lấy 1 lớp nước trong
ở trên và cô đặc lại. Trước khi lấy ra chừng 2 giờ thì thêm đường và rượu
vào (cứ 600g da lừa thêm 4 lít rượu và 9kg đường), nửa giờ trước khi lấy ra
lại thêm dầu đậu nành cho đỡ dính (600kg thêm 1kg dầu). Đổ ra,để nguội,
cắt thành phiến dài 10cm, rộng 4-4.5cm, dầy 0.8 - 1.6cm (Trung Dược Đại
Từ Điển).
* Sao Với Cáp Phấn: Lấy chừng 1kg bột Cáp phấn cho vào chảo rang
cho nóng rồi bỏ các miếng A giao vào rang cho đến khi A giao nở dòn
không còn chỗ cứng nữa thì dùng rây ray bỏ bột Cáp phấn đi (Trung Dược
Đại Từ Điển).
* Sao Với Bồ Hoàng: Cho Bồ hoàng vào chảo, rang nóng rồi cho A
giao xắt mỏng vào, rang cho đến khi A giao nở dòn thì bỏ Bồ hoàng đi
(Trung Dược Đại Từ Điển).
* Ngâm với rượu hoặc nấu với nước cho tan ra (Đông Dược Học
Thiết Yếu).
b- Theo Việt Nam:
Lấy khăn vải sạch lau cho hết bẩn, thái nhỏ bằng hạt bắp, cho vào
chảo, sao với bột Cáp phấn hoặc Mẫu lệ (20%) cho phồng đều (Phương
Pháp Bào Chế Đông Dược).
- Thành Phần Hóa Học:
+ Trong A giao chủ yếu là chất keo (Collagen). Khi thủy phân
Collagen sẽ cho ra các Axit Amin bao gồm: Lysin 10%, Acginin 7%,
Histidin 2%, Xystin 2%, Glycin 2%. Lượng Nitơ toàn phần là 16.43 -
16.54% , Can xi 0.079 - 0,118%, Sunfua 1,10 - 2,31%, độ tro 0,75 - 1,09%
(Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Glycine, Proline, Glutamic acid, Alanine, Arginine, Asparíc acid,
Lysine, Phenylalanine, Serine, Histidine, Cysteine, Valine, Methionine,
Isoleucine, Leucine, Tyrosine, Trytophan, Hydroxyproline, Threonine (Lưu
Lương Sơ, Trung Thành Dược Nghiên Cứu 1983, (1): 36).
- Tác Dụng Dược Lý:
1+ Tác Dụng Tạo Máu: Rút máu của chó để gây thiếu máu rồi chia
làm 2 lô, 1 lô dùng A giao, 1 lô không dùng A giao. Lô dùng A giao: dùng
dung dịch A giao (30g/ 1 lít) rót vào bao tử chó. Sau đó xét nghiệm hồng
cầu và các yếu tố khác của máu thấy A giao làm tăng nhanh lượng hồng cầu
và các sắc tố của máu (Trung Dược Đại Từ Điển).
2+ Tác Dụng Đối Với Chứng Loạn Dưỡng Cơ Dần Dần: Cho chuột
bạch ăn theo 1 chế độ đặc biệt để gây loạn dưỡng cơ dần dần: nhẹ thì què,
nặng thì tê liệt không đi đứng được . Sau đó cho ăn dung dịch A giao thì sau
hơn 100 ngày, đa số các con vật hết các triệu chứng tê liệt (Trung Dược Đại
Từ Điển).
3- Tác Dụng Chống Choáng: Gây choáng đối với mèo rồi dùng dung
dịch A giao 5% thêm muối (để gây đẳng trương và kiềm hóa), lọc, nấu sôi
khoảng 30-40 phút, đợi nhiệt độ hạ xuống 38o thì tiêm từ từ vào tĩnh mạch
thấy huyết áp trở lại bình thường và con vật được cứu sống (Trung Dược
Đại Từ Điển).
4- Ảnh Hưởng Chuyển Hoá Đối Với Chất Canxi: Cho chó uống dung
dịch A giao đồng thời cho ăn Canxi Carbonat, thấy lượng Can xi trong huyết
thanh tăng cao. Cho uống dung dịch A giao khả năng đông máu không tăng
nhưng nếu tiêm dung dịch 5% A giao đã tiệt trùng thì khả năng đông máu
tăng (Trung Dược Đại Từ Điển).
5- Tác Dụng Chống Ngất: Tinh chất A giao chế thành dịch có tác
dụng chống chảy máu, ngất. Tiêm 5-6% dung dịch A giao (8ml/kg) có tác
dụng làm cho huyết áp thấp tăng lên (Trung Dược Dược Lý, Độc Lý Dữ
Lâm Sàng).
6- Tác dụngchuyển hóa tế bào Lympho: A giao có tác dụng chuyển
hóa tế bào Lympho. A giao dùng chung với bài Phúc Phương Nhân Sâm
Thanh Phế Thang có tác dụng nâng cao sự chuyển hóa tế bào Lympho nơi
người bị mụn nhọt sưng (Trung Dược Dược Lý, Độc Lý Dữ Lâm Sàng).
+ Tác dụng cầm máu: Có thể do tác dụng tăng Canxi máu, giữ được
sự cân bằng eủa Canxi (Trung Dược văn Kiện Trích Yếu 1965, (304) nhưng
chỉ với chảy máu nhẹ, không có tác dụng đối với chảy máu nặng (Trung
Dược Ứng Dụng Lâm Sàng).
+ A giao có tác dụng chuyển dạng Lympho bào đối với nguời khỏe
(Trung Dược Học)
+ Cho chó uống A giao làm cho Canxi huyết thanh tăng trên 10%
nhưng thời gian máu đông không thay đổi. Nếu tiêm dung dịch 5% A giao
đã tiệt trùng thì khả năng đông máu tăng (Trung Dược Học).
+ A giao cũng có tác dụng nhuận trường (Trung Dược Dược Lý, Độc
Lý Dữ Lâm Sàng).
- Tính Vị:
+ Vị ngọt, tính bình (Bản Kinh).
+Vị hơi ấm, không độc (Biệt Lục).
+Vị nhạt tính bình (Y Học Khải Nguyên) .
+ Vị ngọt, cay, tính bình (Thang Dịch Bản Thảo).
- Quy Kinh:
+Vào kinh Thủ Thái dương Tam tiêu, Túc Thiếu âm Thận và Túc
Quyết âm Can (Thang Dịch Bản Thảo).
+Vào kinh Thủ Thiếu âm Tâm, Túc Thiếu âm Thận và Túc Quyết
âm Can (Bản Thảo Hối Ngôn).
+ Vào kinh Can, Phế, Thận, Tâm (Bản Thảo Cầu Chân).
+Vào 3 kinh Can, Phế, Thận (Trung Dược Đại Từ Điển).
- Tác Dụng, Chủ Trị:
+ Ích khí, an thai.Trị lưng, bụng đau, tay chân đau nhức, lao nhọc gây
ra chứng giống như sốt rét, rong huyết, mất ngủ (Bản Kinh).
+ Dưỡng Can khí. Trị bụng dưới đau, hư lao, gầy ốm, âm khí không
đủ, chân đau không đứng được (Biệt Lục).
+ Làm mạnh gân xương, ích khí, chỉ lỵ (Dược Tính Luận).
+ Trị đại phong (Thiên Kim).
+ Tiêu tích.Trị các chứng phong độc, khớp xương đau nhức, giải độc
rượu
(Thực Liệu Bản Thảo).
+ Trị các chứng phong, mũi chảy nước, nôn ra máu, tiêu ra máu, lỵ ra
máu, băng trung, đới hạ (Nhật Hoa Tử Bản Thảo).
+ Hòa huyết, tư âm, trừ phong, nhuận táo, lợi tiểu tiện, điều đại
trường. Trị nôn ra máu, chảy máu cam, tiểu buốt, tiểu ra máu, tiêu ra máu,
lỵ, phụ nữ bị các chứng về huyết gây ra đau, huyết khô, kinh nguyệt không
đều, không có con, đới hạ, các chứng trước khi có thai và sau khi sinh, khớp
xương đau nhức, phù thũng, hư lao, ho suyễn cấp, ho khạc ra máu, ung nhọt
thủng độc (Bản Thảo Cương Mục).
+ Làm mạnh gân cơ, sáp tinh, cố Thận. Trị lưng đau do nội thương
(Bản Thảo Cương Mục Thập Di).
+Tư âm, bổ huyết, an thai (Trung Dược Đại Từ Điển).
+Tư âm, dưỡng huyết, nhuận phế, chỉ huyết (cầm máu), an thai
(Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
- Liều Dùng:
Ngày dùng 8 - 24g, uống với rượu hoặc cho vào thuốc hoàn, tán.
- Kiêng Kỵ :
+ Kỵ dùng chung với vị Đại hoàng (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
+Vị (bao tử) yếu, nôn mửa: không dùng. Tỳ Vị hư, ăn uống không
tiêu không nên dùng (Bản Thảo Kinh Sơ).
+Vị hư, nôn mửa, có hàn đàm, lưu ẩm, không nên dùng (Bản Thảo
Hối Ngôn).
+Tiêu chảy không nên dùng (Bản Thảo Bị Yếu).
+ Ngưòi tỳ vị hư yếu (tiêu chảy, ói mửa, tiêu hóa kém...) không dùng
(Trung Dược Đại Từ Điển).
+ Rêu lưỡi béo bệu, ăn không tiêu, tiêu chảy: không dùng (Trung
Dược Dược Lý, Độc Lý Dữ Lâm Sàng).
- Phương Thuốc Kinh Nghiệm:
* Về Huyết:
+ Trị Nôn ra máu không cầm: A giao (sao) 80g, Bồ hoàng 40g, Sinh
địa 120g. Sắc với 600ml nước còn 200ml, chia làm 2 lần uống (Thiên Kim
Dực Phương).
+ Trị ho ra máu: A giao (sao) 12g, Mộc hương 4g, Gạo nếp 40g. Tán
bột, ngày uống 3 lần mỗi lần 4g.
(Phổ Tế phương).
+ Trị có thai ra máu:
1- A giao sao vàng,tán nhỏ. Ngày uống 16g với nước cháo, trước bữa
ăn (Thánh Huệ phương) .
2- A giao 120g, sao, sắc với 200ml rượu cho tan ra rồi uống (Mai sư
phương).
+ Trị kinh nguyệt máu ra nhiều:
1- A giao sao vàng. Ngày uống 16g với rượu (Bí Uẩn Phương).
- A giao, Đương quy, Bạch thược, Sinh địa, Cam thảo, Xuyên khung,
Ngải diệp. Các vị thuốc sau khi sắc xong, lọc bỏ bã rồi mới cho A giao vào,
quấy đều uống (Giao Ngải Thang - Kim Quỹ Yếu Lược).
+ Trị nôn ra máu: A giao (sao với Cáp phấn) 40g, thêm 2g Thần sa,
tán bột. Uống chung với nước cốt Ngó sen và Mật ong (Nghiệm phương).
+ Trị nôn ra máu, Mũi chảy máu, Tai ra máu: A giao,sao chung với
20g Bồ hoàng. Ngày uống 2 lần mỗi lần dùng 8g pha với 200ml nước và
200ml nước cốt Sinh Địa, uống (Thánh Huệ phương).
* Về Hô Hấp:
+ Trị ho lâu ngày:
1- A giao (sao)40g, Nhân sâm 80g, Tán bột. Mỗi lần dùng 12g uống
với nước sắc Thông bạch (A Giao Ẩm - Thánh Tế Tổng Lục).
2- A giao (chưng cách thủy )12g, Mã đâu linh 8g, Ngưu bàng tử 8g,
Hạnh nhân 12g, Nhu mễ 16g, Cam thảo 4g. Sắc uống (Bổ Phế A Giao
Thang - Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển).
+ Trị suyễn (do phong tà nhập Phế): A giao (loại tốt), sao. Dùng Tử
tô và Ô mai, sao, tán bột, sắc uống (Nhân Trai Trực Chỉ phương).
+ Trị trẻ nhỏ Phế bị hư, khí suyễn: A giao 40g (sao), Thử niêm tử (sao
thơm) 10g, Mã đâu linh (sấy) 20g, Hạnh nhân (bỏ vỏ, đầu nhọn, sao) 7 hột,
Cam thảo (nướng) 10g, Gạo nếp (sao) 40g. Tán bột. Mỗi lần dùng 8g, sắc
uống ấm (A Giao Tán - Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết).
* Về Thai-Sản .
+ Tri có thai mà bụng đau, hạ lỵ: Hoàng liên 120g, Thạch lựu bì 120g,
Đương quy 120g, A giao (nướng) 80g, Ngải diệp 60g . Sắc uống (Kinh Hiệu
Sản Bảo).
+ Trị thai động không yên: A giao 80g, Ngải diệp 80g, Thông bạch
20g, nước 800ml, sắc còn 200ml chia 2 lần uống ( Sản Bảo phương).
+ Trị hai động làm tiểu són, trong người bứt rứt: A giao 120g, sắc với
400ml nước còn 80ml, uống nóng (Thiên Kim).
* Về Tiêu Hóa.
+ Trị táo Bón (nơi người lớn tuổi, hư yếu): A giao (sao) 8g, Thông
bạch 12g, Sắc chung với rượu cho tan ra, thêm 8ml mật ong vào uống nóng
(Trực Chỉ phương).
+ Trị khí ở trường vị bị hư: A giao 80g, Hoàng liên (sao) 120g, Phục
linh 80g. Tán bột, làm viên, ngày uống 12 - 16g (Hòa Tễ Cục phương)
* Về Gân Cơ.
+ Trị gân cơ co quắp, tay chân run giật (do nhiệt làm tổn thương tân
dịch): A giao 12g, Bạch thược (sống) 12g, Thạch quyết minh 12g, Câu đằng
12g, Sinh địa 16g, Phục thần 12g, Lạc thạch đằng 12g, Mẫu lệ (sống) 16g.
Trừ A giao, các vị thuốc sắc, lọc bỏ bã, thêm A giao vào cho chảy ra, rồi cho
Kê tử hoàng 1 trái vào, quấy đều, uống nóng (A Giao Kê Tử Hoàng Thang
- Thông Tục Thương Hàn Luận).
+ Trị lao phổi, ho ra máu: dùng A giao tán bột mịn, mỗi lần uống 20-
30g, ngày 2-3 lần với nước sôi ấm hoặc sắc nấu thành hồ uống. Trường hợp
ho ra nhiều máu không cầm, cho tiêm Pituitrin 5-10 đơn vị hoặc các loại
thuốc Tây cầm máu khác cho ho ra máu bớt đi rồi dùng A giao uống.
Trường hợp ho ra máu ít và vừa, chỉ dùng A giao cầm máu. Có kết hợp
thuốc chống lao. Trị 56 ca, kết quả tốt 37 ca, có kết quả 15 ca, không kết quả
4 ca, tỷ lệ có kết quả 92,7% (Trương Tâm Như, A Giao Điều Trị 56 Ca Lao
Phổi, Ho Ra Máu, Liêu Ninh Tạp Chí Trung Y 1987, 9: 39).
+ Trị xuất huyết tử cung cơ năng: A giao là vị thuốc thường dùng,
thường kết hợp với bài Tứ Vật Thang, dùng bài Giao Ngải Tứ Vật Thang: A
giao 20g (hòa tan), Ngải diệp 20g, Đương qui 16g, Thụcđịa 20g, Bạch thược
12g, Xuyên khung 12g, Chích thảo 4g, sắc uống. Tùy chứng có thể gia
giảm(Giao Ngải Tứ Vật Thang - Kim Qũy Yếu Lược).
+ Trị suy nhược thần kinh, mất ngủ, huyết hư tâm phiền, mạch Tế
Sác: A giao 20g (hòa tan), Hoàng ìiên 8g, Hoàng cầm 8g, Bạch thược 8g,
sắc nước uống, gia thêm lòng đỏ trứng gà (Kê Tử Hoàng) 2 cái, khuấy đều,
chia 2 lần, uống nóng trong ngày (Hoàng Liên A Giao Thang - Thương Hàn
Luận).
+ Trị chứng âm hư co giật: thường gặp trong các bệnh di chứng não,
di chứng màng não, động kinh thể âm huyết hư:: A giao, Bạch thược (sống),
Thạch quyết minh, Câu đằng, Phục thần, mỗi thứ 12g, Sinh địa, Mẫu lệ
(sống), Qui bản, mỗì thứ 16g. A giao, Kê tử hoàng (để riêng), các thuốc khác
sắc lấy nước, bỏ bã, lúc nước đang sôi, cho A giao rồi cho Kê tử hoàng vào,
khuấy đều uống lúc còn nóng (A Giao Kê Tử Hoàng Thang – Sổ Tay Lâm
Sàng Trung Dược).
+ Trị cẳng chân loét (mạn tính): Rửa vô trùng vùng loét, chiếu tia
hồng ngoại 10-15 phút, cho A giao vào l chén đổ 70ml nước, sắc nhỏ lửa
cho thành cao rồi phết cao vào miếng gạc độ 2-3g, tùy diện tích to nhỏ của
vết loét, mỗi ngày đắp l lần, thường khoảng 20 lần là khỏi. Đã trị 24 ca đều
khỏi (Duẫn Hồng Như và cộng sự, Dùng Tia Hồng Ngoại Kết Hợp A Giao
Trị Loét Cẳng Chân 24 Ca, Tạp Chí Trung Tây Y Kết Hợp 1987, 4: 24).
+ Trị chứng bạch cầu giảm và thiếu máu nhược sắc: dùng cao lỏng A
giao (A giao, Nhân sâm, Thục địa, Đảng sâm, Sơn tra...), có tác dụng tăng
bạch cầu, bổ huyết và tăng miễn dịch. Đã trị bạch cầu giảm 179 ca, tỷ lệ kết
quả 79,33%, thiếu máu nhược sắc 230 ca, tỷ lệ kết quả 6',8% (Lý Thượng
Ngọc, Kết Quả Nghiên Cứu A Giao, Báo Công Nghiệp Sơn Đông, 1986, 3:
21).
+ Trị động thai: Thuốc có tác dụng an thai. Dùng A giao 12g, Trứng
gà 2 quả, đường đỏ 30g. Trị 36 ca, khỏi 30 ca, tỷ lệ khỏi 83,3% (Vương Tâm
Hảo, Tự Chế A Giao Kê Tử Hoàng Thang Trị Động Thai, Hoạt Thai, báo
Trung Y Sơn Tây 1987, 2: 35).
- Tham Khảo:
+“A Tỉnh, nay ở 30 dặm về phía Đông-Bắc huyện Dương Cốc, phủ
Đoài Châu tỉnh Sơn Đông (huyện Đông A xưa) nơi đó là cấm địa của quan
ở. Ly Đạo Nguyên trong ‘Thủy Kinh Chú ‘ ghi: “Huyện Đông A có cái
giếng to như bánh xe ngựa, sâu hơn 20 mét, hàng năm lấy nước giếng đó nấu
cao dâng cho triều đình. Nước trong giếng này bắt nguồn từ sông Tế chảy
xuống, lấy nước này nấu cao. Khi quậy, nước (đang) trọc đục thì trong lại,
vì vậy dùng vào việc thông quan cách, làm cho tiêu đờm, cầm nôn mửa. Vì
nước sông Tế trong mà nặng, tính của nó hướng xuống, do đó chữa được ứ
đọng, bẩn đục và đờm nghịch đi lên vậy “ (Bản Thảo Cương Mục).
+“Nay tại tỉnh Sơn Đông cũng làm được như vậy. Loại da xử dụng có
loại gìa loại non, loại cao thì có loại thanh loại trọc. Khi nấu phải bỏ vào 1
miêng sừng hươu (Lộc giác) thì sẽ thành được keo, nếu không làm như vậy
thì không được .Về cao có 3 loại:
+ Loại trong mà mỏng là loại các họa sĩ thường dùng .
+ Loại trong mà dầy gọi là Phúc Bồn Giao
2 loại này thường dùng làm thuốc.
+ Loại trọc đục mà đen thì không dùng làm thuốc nhưng có thể làm
keo dán dụng cụ” (Thực liệu bản thảo).
+“...Ngày nay các nhà bào chế thuốc dùng Hoàng minh giao, đa số là
da trâu, bò. A giao trong ‘Bản Kinh’ cũng là da trâu,bò. Dù là da lừa hoặc
trâu bò đều có thể dùng được . Nhưng hiện nay cách chế da trâu bò không
được tinh xảo nên chỉ dùng vào việc dán dụng cụ... không thể dùng vào việc
làm thuốc được . Trần Tàng Khí nói rằng:” Các loại ‘giao’ đều có thể
chữaphong,cầm tiết, bổ hư vì vậy cao da lừa chuyên chữavề phong là vậy”.
Đây là điều cho thấy rằng A giao hơn các loại cao khác vậy - Chác Nhai
nhận định: “Nghe nói cách chế keo ngày xưa là trước tiên lấy nước ở khe
suối tên Lang ( Lang Khê) ngâm da sau đó lấy nước giếng A Tỉnh nấu thành
cao. Lang Khê phát nguồn từ suối Hồng Phạm, tính nó thuộc Dương, còn
nước giếng A Tỉnh thuộc Âm, ý là lấy Âm Dương phối hợp với nhau. Dùng
lửa cây dâu tằm luyện thành cao, sau 4 ngày 4 đêm thì thành A giao. Lại nói
rằng người dùng A giao kỵ nhất là rượu, nên cố gắng phòng tránh . Đây là
điều người xưa chưa từng nói, vì vậy ghi lại để biết vậy - Vị A giao chủ yếu
bổ huyết dịch, vì vậy nó có khả năng thanh phế, ích âm, chữa được các
chứng bệnh. Trần -Tự-Minh cho rằng:” Bổ hư thì dùng Ngưu bì giao, trừ
phong thì dùng Lư bì giao (keo da lừa)”. Thành-Vô-Kỷ lại cho rằng:”Phần
âm bị bất túc thì bổ bằng thuốc có vị đậm đặc, vị ngọt của A giao để bổ âm
huyết”. Dương Sĩ Doanh cho rằng: “Hễ trị chứng ho suyễn, bất luận Phế bị
hư hoặc thực, nếu dùng phép hạ hoặc phép ôn đều phải dùng đến A giao để
an và nhuận Phế. Tính của A giao bình hòa,là thuốc cần thiết cho kinh Phế.
Trẻ nhỏ sau khi bị động kinh, cơ thể co rút, dùng A giao, tăng gấp đôi vị
Nhân Sâm sắc uống là tốt nhất (Trung Quốc Dược Học Đại Tự Điển).
+“ Giếng A Tỉnh là con mắt của sông Tế Thủy. Sách Nội Kinh cho
rằng Tế Thủy cũng như cái gan của trời đất cho nên phần nhiều có công
dụng nhập vào tạng Can. Da con lừa mầu đen, mầu sắc hợp với hành Thủy ở
phương Bắc, là giống vật hiền lành mà đi khỏe, cho nên nhập vào Thận
cũng nhiều. Khi Thận thủy đầy đủ thì tự nhiên chế được hỏa, hỏa tắt thì
không sinh ra phong, cho nên chứng Mộc vượng làm động phong, tâm hỏa
thịnh, Phế kim suy, không gì là không thấy kiến hiệu. Lại nói: A giao thứ
thật khó mà có được thì dùng Hoàng Minh Ngưu Giao, nhưng da trâu
thường chế không đúng phép, mình tự chế lấy thì tốt. Khi nấu phải cho vào
1 miếng gạc hươu, nếu không thì không thành cao. Cao da trâu gọi là Ngưu
Bì Giao hoặc Thủy Giao, có tác dụng nhuận táo, lợi đại tiểu trường, là thuốc
chủ yếu để chữa đau, hoạt huyết của ngoại khoa, trị tất cả các chứng về
huyết của nam và nữ. Mọi thứ cao đều bổ huyết, dưỡng hư, mà A giao lại là
da lừa đen nấu thành với nước giếng A Tỉnh, tức là nước sông Tế Thủy
ngâm vào, mầu sắc chính biếc, tính thì chạy xuống gấp, trong mà lại nặng,
hoàn toàn âm tính, rất khác với nước ở các sông khác, do đó càng có khả
năng để nhuận Phế, dưỡng Can và tư bổ Thận” (Dược Phẩm Vậng Yếu)
+ “ A giao là vị thuốc phải gia công chế biến . Dùng da lừa đen, lấy
nước giếng Đông A ở tỉnh Sơn Đông nấu thành cao để chữa ho lao, là vị
thuốc chủ yếu chỉ (cầm) huyết của các chứng về huyết. Dùng loại trong,
sáng, dòn, không tanh hôi, không mềm nhũn là tốt. Khi dùng vị thuốc này
phải làm cho chảy ra rồi hòa với thuốc khác mà uống, không nên sắc chung
với các vị thuốc khác vì sắc nó khó tan ra nước cốt, hiệu quả điều trị không
cao” (Đông Dược Học Thiết Yếu)
+ “A giao gặp được lửa rất tốt” (Bản Thảo Kinh Tập Chú).
+”A giao có Thự Dự (Hoài Sơn) làm sứ thì tốt ( Dược Tính Luận)
+” Thứ keo nấu bằng da lừa loại tốt được gọi là ‘Cống Giao’ (dùng
để cống cho nhà vua) còn thứ nấu bằng da trâu, bò gọi là Minh Giao
(Phương Bào Chế Đông Dược Việt Nam).
+A giao và Lộc giác giao là những vị thuốc đại bổ, rất có liên hệ với
huyết. Cả 2 đều có tác dụng tư âm, dưỡng huyết, chỉ huyết. Nhưng A giao vị
ngọt, tính bình thiên về bổ huyết, chỉ huyết. Kiêm tư Phế, an thai, cầm huyết
hư ra nhiều. Còn Lộc giác giao vị ngọt, mặn, tính ấm, thiên về ôn bổ
Can,Thận, cố tinh. Phần hỏa suy nhiều phải dùng Lộc giác giao” (Trung
Dược Lâm Sàng Giám Dụng Chỉ Mê).
+ Thục địa và A giao có tác dụng tư âm, bổ huyết nhưng Thục địa
thiên về bổ Thận âm, trấn tinh tủy mà bổ huyết còn A giao thiên về nhuận
Phế, dưỡng Can, bổ huyết mà tư âm, chỉ huyết. Hễ âm hư, bất túc thì hư hỏa
bốc lên gây ra hư phiền, mất ngủ, thai động không yên, dễ bị xẩy thai. Dùng
bài Tứ Vật Thang Gia Vị trị 19 trường hợp dọa xẩy thai đạt kết quả tốt. Bài
thuốc dùng: A giao, Ngải diệp, Bạch thược, Đương quy, Cam thảo, Xuyên
khung, Thục địa (tức là bài Tứ Vật Thang thêm A giao, Cam thảo, Ngải
diệp). Tùy chứng gia giảm thêm (Trung Dược Dược Lý, Độc Lý Dữ Lâm
Sàng).
+ A giao có đầy đủ tác dụng dưỡng âm, bổ huyết và nhuận Phế, chỉ
khái. Lại do chất keo
dính, béo, có thể ngưng cố huyết lạc cho nên tốt về chỉ huyết. Thường
dùng trong các chứng thổ huyết, chảy máu cam, tiêu ra huyết, cũng như phụ
nữ bị băng huyết, lậu huyết. A giao có thể nhuận Phế, chỉ khái lại trị ho ra
máu, cho nên nó là thuốc chính để trị phế lao. A giao không những dùng cho
nội thương mà còn dùng cho những trường hợp sau khi bị nhiệt bệnh như
tâm phiền, mất ngủ do nhiệt làm tổn thương phần âm huyết, có thể dùng
chung với thuốc thanh nhiệt. Trường hợp bệnh âm dịch hao tổn, huyết hư
sinh phong thì có thể dùng chung với thuốc tức phong, trấn kinh, thanh
nhiệt. Vị này dùng sống hoặc sao đều có công dụng chỉ huyết, bổ huyết. Chỉ
có dùng sống thì công hiệu tư âm mới tốt, dùng sao thì công dụng chỉ huyết
mới mạnh (Thực Dụng Trung Y Học).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20_1463.pdf