Trên cơ sở phân tích bối cảnh trong nước và quốc tế, xác định nhu cầu phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập quốc tế, ngày 4/11/2013, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam (khoá XI) đã thông qua Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn
bản, toàn diện GDĐT đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Quan điểm chỉ
đạo đổi mới giáo dục của Nghị quyết là: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu
trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi
đôi với hành; lí luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia
đình và giáo dục xã hội.” Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong những năm qua,
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tập trung chỉ đạo đổi mới đồng bộ các hoạt động giáo dục
nhằm tạo ra sự chuyển biến cơ bản về đổi mới phương pháp dạy học (PPDH), kiểm
tra, đánh giá góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong các trường phổ thông. Tuy
nhiên để việc đổi mới giáo dục thực sự có hiệu quả, điều cốt yếu nhất vẫn là sự thay
đổi nhận thức của đội ngũ giáo viên (GV). Sự thay đổi đó cần được bắt đầu từ những
buổi sinh hoạt chuyên môn (SHCM). Có thể nói SHCM là một trong những yếu tố
quyết định đến hiệu quả dạy học, góp phần quan trọng đến chất lượng giáo dục của
các nhà trường, nhưng thực tế cho thấy ở các trường phổ thông hiện nay, SHCM vẫn
chưa thực sự được đổi mới. Chính vì vậy, cần đổi mới SHCM theo hướng nghiên
cứu bài học (NCBH) nhằm nâng cao chất lượng dạy học, kiểm tra, đánh giá đáp ứng
chương trình sách giáo khoa mới.
8 trang |
Chia sẻ: Thục Anh | Ngày: 13/05/2022 | Lượt xem: 348 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học nhằm nâng cao chất lượng dạy học ở trường THCS, đáp ứng chương trình sách giáo khoa mới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỷ yếu hội thảo khoa học246
ĐỔI MỚI SINH HOẠT CHUYÊN MÔN THEO HƯỚNG NGHIÊN CỨU BÀI
HỌC NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG THCS,
ĐÁP ỨNG CHƯƠNG TRÌNH SGK MỚI
ThS. Đoàn Thị Kim Nhung
Khoa THCS, Trường CĐSP Nghệ An
1. Mở đầu
Trên cơ sở phân tích bối cảnh trong nước và quốc tế, xác định nhu cầu phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội
nhập quốc tế, ngày 4/11/2013, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam (khoá XI) đã thông qua Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn
bản, toàn diện GDĐT đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Quan điểm chỉ
đạo đổi mới giáo dục của Nghị quyết là: “Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu
trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi
đôi với hành; lí luận gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia
đình và giáo dục xã hội.” Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong những năm qua,
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tập trung chỉ đạo đổi mới đồng bộ các hoạt động giáo dục
nhằm tạo ra sự chuyển biến cơ bản về đổi mới phương pháp dạy học (PPDH), kiểm
tra, đánh giá góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong các trường phổ thông. Tuy
nhiên để việc đổi mới giáo dục thực sự có hiệu quả, điều cốt yếu nhất vẫn là sự thay
đổi nhận thức của đội ngũ giáo viên (GV). Sự thay đổi đó cần được bắt đầu từ những
buổi sinh hoạt chuyên môn (SHCM). Có thể nói SHCM là một trong những yếu tố
quyết định đến hiệu quả dạy học, góp phần quan trọng đến chất lượng giáo dục của
các nhà trường, nhưng thực tế cho thấy ở các trường phổ thông hiện nay, SHCM vẫn
chưa thực sự được đổi mới. Chính vì vậy, cần đổi mới SHCM theo hướng nghiên
cứu bài học (NCBH) nhằm nâng cao chất lượng dạy học, kiểm tra, đánh giá đáp ứng
chương trình sách giáo khoa mới.
2. Nội dung
2.1. Một số vấn đề về sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học
2.1.1. Sinh hoạt chuyên môn
Sinh hoạt chuyên môn là hoạt động thường xuyên theo định kỳ nhằm bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực sư phạm cho GV theo chuẩn nghề nghiệp thông qua
việc dự giờ, phân tích bài học.
2.1.2. Nghiên cứu bài học
Thuật ngữ NCBH có nguồn gốc trong lịch sử giáo dục Nhật Bản, từ thời Meiji
(1868 -1912), như một biện pháp để nâng cao năng lực nghề nghiệp của GV thông
qua nghiên cứu cải tiến các hoạt động dạy học các bài học cụ thể, qua đó cải tiến chất
lượng học của HS. Cho đến nay NCBH được xem như một mô hình và cách tiếp cận
nghề nghiệp của GV và vẫn được sử dụng rộng rãi tại các trường học ở Nhật Bản,
hình thức này đã được áp dụng trên nhiều nước, bước đầu được áp dụng ở Việt Nam
và đã chứng minh được tính khả thi của nó trong việc bồi dưỡng và phát triển năng
Kỷ yếu hội thảo khoa học 247
lực chuyên môn của GV so với các phương pháp truyền thống khác. Điều đó cho thấy
tính ưu việt và sức hấp dẫn to lớn của NCBH.
2.1.3. Sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học
Sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên cứu bài học là một quá trình các GV
tham gia vào các khâu từ chuẩn bị, thiết kế bài học sáng tạo, dạy thử nghiệm, dự giờ,
suy ngẫm và chia sẻ các ý kiến sâu sắc về những gì đã diễn ra trong việc học tập của
học sinh (HS). Đây là hoạt động học tập lẫn nhau, học tập trong thực tế, là nơi thử
nghiệm và trải nghiệm những cái mới của GV. Trong quá trình thử nghiệm đó, GV sẽ
học được nhiều điều để phát triển năng lực chuyên môn, nghiệp vụ.
Sinh hoạt chuyên môn theo hướng NCBH không tập trung vào việc đánh giá giờ
học, xếp loại GV mà nhằm khuyến khích GV tìm ra nguyên nhân tại sao HS chưa đạt
kết quả như ý muốn và có biện pháp để nâng cao chất lượng dạy học, tạo cơ hội cho
HS tham gia vào quá trình học tập; giúp GV có khả năng điều chỉnh nội dung, phương
pháp dạy học phù hợp với đối tượng học HS trong lớp, trong trường.
2.1.4. Sự khác nhau giữa sinh hoạt chuyên môn truyền thống và sinh hoạt chuyên
môn theo hướng nghiên cứu bài học
Sinh hoạt chuyên môn truyền thống
Sinh hoạt chuyên môn theo hướng nghiên
cứu bài học
Mục
đích
- Đánh giá xếp loại giờ dạy theo tiêu
chí từ các văn bản chỉ đạo của cấp trên;
- Tập trung quan sát các hoạt động dạy của
GV để rút kinh nghiệm;
- Thống nhất cách dạy các dạng bài để tất cả
GV trong từng khối thực hiện.
- Không đánh giá xếp loại giờ dạy theo
tiêu chí, quy định;
- Tập trung phân tích các hoạt động học
của HS để rút kinh nghiệm;
- GV tự rút ra những kinh nghiệm để vận
dụng vào thực tiễn dạy trên lớp.
Thiết kế
bài dạy
- Bài dạy minh hoạ được phân công cho một
GV thiết kế; được chuẩn bị, thiết kế theo
đúng mẫu quy định;
- Thực hiện theo đúng nội dung, quy trình,
theo sát nội dung SGV, SGK.
- GVdạy minh hoạ thiết kế bài học với sự
góp ý của đồng nghiệp;
- Nội dung bài học được thiết kế linh
hoạt phù hợp với từng đối tượng HS;
- Phát huy sự sáng tạo trong việc sử dụng
các phương pháp, kĩ thuật dạy học.
Dạy
minh
họa
- Dạy theo nội dung kiến thức có trong sách
giáo khoa;
-Thực hiện tiến trình giờ học theo đúng quy
trình
- Điều chỉnh ngữ liệu dạy học phù hợp với
nhu cầu HS;
- Thực hiện tiến trình giờ học linh hoạt,
sáng tạo dựa trên khả năng của HS.
Dự giờ - Thường ngồi ở cuối lớp học quan sát cử
chỉ, việc làm của GV, ghi chép, quan sát cử
chỉ, việc làm của GV;
- Tập trung nhận xét GV dạy có đúng quy
trình không;
- Đối chiếu với các tiêu chí đánh giá xếp loại
giờ học.
- Thường đứng quanh lớp học, vẽ sơ đồ
chỗ HS ngồi;
- Tập trung quan sát HS học thế nào;
- Suy nghĩ phát hiện khó khăn trong học
tập của HS đưa ra các giải pháp khắc
phục.
Kỷ yếu hội thảo khoa học248
2.2. Đổi mới sinh hoạt chuyên môn ở trường THCS theo hướng nghiên cứu
bài học
2.2.1. Chuẩn bị bài dạy minh họa
2.2.1.1. Xác định mục tiêu
Tổ trưởng chuyên môn hoặc nhóm trưởng môn sẽ cùng với các thành viên trong
tổ/nhóm xác định mục tiêu kiến thức và kỹ năng mà HS cần đạt được (theo chuẩn kiến
thức, kỹ năng môn học, đặc biệt cần chú ý xây dựng mục tiêu về thái độ của HS), đảm
bảo phù hợp với trình độ và lứa tuổi của HS khi chọn bài học nghiên cứu.
2.2.1.2. Chọn bài học nghiên cứu
- Mỗi GV trong tổ/ nhóm được chọn những bài phù hợp với yêu cầu về kiến thức,
kĩ năng, thái độ mà mục tiêu đã vạch ra sau đó thống nhất lựa chọn bài học chung nhất
để làm bài học nghiên cứu.
- GV trong tổ/nhóm thảo luận chi tiết về thể loại bài học đã chọn, nội dung bài
học, các phương pháp, phương tiện dạy học đạt hiệu quả cao, cách tổ chức dạy học,
cách rèn kỹ năng, hướng dẫn HS cách vận dụng kiến thức đã học để giải quyết tình
huống thực tiễn...
- Dự kiến những thuận lợi, khó khăn của HS khi học tập và các tình huống xảy ra
cùng với cách xử lý tình huống (nếu có), dự kiến cách kết thúc bài học
2.1.2. Chuẩn bị bài dạy minh họa
- Bài dạy minh họa không phải do một GV thiết kế mà do một nhóm GV cùng bộ
môn thiết kế, thảo luận, thống nhất lựa chọn phương án tối ưu nhất.
- Việc thiết kế bài dạy không nhất thiết phụ thuộc máy móc vào quy trình bước
dạy theo SGK hoặc SGV mà dựa vào mục tiêu bài học đã đề ra để thiết kế cho phù
hợp.
Ví dụ: Tháng 1 năm 2018, GV bộ môn Ngữ văn thuộc các trường THCS trên địa
bàn thành phố Vinh đã tổ chức sinh hoạt chuyên đề theo cụm trường với chủ đề: “Thiết
kế cách soạn giáo án bài “Mùa xuân nhỏ nhỏ” - môn Ngữ văn 9, theo hướng nghiên
cứu bài học”, đã tập trung sinh hoạt chuyên môn tại các cụm trường theo sự phân chia
của phòng Giáo dục thành phố. Các cụm trường đã cùng nhau thảo luận, trao đổi về
việc xác định mục tiêu bài học và cách thiết kế bài dạy minh họa theo hướng NCBH.
Thảo
luận về
giờ dạy
- Dựa trên tiêu chí có sẵn, đánh giá xếp loại
giờ dạy;
- Tập trung nhận xét phân tích hoạt động của
GV;
- Ý kiến nhận xét, đánh giá mang tính mổ
xẻ, chỉ trích, chủ quan;
- Người chủ trì xếp loại giờ dạy, thống nhất
cách dạy cho tất cả GV.
- Dựa trên kết quả học tập của HS để rút
kinh nghiệm;
- Tập trung việc phân tích việc học của
HS, đưa ra minh chứng cụ thể;
- Mọi người cũng phát hiện vấn đề học
tập của HS, tìm nguyên nhân, giải pháp
khắc phục;
- Người chủ trì tóm tắt tất cả các vấn đề
cần thảo luận, gợi ý các nội dung cần suy
ngẫm để mỗi GV tự rút ra bài học.
Kỷ yếu hội thảo khoa học 249
Sau khi đã có sự thống nhất về nội dung bài dạy giữa các cụm trường, GV trong từng
cụm trường đã cùng nhau xây dựng kế hoạch bài dạy và gửi đến các cụm trường khác.
Sau đó từng cụm trường cử GV dạy bài minh họa. Trước khi giờ dạy minh họa được
tiến hành, tất cả các GV Ngữ văn trong từng cụm trường đều phải tham dự, phải thảo
luận và góp ý về “ khung” bài dạy minh họa theo hướng NCBH.
2.2.2. Tiến hành dạy bài dạy minh họa và dự giờ
2.2.2.1. Tiến hành bài dạy minh họa
- GV được phân công dạy minh họa tiến hành giờ dạy minh họa;
- HS không được “ học thử” trước khi dạy minh họa được tiến hành;
- Chuẩn bị bàn ghế phù hợp cho người dự giờ dễ dàng quan sát các hoạt động học
tập của HS.
Ví dụ: Khi thiết kế bài “Mùa xuân nho nhỏ” theo hướng NCBH, các thành viên
cùng nhóm chuyên môn đã cùng nhau “dựng khung” cho bài học, phán đoán các tình
huống có thể xảy ra trong quá trình dạy học nên khi đặt ra những tình huống có vấn
đề, GV lường được các khó khăn, vướng mắc của HS và đã quan sát, tìm cách hỗ trợ
khi cần thiết. Chẳng hạn với câu hỏi: “Em có cảm nhận gì về mùa xuân trong văn
xuôi Vũ Bằng và mùa xuân trong thơ Thanh Hải?” HS gặp lúng túng, GV đã gợi dẫn
để HS trình bày cảm nhận của các em về nét riêng trong cách cảm nhận về mùa xuân
của hai tác giả.
2.2.2.2. Dự giờ
- Khác với dự giờ truyền thống, vị trí quan sát của người dự giờ minh họa theo
hướng NCBH rất quan trọng. Vì vậy, người dự giờ cần được vẽ sơ đồ chỗ ngồi, quan
sát, nghe, nhìn, suy nghĩ và ghi chép diễn biến hoạt động học của HS trong giờ học
hay những biểu hiện tâm lý của HS thể hiện trong các hoạt động/tình huống cụ thể để
không bị bỏ sót khi quan sát.
- Người dự có thể chụp ảnh hoặc quay phim các hoạt động học của HS trong các
tình huống nhưng không làm ảnh hưởng đến giờ học. Quan sát ghi chú các hoạt động
học của HS, thái độ, cử chỉ, sự tham gia hay không tham gia của HS trong quá trình
học tập.
- Tập trung quan sát những biểu hiện qua nét mặt, thái độ, hành vi, mối quan hệ
tương tác giữa HS - GV, HS -HS. Người dự giờ luôn phải đặt câu hỏi cho mình là “HS
học được gì? HS có hứng thú không? Vì sao có? Vì sao không? HS có biểu hiện như
thế nào? Hoạt động nhóm có thực sự đảm bảo cơ hội cho tất cả HS tham gia? Có HS
nào bị “bỏ quên” không? Vì sao HS A và nhiều HS khác không trả lời được câu hỏi,
có phải HS không hiểu câu hỏi, hay câu hỏi có quá khó đối với các em? Nếu thực sự
quá khó thì cần thay đổi câu hỏi như thế nào để HS có thể trả lời được? Vì sao HS A
không tham gia hoạt động này? Có thể HS chưa hiểu rõ nhiệm vụ hay nhiệm vụ đó
quá khó/quá dễ đối với HS, cần phải làm thế nào để HS tích cực tham gia hoạt động?
Trong hoạt động luyện tập chỉ có một số ít HS làm đúng, phần đông HS làm sai, vậy
tại sao HS làm sai? Có thể HS chưa hiểu cách làm, tại sao chưa hiểu, do ngôn ngữ hay
do cách giải thích của GV chưa rõ, cần thay đổi ngôn ngữ hay thay đổi cách giải thích
Kỷ yếu hội thảo khoa học250
như thế nào để HS dễ hiểu hơn
- Trong quá trình dự giờ, người dự giờ có thể ghi chép/ghi âm những câu hỏi của
GV và câu trả lời của HS, quan sát thái độ của HS, các biểu hiện trên nét mặt khi thực
hiện nhiệm vụ, kết quả sản phẩm Từ đó suy nghĩ, phân tích tìm nguyên nhân và đưa
ra giải pháp tích cực hơn.
- Việc dự giờ và quan sát HS thường xuyên sẽ giúp cho mỗi GV tự suy nghĩ, phát
hiện và hiểu rõ nguyên nhân của những khó khăn mà HS đang gặp phải trong quá
trình học tập. Từ đó tự điều chỉnh cách dạy của mình cho phù hợp với đối tượng người
học và có kế hoạch quan tâm giúp đỡ những HS đang gặp khó khăn về tiếp nhận kiến
thức, phương pháp
Trong SHCM theo hướng NCBH, khi mọi người cùng nhau tập trung hướng vào
hoạt động học của HS, tìm nguyên nhân và các giải pháp cho các vấn đề khó khăn về
học của HS thì mối quan hệ giữa người dạy và người dự trở nên gần gũi, có sự cảm
thông, chia sẻ.
2.2.3. Suy ngẫm, thảo luận về bài học nghiên cứu
2.2.3.1. Giáo viên giảng dạy trình bày
Sau khi dạy xong giờ dạy minh họa, GV dạy minh họa trình bày các vấn đề sau:
- Những ý tưởng mới mà bản thân và nhóm/ tổ đã đưa ra;
- Những thay đổi, điều chỉnh về nội dung trong quá trình minh họa dạy;
- Phương pháp, kỹ thuật dạy học được sử dụng trong bài dạy minh họa;
- Những điều hài lòng và chưa hài lòng trong quá trình dạy minh họa.
2.2.3.2. Giáo viên dự giờ thảo luận về giờ dạy
Sau khi nghe GV dạy minh họa trình bày, GV dự giờ sẽ thảo luận về giờ học. Đây
là hoạt động trọng tâm, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và hiệu quả của buổi
SHCM. Để đạt được mục đích của buổi thảo luận, những chủ trì và người tham gia
thảo luận cần làm tốt những vấn đề như sau:
a) Người chủ trì
Người chủ trì là tổ trưởng/nhóm trưởng chuyên môn, là chuyên viênvai trò của
người trong SHCM theo hướng NCNH rất quan trọng. Trong quá trình khi thảo luận,
người chủ trì cần định hướng những nội dung thảo luận hướng vào các vấn đề trọng
tâm như sau:
- Mối quan hệ giữa GV - HS; giữa HS - HS trong tình huống đó như thế nào?, với
vấn đề này, trong giờ học, HS được quan tâm / hỗ trợ như thế nào?, mối quan hệ giữa
các nhóm, giữa cặp đôi có sự tương tác không
- HS học được gì qua hoạt động đó. Các nội dung/hoạt động học tập có phù hợp
với khả năng nhận thức của HS không? (đủ thời gian học, dễ hiểu, thu hút sự tham gia
của HS). Các phương pháp, kỹ thuật dạy học có làm cho HS hứng thú mang lại hiệu
quả thực sự không? Tại sao?, các hoạt động nhóm, cá nhân diễn ra như thế nào? Bài
học có gì mới/ sáng tạo so với sách giáo khoa, sách GV không. HS có cơ hội liên hệ
kiến thức đã biết để hình thành kiến thức mới như thế nào?
Người chủ trì cần khuyến khích tất cả các GV dự giờ đưa ra ý kiến của mình, trong
Kỷ yếu hội thảo khoa học 251
quá trình điều hành, người chủ trì không tổng kết, kết luận mà cần tóm tắt các vấn đề
cần lưu ý, các giải pháp để mỗi GV rút ra kết luận có thể áp dụng sau này cho mình.
b) Người dự giờ
Người dự giờ là các GV cùng bộ môn, là các chuyên viên, ban giám hiệutrao
đổi, góp ý về giờ dạy minh họa. Nội dung góp ý, trao đổi cần lưu ý đến các vấn đề
sau đây:
- Căn cứ vào định hướng của người chủ trì để thảo luận, đặc biệt người dự giờ cần
căn cứ vào mục tiêu của bài học đưa ra các giải pháp để giúp người dạy khắc phục
những hạn chế nhằm tạo cơ hội cho tất cả các HS đều được tham gia học tập, tiếp thu
kiến thức một cách hiệu quả.
- Mỗi người dự giờ tự tìm ra những yếu tố tích cực, suy nghĩ xem mình đã học được
gì từ bài học này (kể cả việc rút kinh nghiệm từ những sai lầm của đồng nghiệp) trước
khi đưa ra những nhận xét về những hạn chế của giờ học.
- Người dự giờ nên nêu những phát hiện, mà GV dạy minh họa có thể không nhìn
thấy vì chưa bao quát hết được (không nghe rõ, không nhìn thấy, ít chú ý, không cảm
nhận được) điều này sẽ giúp cho GV nhìn lại mình và tự điều chỉnh để hoàn thiện
hơn trong các giờ học sau.
- Không áp đặt ý kiến, kinh nghiệm chủ quan cá nhân, trong quá trình thảo luận
các GV sẽ đưa ra rất nhiều giải pháp khác nhau, tuy nhiên mỗi GV sẽ tự suy nghĩ và
lựa chọn giải pháp phù hợp với HS và điều kiện học tập của lớp mình.
- Nếu cần thiết, các GV có thể cùng thảo luận thiết kế lại bài học dựa trên thực tế
và những kinh nghiệm, biện pháp được rút ra trong bài dạy minh họa để kiểm chứng
cho những giải pháp đã đưa ra.
Điều đặc biệt trong SHCM theo hướng NCBH là không xếp loại giờ dạy, trong
trao đổi không phê phán, chỉ trích nhau, mục đích của SHCM theo hướng NCBH
là rút ra những hạn chế, những sai lầm (từ phía HS) trong khi tiếp nhận bài học.
SHCM theo hướng NCBH còn là nơi giúp GV chia sẻ kiến thức, phương pháp, kỹ
thuật dạy học, chia sẻ kinh nghiệm, tôn trọng sự khác biệt, khiêm tốn học hỏi lẫn nhau
và giúp nhau cùng đổi mới nội dung, phương pháp dạy học đáp ứng yêu cầu phát huy
được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS.
2.3. Nâng cao chất lượng dạy học thông qua sinh hoạt chuyên môn theo hướng
nghiên cứu bài học
Trong quản lý sự thay đổi đối với đổi mới phương pháp dạy học, rào cản lớn nhất,
khó thay đổi nhất là thói quen, thay đổi nhận thức và phá vỡ “sức ỳ” của GV. SHCM
theo hướng NCBH là một mô hình bồi dưỡng, phát triển năng lực chuyên môn, nghiệp
vụ tại chỗ hữu ích cho GV và là biện pháp hữu hiệu nâng cao chất lượng dạy học theo
định hướng phát triển năng lực của HS.
Trong SHCM theo hướng NCBH, các GV cốt cán trong nhà trường không chỉ chịu
trách nhiệm với việc học tập của HS, mà còn với cả sự phát triển chuyên môn của
các đồng nghiệp. Họ cùng nhau hợp tác để xây dựng các bài học hay hơn và những
cách giảng dạy mới hơn. Họ cũng thường xuyên đánh giá xem công việc của mình có
Kỷ yếu hội thảo khoa học252
thật sự phát huy hiệu quả trong lớp học hay không. Những GV nhiều kinh nghiệm sẽ
có trách nhiệm hỗ trợ những GV khác ít kinh nghiệm hơn nâng cao năng lực chuyên
môn. Những GV này sau này lại tiếp tục giúp đỡ các GV mới hơn phát triển năng lực,
cứ như vậy, mô hình “ đào tạo chuyên môn tại chỗ” được phát huy một cách hiệu quả.
SHCM theo hướng NCBH sẽ tạo cơ hội cho tất cả GV nâng cao năng lực chuyên
môn, kỹ năng sư phạm và phát huy khả năng sáng tạo trong việc áp dụng các phương
pháp, kỹ thuật dạy học thông qua việc dự giờ, trao đổi, thảo luận, chia sẻ sau khi dự
giờ. Qua các buổi SHCM theo hướng NCBH sẽ góp phần làm thay đổi văn hóa ứng
xử trong nhà trường như: cải thiện mối quan hệ giữa Ban giám hiệu với GV; GV với
GV, GV với HS; giữa HS với HS. Tạo môi trường làm việc, dạy và học dân chủ, thân
thiện cho tất cả mọi người.
Trong SHCM theo hướng NCBH mục đích hướng đến là để cải tiến nội dung dạy
học cụ thể, hướng đến tìm hiểu những gì HS nghĩ, những gì HS tư duy, đảm bảo cho
tất cả HS có cơ hội tham gia thực sự vào quá trình học tập. Vì vậy, SHCM theo hướng
NCBH không đặt trọng tâm vào nội dung, phương pháp mà GV thực hiện mà đặt
trọng tâm vào việc quan sát HS học tập, quan sát HS tương tác với GV, tương tác với
nhóm,qua đó, giúp GV học được cách quan sát, không phải là quan sát hời hợt bề
ngoài mà là quan sát quá trình HS học những kiến thức mà GV đã dạy. GV học được
cách phân tích, rút ra kết luận, sửa đổi từ những số liệu quan sát được. Từ đó, giúp GV
nâng cao kĩ năng thiết kế công cụ dạy học, đổi mới PPDH một cách hiệu quả nhất.
“Khung” của bài học minh họa theo hướng BCBH được các GV cùng bộ môn
thiết kế. Qua việc cùng nhau thiết kế này, giúp họ chia sẻ kiến thức, chia sẻ PPDH,
kỹ thuật dạy học... Đây không chỉ là yếu tố quan trọng nâng cao chất lượng dạy học
mà còn thúc đẩy, duy trì sự hợp tác giữa các GV, giúp họ phát triển kĩ năng làm việc
nhóm, góp phần phát triển không khí hợp tác, đoàn kết, tạo ra cộng đồng học tập,
văn hóa học tập và củng cố tình đồng nghiệp. Không chỉ có vậy, SHCM theo hướng
NCBH, còn giúp GV thực hiện tốt vai trò của người nghiên cứu, giúp họ trở nên vững
vàng hơn về chuyên môn, nghiệp vụ, tăng sự chuyên nghiệp và giúp họ tự tin hơn
trong việc giải quyết vấn đề lý luận và thực tiễn để nâng cao chất lượng dạy học của
mình, của đồng nghiệp đáp ứng được yêu cầu chương trình sách giáo khoa mới.
Ví dụ: Với bài dạy minh họa “ Mùa xuân nho nhỏ”, sau khi các cụm trường tiến
hành dạy minh họa, GV bộ môn Ngữ văn từ “ khung” bài học (đã cùng nhau thiết kế),
qua tiết dự giờ minh họa, qua thảo luận góp ý sau khi dự giờ đã vận dụng những mặt
tích cực của bài dạy minh họa áp dụng vào tiết dạy của mình, nên chất lượng bài học
đạt hiệu quả cao hơn, phát huy được năng lực của HS, đáp ứng tốt hơn yêu cầu đổi
mới phương pháp dạy học.
3. Kết luận
Tóm lại, SHCM theo hướng NCBH giúp GV bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ;
xây dựng và rèn kỹ năng thiết kế kế hoạch dạy học phù hợp chuẩn kiến thức kỹ năng,
đối tượng, điều kiện; kỹ năng tổ chức lớp học linh hoạt, áp dụng các PPDH, kỹ thuật
dạy học nhằm phát triển năng lực, phẩm chất của HS, nâng cao chất lượng dạy học.
Kỷ yếu hội thảo khoa học 253
Chính vì điểm ưu việt đó, trong Công văn số 3692/ BGĐT/GDTrH V/v thực hiện
nhiệm vụ giáo dục trung học năm học 2019 -2020, ngày 28 tháng 8 năm 2019 Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã tiếp tục chỉ đạo: “Sinh hoạt tổ/nhóm chuyên môn cần tăng
cường công tác chỉ đạo, quản lí về đổi mới PPDH và KTĐG; đổi mới nội dung sinh
hoạt tổ chuyên môn theo hướng nghiên cứu nội dung bài học, tập trung thảo luận các
chuyên đề, nội dung khó của môn học hoặc những PPDH, cách thức tổ chức lớp học
hiệu quả cho các nội dung đó”, điều chỉnh việc giảng dạy hàng ngày thực hiện tốt dạy
và học chương trình và sách giáo khoa mới. Đây chính là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm, giúp tổ chuyên môn đổi mới sinh hoạt đáp ứng yêu cầu chương trình sách
giáo mới.
Tài liệu tham khảo
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về
đổi mới cản bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2013) Tài liệu hướng dẫn sinh hoạt chuyên môn theo
nghiên cứu bài học,Tài liệu tập huấn cho hiệu trưởng, tổ trưởng chuyên môn ở trường
phổ thông.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019) Công văn số 3692/ BGĐT/GDTrH V/v thực
hiện nhiệm vụ giáo dục trung học năm học 2019 -2020, ngày 28 tháng 8 năm 2019.
4. Bigschool.vn/danh-cho-giao-vien
5. Nguyễn Mậu Đức (2015), Vai trò của công tác quản lý trong đổi mới chuyên
môn theo mô hình nghiên cứu bài học, Tạp chí Giáo dục, kỳ 2, tháng 8/ 2015.
6. Dương Thị Mĩ Hằng (2016), Phát triển kỹ năng nghiệp vụ sư phạm của sinh
viên Ngữ văn thông qua mô hình sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài học, Tạp
chí Giáo dục, kỳ 1, tháng 7/ 2016.
7. https://moet.gov.vn
8. https://giaoducthoidai.vn
9. Thiết kế cách soạn giáo án bài: Mùa xuân nho nhỏ - môn Ngữ văn 9 (2018) của
4 cụm trường trên địa bàn thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doi_moi_sinh_hoat_chuyen_mon_theo_huong_nghien_cuu_bai_hoc_n.pdf