Cũng nhưnhiều ngành trong hệthống chính trịkinh tế, ngành giáo dục đào
tạo nước ta đã xây dựng chiến lược giáo dục đến năm 2010 đồng thời có tầm
nhìn hành động đến năm 2020.
Xét cho cùng bất cứmột chiến lược giáo dục đều gắn với ý đồcủa việc
biến đổi (Transform), canh tân (Innovation), cải cách (Reform) đối với giáo dục.
Công việc này là sựbình thường của mọi nền giáo dục nếu muốn cho nền giáo
dục phục vụ đắc lực cuộc sống. Trong Di chúc của Chủtịch HồChí Minh đã căn
dặn: “Sửa đổi chế độgiáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân”
37
chính là Người yêu cầu không bao giờ được bằng lòng thỏa mãn với các thành
tựu giáo dục đã giành được.
Sựbiến đổi nền giáo dục là nhằm vào các cải tiến đểnó thích nghi với động
thái kinh tếxã hội.
Sựcanh tân nền giáo dục là quá trình loại bỏ đi cái cũ, tạo ra cái mới thúc
đẩy bước tiến của kinh tếxã hội
Sựcải cách là nhằm vào sựcải biến các nhân tốcủa quá trình giáo dục để
nó đón đầu các bước tiến của kinh tếxã hội.
Chiến lược giáo dục của nền giáo dục Việt Nam dù được biểu hiện nhưthế
nào, theo khung thời gian nào đều không thểbỏtrống một trong ba yêu cầu trên
đây.
(i) Yêu cầu làm cho nền giáo dục thích nghi với kinh tế- xã hội.
(ii) Yêu cầu làm cho nền giáo dục thúc đẩy tiến bộcủa kinh tế- xã hội
(iii) Yêu cầu làm cho nền giáo dục đón đầu xu thếphát triển kinh tế- xã
hội.
42 trang |
Chia sẻ: NamTDH | Lượt xem: 1591 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Dự báo phát triển giáo dục - Phần 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thiết
để dập tắt hiện tượng chủ nghĩa riêng biệt đang lan rộng trong một số cơ sở
trường học.
• Chương trình quốc gia phải chuẩn bị cho sự chuyên môn hóa, gắn chặt với
nghề nghiệp ở giai đoạn cuối.
• Chương trình phải mang tới cho học sinh một “nền văn hóa chung”, bao
gồm sự hiểu biết về xã hội (những yếu tố về pháp luật, các nguyên tắc chi phối
cuộc sống…) và một tập hợp các kiến thức khoa học cơ bản và đồng bộ.
3. Giáo dục hướng nghiệp: Mỗi năm học một thông tin mới nhất về hướng
nghiệp sau trung học được thông báo đến trường học sinh và cha mẹ học sinh,
giới thiệu “khung đào tạo của vùng và triển vọng của việc làm” cũng như thông
báo về các địa chỉ cần thiết.
4. Giáo dục cá nhân: Chú trọng tới việc dạy học theo cá nhân. Những sự
kèm cặp cá nhân thường xuyên cho phép học sinh đang gặp những khó khăn
trong một môn học nhận được những lời khuyên, nhận được sự giúp đỡ cần thiết
và kịp thời từ phía giáo viên.
5. Tính liên môn: Giảm bớt tình trạng nhiều môn học bằng việc tăng cường
các môn học kết hợp.
6. Liên kết trong giáo dục: Tăng cường sự liên hệ giữa nhà trường và các xí
nghiệp. Trường trung học là nơi “tuyên truyền các sang tạo công nghệ và cải
cách nghề nghiệp”. Ngược lại, các xí nghiệp tìm được ở các nhà trường “các
trung tâm nguồn trong việc đào tạo và sáng tạo công nghệ”.
66
7. Các trường trung học nghề: Trường trung học nghề phải thích nghi với
khu vực, việc đào tạo phải phù hợp với sơ đồ đào tạo nghề nghiệp đã được xác
định trong kế hoạch giáo dục của khu vực.
8. Đánh giá:
• Vẫn giữ kì thi tú tài nhưng có thay đổi và giảm nhẹ đôi chút. Nó chỉ còn là
“một kì kiểm tra bình thường cỡ quốc gia”.
• Sử dụng một “Sổ học bạ mở rộng” để đánh giá chung và toàn diện năng lực
và phẩm chất của mỗi cá nhân học sinh.
• Một kì thi mới ở lớp đệ nhất. Ngoài việc kiểm tra môn tiếng Pháp học sinh
phải viết 1 tài liệu nghiên cứu về 1 chủ đề tự chọn khoảng 20 trang và bảo vệ
trước 1 hội đồng đánh giá.
9. Thời lượng học tập:
• Một trường trung học mở cửa hơn. Mọi học sinh đều có quyền có “một thời
gian có mặt hàng tuần là 35 giờ” tại trường, việc này cho phép học sinh có thể
tìm thấy sự giúp đỡ hay lấy tư liệu để làm bài.
• Ưu tiên cho việc đọc sách. Thời gian rỗi cần phải được dùng để “đọc các
tác phẩm bổ sung hay tạp chí”, mà mỗi môn học đòi hỏi và được tính điểm khi
chấm bài.
• Các giờ lên lớp giảm. Trong giảng dạy phổ thông, học sinh chỉ còn có 28
giờ nghe giảng; trong giảng dạy công nghệ hay chuyên ngành là 30 giờ, ít nhất
20% số giờ lên lớp được dùng vào các công việc làm có hướng dẫn.
• Bài tập ở trường trung học. Việc giảm số giờ nghe giảng đã dành ra từ 5
đến 9 giờ cho phép những học sinh muốn làm bài tập có sự giúp đỡ của giáo
viên.
• Những hoạt động ngoài nhà trường thích hợp. Những “hoạt động văn hóa
xã hội và thể thao” được tăng cường để lôi kéo học sinh vào cuộc sống tập thể.
10. Giáo viên
• Thời gian biểu của giáo viên đã được đảm bảo chuyển từ 18 xuống 15 giờ
và đối với các thạc sĩ giảm từ 15 xuống còn 14 giờ. Nhưng họ phải đảm bảo 4
giờ có mặt và hoạt động sư phạm trong nhà trường (đối với thạc sĩ là 3 giờ), tức
là 132 giờ một năm.
• Chỉ có 15 giờ lên lớp (15 giờ giảng dạy tương ứng với những giờ có mặt
trước học sinh, kể cả những công việc hướng dẫn học sinh làm bài tập hoặc thực
hành, không tính đến những nhiệm vụ truyền thống như chuẩn bị bài, chấm bài
và các cuộc gặp gỡ phụ huynh học sinh).
67
• Tăng cường làm việc theo nhóm giáo viên để chia xẻ và học hỏi lẫn nhau.
• Làm mềm deo và linh hoạt việc trực của giáo viên.
• Đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên: Mỗi giáo viên có quyền hưởng ít nhất
35 giờ cho việc đào tạo tiếp tục hàng năm, thực hiện ngoài giờ trực và giờ lên
lớp.
• Chú trọng việc đào tạo các nhà quản lí giáo dục.
3. DỰ BÁO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA TRUNG QUỐC 1996-
2050
3.1. Phương châm
Giáo dục hướng về hiện đại hóa
Trung Quốc nếu muốn đạt được mục tiêu chiến lược là vươn tới trình độ
của các nước phát triển hạng trung vào giữa thế kỉ sau, thì phải duy trì được lực
đẩy mạnh mẽ của tiến bộ khoa học kĩ thuật, của sự phồn vinh kinh tế và sự phát
triển xã hội trong một thời gian dài. Nhưng cơ sở vật chất của lực đẩy đó lại chịu
sự quyết định của trình độ phát triển giáo dục. Bởi vậy, trong thời kì chiến lược
này, cần không ngừng tăng nhanh tốc độ phát triển giáo dục. Chỉ có đặt giáo dục
vào vị trí chiến lược ưu tiên phát triển, không ngừng tăng tỉ trọng đầu tư cho
giáo dục, không ngừng nâng cao địa vị của giáo dục trong xã hội, không ngừng
điều chỉnh bước đi của giáo dục theo yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội,
làm cho giáo dục phát triển đồng bộ với kinh tế, gắn kết chặt chẽ với kinh tế và
trong điều kiện có thể được, phát triển đi trước một cách thích đáng, thì mới có
thể làm cho tiến trình hiện đại hóa Trung Quốc tiến lên một cách thuận lợi. Bên
cạnh đó, bản thân giáo dục cũng phải không ngừng điều chỉnh cơ cấu và phương
thức phát triển nhằm cung cấp cho công cuộc xây dựng hiện đại hóa Trung Quốc
và phát triển kinh tế một nguồn trí lực đầy đủ và có hiệu quả.
Giáo dục hướng ra thế giới
Hiện nay, nền kinh tế của các nước trên thế giới đều mở cửa để hội nhập
với thị trường thế giới rộng lớn, giáo dục không thể đứng ngoài tiến trình lịch sử
đó. Sự phát triển của giáo dục các nước không những phải hài hòa, đồng bộ với
sự phát triển tổng thể của giáo dục thế giới và kinh tế thế giới. Sự phát triển của
giáo dục thế giới và kinh tế thế giới không những trực tiếp ảnh hưởng đến trình
độ và phương hướng phát triển của giáo dục và kinh tế Trung Quốc mà sự tăng
tốc của tiến trình nhất thể hóa kinh tế thế giới, sự quyết liệt không ngừng cạnh
tranh quốc tế cũng đòi hỏi giáo dục Trung Quốc trong thế kỉ 21 phải đào tạo ra
nhiều nhân tài thích ứng với sự thay đổi của kinh tế thế giới và có thể tham gia
vào cuộc cạnh tranh quốc tế.
68
Giáo dục hướng tới tương lai
Cống hiến của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế, nhất là sự phát triển
kinh tế tương lai, to hay nhỏ, chủ yếu là do việc giáo dục và đào tạo quốc dân có
thể thỏa mãn đến mức nào yêu cầu của tương lai về nhân tài. Cho nên, giáo dục
cần phải quy hoạch và phát triển theo yêu cầu của tương lai.
Giáo dục phải phục vụ việc nâng cao tố chất của con người
Giáo dục phục vị phát triển kinh tế
3.2. Mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục Trung Quốc
1. Đầu tư cho giáo dục chiếm 8% tổng giá trị sản xuất quốc dân, tức là đạt
mức xấp xỉ là 13 nghìn tỉ đồng.
2. Phổ cập giáo dục nghĩa vụ 12 năm, tức là giáo dục từ 6 đến 18 tuổi (hoặc
giáo dục nghĩa vụ 15 năm, tức là bao gồm 3 năm mẫu giáo). Trong đó (tính theo
giáo dục nghĩa vụ 15 năm):
+ Trẻ em đi nhà trẻ, mẫu giáo là 110 triệu;
+ Học sinh tiểu học là 175 triệu;
+ Học sinh trung học các loại là 155 triệu.
3. Tỉ lệ vào đại học đạt trên 60%, khoảng 57.600.000 người.
4. Nghiên cứu sinh đạt 2.100.000-2.500.000 người. Hàng năm có từ
700.000-800.000 người được nhận học vị Thạc sĩ và Tiến sĩ.
5. Số giáo viên đạt mức 32 triệu người. Trong đó: Giáo viên mẫu giáo: 7,3
triệu; giáo viên tiểu học: 8,45 triệu; giáo viên trung học: 11,92 triệu; giáo viên
đại học: 3,7 triệu.
3.3. Các giai đoạn chiến lược phát triền giáo dục Trung Quốc
Giai đoạn thứ nhất (1996-2010): Đây là giai đoạn điều chỉnh từng bước tỉ
lệ giữa 3 cấp giáo dục, làm cho chúng thích ứng với sự phát triền kinh tế. Phổ
cập toàn diện giáo dục nghĩa vụ 9 năm, xóa mù chữ cho những người ở độ tuổi
thanh niên và trung niên, đưa tỉ trọng người có trình độ giáo dục đại học trong
dân số lên mức của các nước phát triền trung bình. Cải thiện khá lớn điều kiện
dạy học, nâng cao chất lượng và hiệu quả của các loại trường học các cấp.
Mục tiêu cụ thể của giai đoạn này là:
Đầu tư cho giáo dục chiếm 4% tổng giá trị sản xuất quốc dân, khoảng 800
tỉ đồng.
Phổ cập toàn diện giáo dục nghĩa vụ 9 năm. Duy trì học sinh tiểu học ở
mức 130 triệu, trung học cơ sở 63 triệu; tỉ lệ vào học trung học cơ sở đạt 95%;
phổ cập giáo dục nghĩa vụ 9 năm ở khu vực chiếm 95% dân số.
69
Xóa mù chữ cho thanh niên và trung niên; hạ tỉ lệ thanh niên và trung niên
mù chữ xuống khoảng 1%, nâng tỉ lệ người lớn biết chữ lên 90%-95%, thông
qua học văn hóa và học kĩ thuật để củng cố thành quả xóa mù chữ.
Phát triển trung học nghề nghiệp và trung học phổ thông, tăng số học sinh
của các loại trường thuộc giai đoạn trung học lên khoảng 35 triệu người, đạt tỉ lệ
nhập học trên 50%. Học sinh trung học phổ thông đạt 14 triệu người, học sinh
trung học nghề nghiệp đạt 21 triệu người.
Phát triền thích đáng giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp ở trình độ
đại học. Tăng số sinh viên các trường đại học lên 12,6 triệu người, tỉ lệ nhập học
đạt khoảng 15%. Số nghiên cứu sinh đạt mức 30-35 vạn người; hàng năm trao
học vị Thạc sĩ và Tiến sĩ cho trên 10 vạn người.
Giai đoạn hai (2011-2030)
Giai đoạn này sễ điều chỉnh thêm một bước tỉ lệ của ba cấp giáo dục. Từng
bước tăng tỉ trọng giáo dục đại học, phổ cập toàn diện giáo dục nghĩa vụ 12
năm; trình độ và chất lượng phổ cập giáo dục phổ thông về cơ bản đạt tới hoặc
tiếp cận trình độ các nước phát triền trung bình trên thế giới. Giáo dục kĩ thuật
nghề nghiệp bám sát sự phát triền khoa học kĩ thuật tiến tiến của quốc tế. Giáo
dục tại chức trở thành một hệ thống đan xen nhiều chiều, đạt tỉ lệ ngày càng lớn.
Nâng cao chất lượng xóa mù chữ. Tỉ trọng người có trình độ đại học gần bằng
mức chung của các nước phát triền. Cải thiện cơ bản điều kiện dạy học của các
loại trường học, nâng chất lượng và hiệu quả giáo dục lên hàng đầu của thế giới.
Mục tiêu cụ thể là:
• Đầu tư cho giáo dục chiếm 6% tổng giá trị sản xuất quốc dân, đạt khoảng
3,84-4,62 nghìn tỉ đồng.
• Phổ cập toàn diện giáo dục nghĩa vụ 12 năm. Duy trì số học sinh tiểu học ở
mức 166 triệu người; học sinh trung học khoảng 146 triệu người; tỉ lệ học sinh
vào học trung học phổ thông, trung học kĩ thuật, trung học nghề nghiệp đạt
khoảng 95%; phổ cập giáo dục nghĩa vụ 12 nưm ở các vùng chiếm 95% dân số.
• Nâng cao chất lượng xóa mù chữ. 90%-95% người lớn có năng lực giao
tiếp bằng văn tự và năng lực đọc hiểu nói chung theo yêu cầu của xã hội đương
thời; củng cố thành quả xóa mù chữ bằng các con đường học tập và ứng dụng đa
dạng.
• Nhanh chóng phát triền và phát huy vai trò ngày càng quan trọng của giáo
dục tại chức; khoảng 1/10 số cán bộ tại chức sẽ được tào tạo dài hạn theo
phương thức thoát li sản xuất hoặc thoát li một nửa thời gian sản xuất; tiến hành
đổi mới tri thức bằng các hình thức khác nhau.
70
• Phát triền nhanh giáo dục đại học và giáo dục trên đại học (như: học viên
nghiên cứu kết hợp nghiên cứu và dạy học, học viên nghiên cứu lí luận cơ bản,
v.v…) Tăng số lượng sinh viên đại học lên đến 27 triệu người, tỉ lệ nhập học đạt
khoảng 30%. Số lượng nghiên cứu sinh đạt khoảng 1,5 triệu người; hàng năm
cấp học vị Thạc sĩ, Tiến sĩ cho khoảng 50 vạn người.
Giai đoạn ba (2031-2050).
Giáo dục của Trung Quốc ở giai đoạn này có sự phát triền, hoàn thiện thêm
mọt bước. Tỉ lệ giữa giáo dục các cấp hợp lí, hình thành một hệ thống giáo dục
lớn, trong đó lấy giáo dục nghĩa vụ chất lượng cao trên phạm vi toàn quốc làm
cơ sở, lấy giáo dục đại học dồi dào sức sống, phong phú về chủng loại và đa
dạng về hình tiểu họcức làm chủ tiểu họcể, lấy giáo dục khoa học kĩ thuật mũi
nhọn, cao, tinh và giáo dục siêu cao cấp mang tính nghiên cứu làm đầu tầu.
Mục tiêu phát triền cụ thể của giai đoạn này là:
• Đầu tư giáo dục chiếm 8% tổng giá trị sản xuất quốc dân, đạt khoảng 12,8
nghìn tỉ đồng.
• Phổ cập giáo dục nghĩa vụ 12 năm (hoặc giáo dục nghĩa vụ 15 năm, tức là
bao gồm cả 3 năm giáo dục mẫu giáo) cho khoảng 330 triệu người trong độ tuổi
từ 3-18 tuổi (nếu là giáo dục nghĩa vụ 15 năm thì là 440 triệu người).
• Tỉ lệ người vào đại học là 60%, khoảng 17,6 triệu người.
• Quy mô đào tạo nghiên cứu sinh đạt mức 2,1-2,5 triệu người, hàng năm
trao học vị Thạc sĩ, Tiến sĩ cho 70-80 vạn người.
• Tổng số giáo viên đạt khoảng 32 triệu người.
Các giải pháp chiến lược phát triền giáo dục Trung Quốc
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, pháp quy về giáo dục, tạo môi trường
pháp chế có lợi cho sự phát triền gd
2. Không ngừng tăng cường ý thức coi trọng giáo dục, toàn dân quan tâm
đến sự nghiệp giáo dục.
3. Bảo đảm đầu tư cho giáo dục, mở rộng nguồn vốn cho giáo dục, động
viên mọi lực lượng xã hội hỗ trợ sự phát triền của giáo dục.
4. Đẩy mạnh việc đầu tư phần cứng cho giáo dục.
5. Tăng cường xây dựng đội ngũ giáo viên, nâng cao tố chất và địa vị xã
hội của giáo viên.
6. Từng bước mở rộng giáo dục tố chất, nâng cao hiệu quả xã hội của giáo
dục.
7. Nỗ lực tìm tòi sự sang tạo mới về chế độ giáo dục
71
8. Xử lí vấn đề thị trường hóa trong phát triền giáo dục đại học
9. Tăng cường công tác nghiên cứu phát triền giáo dục.
4. DỰ BÁO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC CỦA MỘ SỐ NƯỚC THUỘC
KHU VỰC CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG
4.1. Nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực ở châu Á trong vòng 25 năm tới
Một số hội nghị quốc tế và khu vực đã được tổ chức, thảo luận các vấn đề
đào tạo và sử dụng lực lượng các nhà nghiên cứu và các nhà khoa học. Một hội
nghị tổ chức từ 17-18/1/1999 tại New York và hội nghị tiểu họcứ hai tổ chức
vào 6/1997 tại Kuala Lumpur đã đề cập tới một số thách thức nổi bật về đào tạo
nguồn nhân lực đặt ra với các nước châu Á trong vòng 1/4 thế kỉ tới. Dưới đây
là một số thách thức nổi bật trong một số lĩnh vực.
Trong lĩnh vực kinh tế chính trị
• Sự hội nhập của các quốc gia vào nền kinh tế toàn cầu
• Hậu quả của việc sử dụng lực lượng lao động trình độ thấp
• Sự bùng nổ của công nghệ thông tin và sự phát triền của các xa lộ thông tin
không kiểm soát được
• Sự thúc ép phải chuyển đổi cách thức quản lí từ tập trung sang phi tập trung
• Nhận thức được tăng cường về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đặt ra
các trách nhiệm lớn cho các chính phủ phải bảo vệ và duy trì.
Trong lĩnh vực xã hội
• Quá trình đô thị hóa mau chóng và các hậu quả của nó trong lĩnh vực xã
hội và quản lý ở các cấp
• Sự phát triền loại hình “Gia đình hạt nhân” và sự mất dần các gia đình đa
thế hệ
• Tình trạng tiến thoái lưỡng nan giữa việc tiếp tục duy trì các thành phần lao
động với năng suất thấp (vì số đông vẫn tập trung ở lao động nông nghiệp và các
nghề không chính thức ở thành thị) trong khi đối mặt với sự thiếu năng lực của
các thành phần lao động với năng suất cao
• Lực lượng lao động tiếp tục tăng lên và vẫn không được đào tạo đủ do sự
bất cập của các hệ thống giáo dục.
• Sự di chuyển của các lực lượng lao động từ quốc gia này sang quốc gia
khác
• Sự thúc ép đối với khu vực châu Á phải chuyển đổi từ một khu vực mang
tính “thị trường” sang khu vực “tạo ra kiến thức”.
72
Trong lĩnh vực môi trường
• Mâu thuẫn căng tiểu họcẳng giữa nhịp độ phát triền sản xuất và nhu cầu
làm giảm bớt sự ô nhiễm và phá hủy môi trường.
• Việc đưa dần phí tổn về môi trường vào hệ tiểu họcống tài chính và luật
pháp.
Trong lĩnh vực văn hóa
Sự gia tăng, nhưng không phải là thống trị, cái gọi là “Văn hóa thế giới”
trong xu tiểu họcế hội nhập của các nước châu Á.
Nhu cầu duy trì và bảo tồn văn hóa và bản sắc của dân tộc và của khu vực
nhằm tránh xu hướng đồng nhất.
Trong lĩnh vực phương pháp dạy học
Yêu cầu cấp thiết đặt ra cho các nước châu Á phải thay đổi cách dạy học
nhằm nâng cao vai trò tích cực, chủ động của người học, nhằm giúp học sẵn
sang và tự tin bước vào cuộc sống lao động sang tạo trong thế kỉ tới.
Các vấn đề về nông thôn
• Mặc dù có xu hướng đô thị hóa mau chóng, trong vòng 1/4 thế kỉ tới hầu
hết các nước châu Á vẫn là các nước “quá bán” về nông nghiệp. Chính phủ các
nước châu Á đều có xu hướng chuẩn hóa chương trình dạy học quốc gia. Tuy
nhiên học sinh các vùng nông thôn không có điều kiện tiếp thu chương trình
quốc gia một cách đầy đủ để giúp họ có thể trở thành những người lao động có
năng suất. Các phương thức dạy học thích hợp cần đặt ra cho học sinh các vùng
nông thôn.
• Nhằm mục đích xóa đổi giảm nghèo các nước châu Á phải có kế hoạch đầu
tư nhiều hơn cho nghiên cứu các vấn đề về nông thôn và năng suất lao động ở
nông thôn.
Vấn đề chuyên môn hóa
Các chương trình dạy học của nhiều nước châu Á thường có xu hướng
phân hóa sớm và điều này tỏ ra không phù hợp với các thách thức đòi hỏi cách
giải quyết có tính chất liên môn.
Vấn đề kết hợp giữa nghiên cứu và dạy học
Ở nhiều nước châu Á thường có sự thiếu gắn kết giữa các cơ quan thực
hiện nghiên cứu và các cơ quan thực hiện dạy học. Sự kết hợp chặt chẽ cả hai
chức năng này theo những phương thức hợp lí là phương cách tăng cường hiệu
quả của cả việc dạy hoc và nghiên cứu trong thời gian tới.
Hỗ trợ tài chính cho nghiên cứu
73
Ở nhiều nước châu Á các hoạt động nghiên cứu đã không được tài trợ một
cách đầy đủ. Các nguồn tài chính cần được huy động để hỗ trợ cho các hoạt
động nghiên cứu nhiều hơn nhằm giúp các nước châu Á có thể phát triền hơn
việc chỉ là các nguồn cung cấp nguồn nhân lực rẻ cho các nền công nghiệp đang
ngày càng thể hiện tính chất đa dân tộc.
Hỗ trợ cho giáo dục đại học
Nhiều nước châu Á đã tỏ ra thiếu các nguồn nhân lực có kĩ năng cao ở
nhiều lĩnh vực, do đó đã không thu hút được các nguồn đầu tư mới. Năng lực
quản lí đòi hỏi các kĩ năng và tư duy tổng hợp đã tỏ ra thiếu ở nhiều nước châu
Á. Giáo dục đại học đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các thách thức
này và đòi hỏi có những đầu tư thích đáng.
4.2. Tư tưởng chiến lược giáo dục của các nước thuộc khu vực Châu Á-
Thái Bình Dương
Điều này rõ rang nhất trong khu vực là thay đổi về môi trường kinh tế.
Năm 1996, các chiến lược được hình thành trong bối cảnh nền kinh tế đang tăng
trưởng, ngày nay, hầu hết các nước trong khu vực đang ở trong thời kỳ suy thoái
kinh tế. Tuy nhiên không chỉ kinh tế mà tình hình chính trị cũng đã có nhiều
thay đổi. Gần 1/4 số nước trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã thay đổi
Chính phủ hoặc ít nhất là thay đổi Bộ trưởng Giáo dục. Những chính sách và các
nhà hoạch định chính sách mới mang lại những ưu đãi và kỳ vọng mới đối với
hệ thống giáo dục trong nước của họ. Ngoài kinh tế và chính trị, công nghệ và
sự bùng nổ của thông tin đã mở ra những khả năng mà ngành giáo dục mới chỉ
bắt đầu sử dụng một cách chậm chạp.
Những khó khăn và thách thức thường gặp đối với ngành giáo dục trong
khu vực không phải là mới, tuy nhiên chúng lại trở nên cấp bách khi nền kinh tế
suy thoái và những nhu cầu cấp thiết lại không được quan tâm đầy đủ trong việc
chuẩn bị giáo dục cho thế hệ kế tiếp. Mặc dù là ngành chăm sóc đến tương lai,
nhưng ngành giáo dục lại là ngành ít thay đổi nhất do quy mô, sự ổn định và
thiếu năng động của các hệ thống giáo dục và bệnh quan liêu. Tuy nhiên, cuộc
khủng hoảng khu vực là một lời kêu gọi thúc giục đối với việc xem xét cơ bản
về ngành giáo dục.
Dưới đaya là một số vấn đề chung được đề cập tới trong tư tưởng phát triền
giáo dục của các nước khu vực trong những thập kỉ đầu của thế kỉ 21.
4.2.1 GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI VÀ GIÁO DỤC SUỐT ĐỜI
Kể từ khi cộng đồng quốc tế tán thành sự cần thiết phải coi giáo dục là
quyền cơ bản của mọi người vào tháng 3/1990, khu vực châu Á-Thái Bình
74
Dương đã có tiến bộ đáng kể. Một loạt những sáng kiến và kế hoạch hành động
đã được thiết lập và thực thi. Các nước châu Á-Thái Bình Dương đã thỏa thuận
đặt giáo dục cơ sở và xóa mù chữ lên những ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, kết
quả những cố gắng của họ lại rất đáng buồn vì mức độ và nhịp độ phát triền của
các nước lại khác nhau. Một sự thật đang tồn tại mà chưa có cách nào giải quyết
là người mù chữ ở châu Á-Thái Bình Dương hiện vẫn chiếm một phần lớn trên
thế giới. Do vậy thách thức đặt ra là phải đẩy mạnh việc tiếp cận giáo dục cơ bản
cho mọi người. Mặc dù tỉ lệ học sinh đã tăng tại nhiều nước trong khu vực châu
Á-Thái Bình Dương nhưng 74 triệu (56%) trong số 132 triệu trẻ em trên thế giới
đang ở dộ tuổi đi học (6-11) không được đến trường. Ít nhất 1/3 trong số đang đi
học đã bỏ học trước khi tốt nghiệp tiểu học. Lý do thật dễ hiểu: nghèo đói,
khoảng cách kinh tế xã hội, khác biệt giữa nông thôn và thành thị, quản lý sai
lệch và thiếu các chương trình giáo dục đầy đủ. Hơn nữa, sự khác biệt giới tính
cũng làm cho bức tranh càng u ám: khoảng 46 triệu (62%) trong số 74 triệu trẻ
em không được đi học là các bé gái, tập trung hầu hết ở Nam Á. Phần lớn số
người lớn mù chữ, thanh niên không được đi học đang sống trong những khu
vực tách biệt hoặc trong khu vực nhà ổ chuột, ít được hoặc hầu như không được
tiếp cận với những dịch vụ xã hội, giáo dục, đào tạo và tái đào tạo. Phần lớn
trong số họ đều là người dân tộc thiểu số, người tị nạn hoặc thuộc những thành
phần không được ưu đãi trong xã hội (Ví dụ: phụ nữ, trẻ em nữ). Do vậy, rất
nhiều việc cần phải làm và con đường đi tới giáo dục cho mọi người vẫn còn
đầy chông gai. Hội nghị thế giới về giáo dục cho mọi người đã xác định rằng
vẫn còn nhiều những trở ngại như các nhân tố chính trị, kinh tế và tài chính, sự
thiếu cung cấp giáo dục đẩy đủ, năng lực quản lý yếu kém trong việc thực hiện
chiến lược giáo dục cho mọi người và tình trạng thiếu năng động, trì trệ của các
hệ thống giáo dục.
Các chiến lược cụ thể có liên quan tới giáo dục cho mọi người và giáo dục
suốt đời tập trung vào các vấn đề cụ thể sau:
- Các nguồn giáo dục
Để trợ giúp sự phát triền về số lượng và chất lượng của giáo dục cho mọi
người, nhân tố cơ bản là cải tiến việc sử dụng ngân sách và phân bổ nguồn lực.
- Chiến lược về đội ngũ giáo viên
Để có thể sử dụng tối đa lực lượng giáo viên, cần phải kiểm tra các điều
kiện nhân sự về các kỹ năng, cấu trúc tuổi tác, cân bằng giới tính và phân bổ địa
lý. Cũng cần phải kiểm tra các chính sách tuyển dụng, nhu cầu đào tạo, các hệ
thống thẩm định và phát triền giáo viên và nhu cầu về phân bổ lại đội ngũ giáo
viên. Cần phải có các biện pháp sử dụng hợp lý đội ngũ giáo viên và phát triền
75
những tố chất của họ. Các chính sách quản lý giáo viên hiện cũng là điều đáng
quan tâm.
- Trợ giúp điều hành phi tập trung
Phi tập trung quản lý giáo dục đã được thảo luận từ nhiều năm nay. Tuy
nhiên, nhiều nước chưa thực sự tiến hành ý tưởng này vì các cơ quant rung ương
vẫn muốn duy trì quyền quyết định của mình. Một lý do nữa là các viên chức
nhà nước không muốn ở dưới quyền của chính quyền địa phương. Tuy nhiên
nếu các trường học đáp ứng các nhu cầu của địa phương thì cộng đồng địa
phương cũng cần tham gia vào việc quản lý trường học. Ở địa phương, việc phi
tập trung có thể dưới hình thức quản lý tại trường hoặc quản lý tại địa phương,
trong khi đó cơ quant rung ương quản lý các chính sách, giúp đỡ về kĩ thuật,
giám sát việc tiêu chuẩn hóa và dần dần ủy thác cho các cấp dưới.
- Quan tâm tới các quyền lợi của phụ nữ và tăng cường ảnh hưởng đa dạng
và cống hiến của họ đối với các mục tiêu phát triền của quốc gia. Nữ giới cần
phải được tiếp cận và tham gia bình đẳng vào các hoạt động giáo dục kể cả việc
quản lý.
- Giáo dục thường xuyên và giáo dục lâu dài
Để ủng hộ những cố gắng các nước nhằm giúp đỡ những đối tượng ngoài lễ
xã hội và những thanh niên không được đi học, người ta đã đề nghị phát triền
một chương trình hợp tác liên quốc gia dưới khẩu hiệu “Giáo dục phi chính
quy”. Chương trình này sẽ tạo ra một nền tảng kĩ thuật lý tưởng trong việc trao
đổi kinh nghiệm, định hướng lại và áp dụng những chương trình giáo dục cơ bản
nhằm đáp ứng nhu cầu học tập cơ bản cho những đối tượng liên quan cũng như
việc đánh giá ảnh hưởng thực sự của các chiến lược và các chương trình của các
nước thành viên. Giáo dục thường xuyên phải được coi như hình thức đầu tư sản
xuất mà nó sẽ mang lại kết quả tích cực không chỉ đối với tăng trưởng kinh tế
mà còn nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triền toàn bộ của con người.
- Giáo dục trẻ em khuyết tật và giáo dục cho trẻ em từ khi còn nhỏ tuổi
(dưới 5 tuổi)
Gia đình, nhà trường và cộng đồng phải phối hợp hành động thông qua việc
thực hiện xem xét các chương trình đào tạo, các hoạt động kế hoạch quy mô
nhỏ, và nâng cao nhận thức của giáo viên và cha mẹ về những nhu cầu của
những nhóm tuổi nhất định.
4.2.2. GIÁO DỤC VÌ SỰ PHÁT TRIỂN VÀ CHUYỂN ĐỔI KINH TẾ XÃ
HỘI
76
“Xóa đói giảm nghèo là sự tối cần thiết về đạo đức, xã hội, chính trị và
kinh tế đối với nhân loại”. Đây là tuyên bố của thập kỉ Liên Hợp Quốc 1997-
2006 về xóa đói giảm nghèo. Ước chừng hơn 1 tỷ người tại các nước đang phát
triền đang sống cực kỳ nghèo khổ, 3/4 trong số họ là châu Á-Thái Bình Dương
và một nửa ở Nam Á.
Xóa đói giảm ngheo thông qua các hành động quốc gia và hợp tác quốc tế
đã trở thành mục tiêu lớn trong thập kỉ này. Tuy nhiên, giữa các nhân tố chính trị
và cải cách kinh tế, xóa đói giảm nghèo và việc nâng cao chất lượng cuộc sống
nói chung cần phải có những hành động thống nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dubaophattriengiaoducphan2_7812.pdf