Dự báo phát triển giáo dục

Điều này rõ rang nhất trong khu vực là thay đổi về môi trường kinh tế.

Năm 1996, các chiến lược được hình thành trong bối cảnh nền kinh tế đang tăng

trưởng, ngày nay, hầu hết các nước trong khu vực đang ở trong thời kỳ suy thoái

kinh tế. Tuy nhiên không chỉ kinh tế mà tình hình chính trị cũng đã có nhiều

thay đổi. Gần 1/4 sốnước trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã thay đổi

Chính phủ hoặc ít nhất là thay đổi Bộ trưởng Giáo dục. Những chính sách và các

nhà hoạch định chính sách mới mang lại những ưu đãi và kỳ vọng mới đối với

hệthống giáo dục trong nước của họ. Ngoài kinh tế và chính trị, công nghệvà

sựbùng nổ của thông tin đã mởra những khả năng mà ngành giáo dục mới chỉ

bắt đầu sử dụng một cách chậm chạp.

pdf77 trang | Chia sẻ: thienmai908 | Lượt xem: 1576 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Dự báo phát triển giáo dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c của các nước, nhưng về bản chất, lại đều có tính chất chung của nó. Nói chung, các học giả về tương lai đều thích phương pháp “học tập trong thao tác thực tế”. Nội dung của môn học không còn là hệ thống kiến thức ổn định và bất biến, tuyệt đối khách quan nữa; mục tiêu của môn học cũng không còn hoàn toàn như dự định trước, mà đã trở thành quá trình thày trò cùng tìm tòi kiến thức mới. Có thể thấy trước, việc cải cách giáo dục của các nước được triển khai với chủ đề các môn học “Thế kỉ 21” sẽ phá vỡ những tập tục cũ của nền giáo dục truyền thống, làm cho lớp học được mở rộng; các thày giáo từ chỗ giảng dạy, hành nghề theo truyền thống, trở thành người hợp tác để làm cho học sinh tiến vào xã hội tương lai, cuối cùng sẽ chuẩn bị học sinh đóng trọn vai trò của mình đối với tương lai, tích cực hướng vào mục tiêu lớn ngày một lành mạnh - nỗ lực xây dựng một tương lai tươi đẹp và hợp lý. 3. Kỹ thuật giảng dạy đa phương tiện mới mẻ Kỹ thuật đa phương tiện (Multimedia) là loại kỹ thuật đang được chú ý nhất, nó là cơ sở quản lý và xử lý theo kiểu tin học thể kỉ 21. Trước đây, máy tính chỉ có thể xử lý đơn cực là văn tự và chữ số, cùng lắm là hình họa, gây cảm giác đơn điệu, cứng nhắc, khô khan, dễ nhàm chán. Kỹ thuật đa phương tiện là xử lý tổng hợp kiểu trao đổi trên máy vi tính cả về chữ viết, hình họa, hình ảnh, âm thanh v.v…, chúng thiết lập mối liên kết logic, tập hợp thành một hệ thống. Lợi dụng kỹ thuật đa phương tiện để giở “thư mục” điện tử, dùng ngón tay chỉ vào bất cứ vị trí nào trên màn hình đều có thể tìm ra những tình tiết lý thú; sờ tay vào bầu trời; vào tầng mây sẽ chui ra một chiếc máy bay; chạm tay vào vòm cây, một con chim nhỏ sẽ rẽ lá bay ra. Xem kịch truyền hình, nếu không thích thú, ta có thể thay đổi tình huống kịch, để các diễn viên biểu diễn theo ý muốn của ta. Học phát âm một từ tiếng Anh, nếu phát âm đúng, máy tính sẽ khích lệ ta, nếu đọc sai, máy tính sẽ nhắc nhở ta và bảo ta phải sửa âm. Theo đà phát triển của kỹ thuật đa phương tiện, một hình thức giảng dạy mới được hình thành - sự xuất hiện của hệ thống giảng dạy máy tính đa phương tiện. Nó là mạng máy tính mà thày giáo giảng qua máy chủ và các học sinh nghe giảng qua mạng máy tính. Thày giáo nói với học sinh qua một máy chủ điều khiển đến từng máy trong mạng, học sinh ngồi nghe thầy giáo giảng trước màn 57 hình máy tính.Trong cách giảng dạy đa phương tiện, học sinh học tập với tư cách là chủ thể. Giúp cho học sinh sẽ làm thay đổi rất lớn giáo trình và giáo án. Giáo trình không chỉ vẻn vẹn là những cuốn sách in, mà còn là loại sách giáo khoa điện tử có đủ cả chữ nghĩa, hình ảnh và tiếng nói. Giúp cho học sinh sẽ làm cho hình thức giảng dạy sống động, các biện pháp giảng dạy càng đa dạng hóa. Giúp cho học sinh ủng hộ các phương thức học tập khác nhau, biến sự tiếp thu thụ động thông tin thành chủ động tiếp thu thông tin, kích thích tính sáng tạo của học sinh. Mạng máy tính đa phương tiện càng thuận lợi cho việc thực hiện giáo dục từ xa, các học sinh ở vùng biên giới cũng có thể nghe được, nhìn được các nhà khoa học nổi tiếng ở các thành phố lớn. Kỹ thuật đa phương tiện có khả năng biến việc giảng dạy ở lớp làm chính thành lấy việc giảng dạy tại gia làm chính, và việc tiếp tục giảng dạy hoàn toàn có thể hướng về gia đình. Theo dự đoán của các chuyên gia, sau khi xa lộ thông tin xây dựng xong, thông qua việc giảng dạy từ xa theo kiểu trao đổi giữa hai phía, thời gian học tập của học sinh có thể giảm 40% so với trước, nhưng kiến thức thu nhận được sẽ tăng 30%, chi phí cũng tiết kiệm được 30%. Có thể dự kiến, theo đà mỗi ngày một hoàn thiện mau lẹ của kỹ thuật thông tin và kỹ thuật máy tính, trong tương lai không xa, phạm vi sử dụng kỹ thuật đa phương tiện sẽ càng ngày càng mở rộng. 4. Các công ty đại học mọc lên ồ ạt Đứng trước những yêu cầu nẩy sinh của xã hội đang thay đổi từng ngày, giáo dục không chỉ là niềm hứng thú tao nhã - một sự thụ hưởng văn hóa, mà nó còn là công cụ quan trọng tạo ra lợi nhuận cho xã hội và bồi dưỡng những nhân tài mới cho xã hội. Những chuyển biến thay đổi quan điểm này, ấp ủ và làm nẩy nở trong lòng nó một biến đổi kinh ngạc trong nền giáo dục Âu - Mỹ ở những năm 90 - Trường đại học trở thành công ty. Sự biến đổi này thể hiện dấu ấn nào đó của việc cải cách giáo dục đại học trong giai đoạn giao thời thế kỷ. Năm 1969, Trường đại học Cambridge có cả 700 năm lịch sử đã đầu tiên bước vào con đường “Công ty đại học”. Đại học Cambridge đã tập kết đa số công ty kỹ thuật và các ngành nghề của nó, bao gồm phần cứng và phần mềm máy tính, các máy móc khoa học điện tử, kỹ thuật sinh vật v.v… đồng thời lắp đặt các loại thiết bị có thể sử dụng chung. Vì một loạt công ty kỹ thuật này có đủ năng lực nghiên cứu và chế tạo, thiết kế, sản xuất những sản phẩm chất lượng 58 cao, nên các công ty này đã làm cho tỷ lệ lợi tức của vườn khoa học Cambridge tăng vụt lên. Cambridge đã thể hiện rõ cho Chính phủ và thế giới biết: Trường đại học có thể đóng góp công sức cho sự phát triển xã hội, có thể cung cấp cho xã hội những nhân tài hàng đầu, có thể cung cấp cho ngành giáo dục kinh nghiệm đầu tiên về cải cách phương thức giảng dạy, về học đi đối với hành, tăng cường giáo dục chiều sâu. Sự liên kết giữa trường đại học với công ty có thể sang tạo ra những sản phẩm kỹ thuật phong phú và hùng hậu, tạo ra hang loạt nhân tài và những kinh nghiệm giảng dạy phong phú. Ngày nay, các nước đều đang lập các vườn khoa học, các khu công nghiệp xung quanh trường đại học, trường đại học liên kết với các xí nghiệp ngày một nhiều, và trở thành một khối, Công ty đại học đang trở thành xu thế phát triển tất yếu, tạo thời cơ phát triển cho trường đại học và xí nghiệp. Quan sát một cách tổng thể việc sáng lập ra các công ty đại học những năm gần đây ở Mỹ và một số nước châu Âu về đại thể có những đặc điểm sau: 1. Dùng phương thức thị trường để thu hút sinh viên, mời các học giả nổi tiếng đến dạy. 2. Công ty hóa trường đại học tức là có thể làm cho việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học trực tiếp hướng về sản xuất, về quản lý kinh doanh, có thể làm gia tăng thu nhập tài chính, và nhân đó, không ngừng cải thiện điều kiện xây dựng trường, nâng cao địa vị của nhà trường. 3. Công ty hóa trường đại học làm cho mối quan hệ giữa xí nghiệp và giáo dục ngày càng mật thiết, trường đại học và xí nghiệp tương hỗ, tương lợi, bình đẳng về lợi ích trên phương tiện dịch vụ kỹ thuật, do vậy mà tăng cường hợp tác giữa hai bên. Do những ưu điểm dễ thấy như vậy, các “Công ty đại học” đang mọc lên như nấm, từ nước Mỹ đến châu Âu, rồi tiến tới toàn thế giới. Những công ty đại học với những hình thức khác nhau và sự ra đời của xí nghiệp hóa trường đại học, báo trước xu thế quan trọng của sự phát triển giáo dục. 5. Xu thế dân học tập suốt đời phát triển mạnh Năm 1972, Ủy ban quốc tế đưa ra bản báo cáo có tên gọi là “Sự tồn tại của học hội: Giáo dục thế giới hôm nay và ngày mai”, báo cáo này đã chính thức xác nhận bằng văn bản lý luận giáo dục suốt đời do Cục trưởng Cục tổ chức giáo dục suốt đời, Paolô Langơ đưa ra giữa những năm 60. Hai mươi năm nay, quan niệm giáo dục suốt đời dần dần thâm nhập sâu vào lòng người. Nguyên tắc giáo dục suốt đời được thế giới tiếp thu một cách phổ biến. 59 Mục tiêu giáo dục suốt đời tiến hành ở các nước đã chỉ ra xu thế chung: Việc giáo dục sau này nên tùy theo thời điểm, nhu cầu của mỗi cá nhân, dùng phương pháp có hiệu quả nhất, cung cấp cho họ những kiến thức và kỹ năng thiết yếu. Nó vạch ra phương hướng chung của giáo dục trong tương lai, với ý nghĩa là đưa giáo dục vào cả đời người, biến việc học tập thành quá trình không ngừng nâng cao năng lực. Trong xã hội tương lai khoa học phát triển cao độ và xã hội biến đổi dữ dội, con người cần được bồi dưỡng những năng lực thích ứng với những biến đổi đó, cần có ý thức về tương lai, cần có năng lực suy nghĩ và lý giải tương lai, những năng lực ấy có được lại tùy thuộc vào tính liên tục và tính kịp thời của giáo dục; tùy thuộc vào đặc trưng cơ bản của việc thúc đẩy và cấu thành tương lai của giáo dục: tính chất suốt đời. Xã hội truyền thống chia đời người thành 3 giai đoạn: đến trường, làm việc và nghỉ hưu. Nền giáo dục truyền thống cho rằng số kiến thức và kỹ năng học được ở trường lúc còn trẻ về cơ bản có thể dùng cho suốt đời. Thế nhưng theo đà phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của KHKT, chế độ giáo dục truyền thống này đã bộc lộ rõ rang những thiếu sót của nó. Một cuộc điều tra khóa học sinh tốt nghiệp năm 1970 ở Mỹ đã chứng tỏ rằng đến năm 1980, kiến thức của họ đã hao mòn mất 50%, đến năm 1986 thì số kiến thức này đã lão hóa hoàn toàn. Nước ta cũng đã có cuộc điều tra đối với số học sinh thuộc bộ môn khoa học nhất định năm 1965, kết quả chứng tỏ, đến năm 1970, kiến thức của họ đã lạc hậu 45%, đến năm 1975, tỷ lệ này lên tới 75%. Mặc dù phương pháp tính toán sự mòn cũ của kiến thức có khác nhau, nhưng ngày nay, sự bùng nổ về kiến thức thông tin học nhiều đến mức không nghiên cứu kỹ được, thì khối lượng kiến thức được ứng dụng của một nhân viên KHKT chỉ có khoảng 20% kiến thức học được ở trường học truyền thống; 80% số kiến thức còn trống là do nhu cầu công việc và đời sống mà không học được, đó là một sự thực rất rõ rang. Dựa vào điểm đó, các nước phát triển nhấn mạnh việc tăng cường giáo dục tại chức, tích cực thực hiện giáo dục suốt đời. Theo thực tiễn của nhiều quốc gia Âu - Mỹ, thì việc giáo dục suốt đời sẽ được tiến hành rộng rãi trong phạm vi toàn cầu trong tương lai, không chỉ bao gồm việc giáo dục ở trường truyền thống trước tuổi đi làm - mà còn mở rộng giáo dục vỡ lòng về trí tuệ cho các em, trước khi đi học với giáo dục tiểu học được tăng cường thêm một bước. Ngoài ra, còn tiếp tục giáo dục sau trung học, sau đại học, bổ sưng kiến thức và bồi dưỡng tại chức kỹ thuật cho các thạc sĩ, tiến sĩ, thực hiện giáo dục tại chức và giáo dục cho người già. Ở một số nước, thậm chí còn có cả giáo dục về cái chết trước khi chết, các quan tâm đến tuổi sắp về thế giới bên kia và sự chuẩn bị về tâm lý cho người già. 60 Về mặt thời gian, giáo dục sẽ kéo dài suốt đời người, về mặt không gian, giáo dục sẽ mở rộng đến toàn xã hội. Điều đó không những chỉ hàm chứa ý nghĩa là trong xã hội tương lai, mỗi người đều tiếp thu giáo dục và học tập bất cứ lúc nào và ở đâu, mà còn hàm chứa ý nghĩa mỗi người trong xã hôi tương lai đều học tập qua việc tham dự những hoạt động xã hội, và cả xã hội tương lai sẽ gánh vác chức năng giáo dục. Việc thúc đẩy toàn dân giáo dục suốt đời đòi hỏi luật pháp bảo đảm mỗi người không phân chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo tín ngưỡng đều có quyền bình đẳng có cơ hội học nghề thành công. “Sự bình đẳng có cơ hội học nghề thành công” tức là mỗi người đêu có thể được giáo dục thích đáng, đều có thể đạt tới chuẩn mực giáo dục khiến họ vừa lòng. Ngày nay, người ta coi sự bình đẳng về cơ hội học nghề là một mục tiêu trọng yếu của dân chủ hóa giáo dục. Mặc dù mục tiêu này không thể thực hiện tức thời, song người ta vẫn không mất lòng tin, và đang cố gắng đấu trang với sự thất học về nghề nghiệp. 6. Làn song tư doanh hóa trường công Mở đầu những năm 90 ở một số thành phố Mỹ xuất hiện làn song tư doanh hóa trường công, hướng cải cách này đã gây ra sự chú ý lớn và sự phản ứng mạnh mẽ trên toàn cầu. Tuy nhiên nhiều quốc gia phát triển đã học tập theo và đang có những tác dụng đáng kể. Sự xuất hiện của làn sóng tư doanh hóa trường công có nguyên nhân sâu xa về lịch sử và hiện thực. Lấy trường công làm cơ cấu giáo dục là thể hiện sự dân chủ, là thực hiện sự bình đẳng dân tộc và sự đồng đều về cơ hội kinh tế, luôn được coi là liều “thuốc vạn năng” và được chấp nhận, nhất là trong giai đoạn phồn vinh của những năm 60. Song bắt đầu từ những năm 70, nguy cơ chính trị và kinh tế xã hội buộc người ta phải nhìn nhận lại chức năng về hiệu quả của cacs trường công. Kết quả điều tra phát hiện ra rằng trường công không phải là vạn năng - chúng không phải luôn đào tạo ra những học sinh thích ứng với yêu cầu của quốc tế và trong nước. Một số trường tư, ở mức độ nhất định, đòi hỏi chi phí ít hơn trường công. Mặc dù trường tư có một số đặc tính khác như mở rộng mâu thuẫn chủng tộc và tôn giáo, phân cách giàu nghèo rõ rang, song xét về ý nghĩa giáo dục, một số trường tư mới thực sự là trường học, những học sinh được đào tạo ở đây mới là những học sinh chân chính. Tư doanh hóa trường công đại thể được phân thành một số hình thức cơ bản sau: 61 ƒ Công ty nhận kinh doanh. Cách làm đó bắt đầu từ năm 1992 đã trở thành cuộc thí điểm bước đầu. Thành phố Bantimore mang 9 trường công giao cho công ty giáo dục (EAI) kinh doanh, Công ty đảm nhận làm sạch trường lớp, đồng thời nâng cao thành tích dạy học không khống chế việc bổ nhiệm thày giáo và trả lương cho giáo viên rộng rãi. ƒ Ngoài việc các trường công do các công ty bao thầu kinh doanh ra, mấy năm gần đây ở Mỹ còn xuất hiện chế độ cho phép cá nhân mở trường và quản lý trường công. Đó có thể là trường mới xây dựng và cũng có thể là trường công sẵn có. Quyền pháp nhân độc lập được pháp luật bảo hộ. Mặc dầu mô típ tư doanh hóa trường công là muôn hình, muôn vẻ, song chúng có nhiều điểm chung: 1-bất luận là mô típ nào, đều là sự tuyên chiến với chế độ trường công hiện hành. 2- Cơ sở lý luận của nó đều bắt nguồn từ lý luận tư hữu hóa. 3- Mục đích cuối cùng của nó đều được thực hiện giảm chi, tăng thành quả, nâng cao chất lượng giáo dục, bồi dưỡng cho học sinh có nhiều năng lực cạnh tranh, giành được sự tán đồng và ủng hộ của công chúng. Tuy nhiên, dù điều hành theo phương thức công ty tư nhân, trường học không thể dành cho thương nhân quản lý. Trường học không thể biến thành một “cửa hàng” thuần tùy, điều đó được quyết định bởi bản chất nhà trường là nơi giáo dục con người. Về chuyện đó, Hội trưởng Hội Giáo dục toàn nước Mỹ, Kiơn Gaigơ nhận thức rất tỉnh táo, ông nói: “Biến nhà trường thành thực thể doanh lợi, thành thực thể kinh tế thuần túy, thì không thể thu được thành tựu về giảng dạy”. Đấy là khuynh hướng cần phải tránh trong khi phát triển tư doanh hóa trường công. XI. DỰ BÁO CHIẾN LƯỢC GIÁO DỤC CỦA MỘT SỐ NƯỚC 1. MỸ 1.1. Một số tình hình chung Trung tâm quốc gia về thống kê Giáo dục (NCES, National Centre for Educational Statistics) tại Mỹ là tổ chức có chức năng thu thập, phân tích và báo cáo các số liệu có liên quan tới giáo dục của Mỹ và các nước khác. Trung tâm này có trách nhiệm cung cấp các số liệu về các nhu cầu ưu tiên của giáo dục, đồng thời cung cấp các chỉ số và tiêu chí chính xác, đầy đủ và đáng tin cậy về tình trạng và xu thế của giáo dục. Tháng 4 năm 1997 NCES thực hiện hàng loạt điều tra về giáo dục tại Mĩ và một số nước và đã đưa ra một số nhận định quan trọng. Trong số các nhận đình này, có một số nhận định đáng chú ý như sau: 62 - Năng suất lao động của người lao động ở Mĩ đã không ngừng tăng từ sau đại chiến thế giới lần thứ hai những mức tăng năng suất lao động giảm từ sau năm 1973. Đặc biệt mức tăng năng suất lao động ở Mĩ chậm hơn các nước phát triển khác. - Sự phát triển của Giáo dục từ lâu đã là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sự tăng năng suất lao động. Các nước công nghiệp phát triển có mức năng suất lao động cao đều là các nước có lực lượng lao động có trình độ giáo dục cao. Các số liệu thống kê đồng thời cũng chỉ ra là giáo dục đã làm tăng cường tính ổn định nghề nghiệp của người lao động ở Mỹ, cho phép những người lao động có trình độ giáo dục tốt hơn có thể duy trì nghề nghiệp của họ và có thể dễ dàng tìm được việc làm trong điều kiện kinh tế thay đổi. Mối quan hệ giữa giáo dục và tình trạng thất nghiệp chính là một tiêu chí biểu thị ảnh hưởng của Giáo dục và năng suất lao động chung. - Hiệu suất giáo dục của Mĩ tăng trong vòng 20 năm qua. Tỉ lệ thanh thiếu niên trong độ tuổi 18-24 hoàn thành giáo dục trung học đã tăng từ 83% ở năm 1972 lên 86% ở năm 1994. Số học sinh tốt nghiệp trung học tiếp đại học và cao đẳng cũng tăng lên từ 49% (1972) đến 62% (1994). Tuy nhiên rất nhiều sinh viên đăng kí học cao học và đại học đã không kết thúc khóa học. Năm 1994 tỉ lệ sinh viên như vậy chỉ là 27% tức là chỉ hơn đôi chút con số ở thời điểm 20 năm trước đó. - Học sinh Mĩ thua kém học sinh nhiều nước về thành tích học Toán và khoa học nhưng học sinh Mĩ có khả năng dẫn đầu về thành tích đọc (reading). - Trình độ đọc viết (“Literacy” - được hiểu là kĩ năng diễn đạt, kết hợp, so sánh, đối lập các thông tin, sử dụng các tài liệu viết thông dụng) của một tỉ lệ cơ bản lực lượng lao động Mĩ rất hạn chế. Chỉ có một tỉ lệ nhỏ người lao động có trình độ đọc viết thực sự cao. 1.2. Phương châm giáo dục ở thế kỉ 21 của Mĩ ƒ Hội đồng Phát triển Bền vững của Mĩ trực thuộc Tổng thống đã xác định vai trò của giáo dục như là một thành tố quan trọng trong chiến lược dài hạn nhằm tái xây dựng các cộng đồng và quốc gia trong thế kỉ 21. Phương châm phát triển giáo dục của Mĩ là: Giáo dục vì sự phát triển bên vững (Education for Sustainability). Phương châm này được hiểu như sau: Đảm bảo cho tất cả mọi công dân Mĩ có cơ hội bình đẳng để tiếp nhận giáo dục và học tập suốt đời, nhằm chuẩn bị cho học các lao động có ý nghĩa, 63 cuộc sống với chất lượng cao và sự hiểu biết cần thiết có liên quan tới sự phát triển bền vững. ƒ Các tiêu chí nhằm xác định được thành tựu của giáo dục vì sự phát triển bền vững cũng được xác định như sau: + Cơ hội tiếp cận thông tin: Số lượng lớn người dân trong cộng đồng được trang bị cơ hội tiếp nhận thông tin. + Các chuẩn quốc gia: Số lượng lớn hệ thống các nhà trường thực hiện dạy học theo chuẩn quốc gia. + Sự tham gia của cộng đồng: Số lượng lớn các trường học và cộng đồng tham gia vào các chương trình giáo dục suốt đời thông qua các hình thức học tập chính quy và phi chính quy. + Thành tích học tập quốc gia: Thành tích học tập của học sinh Mĩ được đánh giá bằng các hệ thống test quốc gia. + Tỉ lệ tốt nghiệp của học sinh, sinh viên: Tỉ lệ tăng lên của sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng và tỉ lệ tăng của số học sinh tham dự học tại các trường cao đẳng, dạy nghề v.v… ƒ Các mục tiêu cụ thể của Giáo dục vì sự phát triển bền vững nhằm thể hiện được phương châm giáo dục vì sự phát triển bền vững: Nước Mĩ đã xác định các mục tiêu cụ thể nhằm đạt được sự phát triển bền vững: + Đảm bảo nhận thức sự hiểu biết về phát triển bền vững phải có mặt trong ý thức của tất cả mọi tầng lớp xã hội. + Đảm bảo có các đối thoại thường xuyên giữa các cử tri và nghị sĩ về sự phát triển bên vững để tạo ra sự nhất trí cao. + Phát triển các kĩ năng, thái độ, động cơ và giá trị nhằm tạo ra các hành động vì sự phát triển bền vững và tạo ra các cam kết mạnh mẽ đối với các hoạt động cá nhân và tập thể vì một thế giới phát triển bền vững. ƒ Các nguyên tắc của giáo dục vì sự phát triển bền vững ở thế kỉ 21 của Mĩ: + Giáo dục vì sự phát triển bền vững phải lôi kéo sự tham dự của tất cả mọi người, bao gồm các trường học, cộng đồng. Các nhà giáo dục phải “vượt ra khỏi các bức tường của nhà trường” để lôi kéo cha mẹ học sinh, cộng đồng, các cơ quan chính phủ vào quá trình giáo dục. Các trường cao đẳng, đại học phải hoạt động trong sự kết hợp với các nhà trường khác và các cộng đồng nhằm thực hiện các đề tài nghiên cứu và cung cấp các dịch vụ, giải quyết các vấn đề của cộng đồng. 64 + Giáo dục vì sự phát triển bền vững phải thể hiện được tính liên kết. Tính liên kết ở đây được thể hiện ở tinh thần liên môn, sự liên kết giữa tất cả các môn học, mối liên hệ về địa lí và văn hóa. + Giáo dục vì sự phát triển bền vững phải nhấn mạnh tính thực tiễn của quá trình dạy học. + Giáo dục vì sự phát triển bền vững phải là quá trình học tập suốt đời đối với mọi công dân. 1.3. Kế hoạch 10 điểm cụ thể của Tổng thống Mĩ về giáo dục ở thế kỉ 21 Nhằm thể hiện phương châm và các mục tiêu giáo dục của Mĩ, ngày 21/5/1997 Tổng thống Mĩ Clintơn đã tuyên bố kế hoạch 10 điểm cụ thể của Giáo dục Mĩ ở thế kỉ 21, kêu gọi các cha mẹ, giáo viên, học sinh, các thương gia, các nhà lãnh đạo và các công chức Mĩ cùng hoạt động nhằm thực hiện một kế hoạch tham vọng là nước Mĩ sẽ có được một nền giáo dục tốt nhất ở thế kỉ 21. Kế hoạch gồm các điểm tóm tắt sau: 1. Xây dựng chuẩn quốc gia nghiêm khắc và hệ thống test về tập đọc ở lớp 4 và test Toán ở lớp 8 nhằm đảm bảo học sinh phải nắm vững các kiến thức cơ bản. 2. Đảm bảo mỗi lớp học phải có giáo viên giỏi và tận tụy. 3. Dạy học sinh đọc thành thạo ở cuối lớp 3. 4. Lôi cuốn cha mẹ tham gia tích cực vào giáo dục trẻ từ trước tuổi đến trường. 5. Mở rộng các cơ hội lựa chọn trường học trong hệ thống các trường công đảm bảo cho các bậc cha mẹ có thể chọn được trường thích hợp nhất cho con em mình. 6. Đảm bảo sự an toàn, kỉ luật, không có nạn ma túy trong các trường học với sự duy trì các giá trị Mĩ. 7. Hiện đại hóa các nhà trường cùng với việc hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất các nhà trường. 8. Mở rộng cửa các trường cao đẳng và đại học cho tất cả những ai làm việc và học tập chăm chỉ. 9. Tạo điều kiện cho tất cả mọi người có điều kiện tiếp tục phát triển học vấn và kĩ năng cần thiết mà họ mong muốn bằng việc tăng cường các cơ hội đào tạo và huấn luyện tại chức. 10. Thực hiện việc nối mạng internet của mọi lớp học và mọi thư viện vào năm 2000 nhằm giúp tất cả mọi học sinh được phổ cập công nghệ tin học. 65 2. Dự báo phát triển giáo dục của cộng hòa Pháp Bộ Giáo dục quốc gia Pháp đã nêu lên 49 nguyên tắc mới cho giáo dục, trong đó có thể thấy rõ những tư tưởng cơ bản như: giảm nhẹ chương trình, rút ngắn giờ học đối với học sinh trung học, theo dõi cá nhân học sinh chặt chẽ, nâng cao địa vị và chất lượng giáo viên, gắn nhà trường với xí nghiệp… Đây là các vấn đề đang được thảo luận hết sức rộng rãi. Trong 49 nguyên tắc này có thể thấy rõ một số điều quan trọng sau: 1. Mục tiêu đào tạo của trường trung học: Trường trung học là nơi đào tạo các công dân của một xã hội tương lai. Trường học phải phát triển được trong họ “óc phê phán và ý thức cảnh giác đối với mọi hình thức gian trá và cực quyền”. 2. Chương trình dạy học: • Làm cho chương trình trong trường học trở thành khuôn mẫu. Kể cả đối với trường tư, chương trình cũng phải được xác định tương ứng với “chính sách chung về quy hoạch lãnh thổ và công bằng xã hội”. Sự điều tiết này là cần thiết để dập tắt hiện tượng chủ nghĩa riêng biệt đang lan rộng trong một số cơ sở trường học. • Chương trình quốc gia phải chuẩn bị cho sự chuyên môn hóa, gắn chặt với nghề nghiệp ở giai đoạn cuối. • Chương trình phải mang tới cho học sinh một “nền văn hóa chung”, bao gồm sự hiểu biết về xã hội (những yếu tố về pháp luật, các nguyên tắc chi phối cuộc sống…) và một tập hợp các kiến thức khoa học cơ bản và đồng bộ. 3. Giáo dục hướng nghiệp: Mỗi năm học một thông tin mới nhất về hướng nghiệp sau trung học được thông báo đến trường học sinh và cha mẹ học sinh, giới thiệu “khung đào tạo của vùng và triển vọng của việc làm” cũng như thông báo về các địa chỉ cần thiết. 4. Giáo dục cá nhân: Chú trọng tới việc dạy học theo cá nhân. Những sự kèm cặp cá nhân thường xuyên cho phép học sinh đang gặp những khó khăn trong một môn học nhận được những lời khuyên, nhận được sự giúp đỡ cần thiết và kịp thời từ phía giáo viên. 5. Tính liên môn: Giảm bớt tình trạng nhiều môn học bằng việc tăng cường các môn học kết hợp. 6. Liên kết trong giáo dục: Tăng cường sự liên hệ giữa nhà trường và các xí nghiệp. Trường trung học là nơi “tuyên truyền các sang tạo công nghệ và cải cách nghề nghiệp”. Ngược lại, các xí nghiệp tìm được ở các nhà trường “các trung tâm nguồn trong việc đào tạo và sáng tạo công nghệ”. 66 7. Các trường trung học nghề: Trường trung học nghề phải thích nghi với khu vực, việc đào tạo phải phù hợp với sơ đồ đào tạo nghề nghiệp đã được xác định trong kế hoạch giáo dục của khu vực. 8. Đánh giá: • Vẫn giữ kì thi tú tài nhưng có thay đổi và giảm nhẹ đôi chút. Nó chỉ còn là “một kì kiểm tra bình thường cỡ quốc gia”. • Sử dụng một “Sổ học bạ mở rộng” để đánh giá chung và toàn diện năng lực và phẩm chất của mỗi cá nhân học sinh. • Một kì thi mới ở lớp đệ nhất. Ngoài việc kiểm tra môn tiếng Pháp học sinh phải viết 1 tài liệu nghiên cứu về 1 chủ đề tự chọn khoảng 20 trang và bảo vệ trước 1 hội đồng đánh giá. 9. Thời lượng học tập: • Một trường trung học mở cửa hơn. Mọi học sinh đều có quyền có “một thời gian có mặt hàng tuần là 35 giờ” tại trường, việc này cho phép học sinh có thể tìm thấy sự giúp đỡ hay lấy tư liệu để làm bài. • Ưu tiên cho việc đọc sách. Thời gian rỗi cần phải được dùng để “đọc các tác phẩm bổ sung hay tạp chí”, mà mỗi môn học đòi hỏi và được tính điểm khi chấm bài. • Các giờ lên lớp giảm. Trong giảng d

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfjkadbgla';gjasdhg[pa; (41).pdf
Tài liệu liên quan