Từ khi ra đời năm 1930 đến nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam trên thực tế đã trở thành lực lượng chính trị độc tôn lãnh đạo cách mạng nước ta.Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 79 năm qua đều gắn liền với vai trò lãnh đạo của đảng. Đảng đã được nhân dân suy tôn là người lãnh đạo của mình bởi nhân dân thấy rõ chỉ có ĐCSVN mới có khả năng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do,hạnh phúc. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân.Mục đích, lí tưởng phấn đấu của Đảng cũng là mục đích, nguyện vọng của nhân dân.
Tuy nhiên, phải từ sau cách mang Tháng Tám năm 1945 trở đi, Đảng ta mới thực sự trở thành đảng cầm quyền - tức là Đảng nắm quyền lãnh đạo nhà nước.Và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi, Đảng đã trở thành đảng cầm quyền trên phạm vi cả nước, lãnh đạo đất nước đi lên xây dựng CNXH.
Đảng cầm quyền đánh dấu sự thay đổi về chất trong vị trí, vai trò của đảng, nhất là trong phương thức lãnh đạo của đảng và trọng trách của đảng trước vận mệnh của dân tộc, của nhân dân. Đảng cầm quyền tức là chính quyền về tay nhân dân và chính quyền chịu sự lãnh đạo của Đảng – nhân dân lao động do đảng làm đại biểu đã có một công cụ quyền lực mạnh mẽ là nhà nước để trấn áp kẻ thù và xây dựng xã hội mới.Thông qua sự cầm quyền, Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toần xã hội, chịu trách nhiệm trước toàn xã hội. Điều đó có nghĩa là mọi thành công hay thất bại ưu điểm hay khuyết điểm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc đều gắn liền với trách nhiệm của Đảng.
Trong điều kiện đảng cầm quyền làm sao cho đảng không rơi vào tình trạng lạm quyền, lấn áp nhà nước, bao biện, làm thay các công việc của nhà nước, trái lại phát huy được vai trò quản lí, hiêu lực, hiệu quả của nhà nước.Mặt khác không hạ thấp, buông lỏng vai trò lãnh đạo của đảng đối với nhà nước. Đây là vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp.Vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra với Đảng ta đó là phải “đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước”.Nhiệm vụ này đòi hỏi Đảng phải nhận thức đúng đắn hiện thưc khách quan và vận dụng phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam.Vấn đề này sẽ vẫn luôn là nhiệm vụ chính trị quan trọng nhằm giúp Đảng ngày càng hoàn thiện, vững mạnh, góp phần không ngừng nâng cao vị thế của Đảng ta trong hệ thống chính trị.
21 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1357 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I - LỜI MỞ ĐẦU.
Từ khi ra đời năm 1930 đến nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam trên thực tế đã trở thành lực lượng chính trị độc tôn lãnh đạo cách mạng nước ta.Mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 79 năm qua đều gắn liền với vai trò lãnh đạo của đảng. Đảng đã được nhân dân suy tôn là người lãnh đạo của mình bởi nhân dân thấy rõ chỉ có ĐCSVN mới có khả năng lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do,hạnh phúc. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân.Mục đích, lí tưởng phấn đấu của Đảng cũng là mục đích, nguyện vọng của nhân dân.
Tuy nhiên, phải từ sau cách mang Tháng Tám năm 1945 trở đi, Đảng ta mới thực sự trở thành đảng cầm quyền - tức là Đảng nắm quyền lãnh đạo nhà nước.Và cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giành thắng lợi, Đảng đã trở thành đảng cầm quyền trên phạm vi cả nước, lãnh đạo đất nước đi lên xây dựng CNXH.
Đảng cầm quyền đánh dấu sự thay đổi về chất trong vị trí, vai trò của đảng, nhất là trong phương thức lãnh đạo của đảng và trọng trách của đảng trước vận mệnh của dân tộc, của nhân dân. Đảng cầm quyền tức là chính quyền về tay nhân dân và chính quyền chịu sự lãnh đạo của Đảng – nhân dân lao động do đảng làm đại biểu đã có một công cụ quyền lực mạnh mẽ là nhà nước để trấn áp kẻ thù và xây dựng xã hội mới.Thông qua sự cầm quyền, Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toần xã hội, chịu trách nhiệm trước toàn xã hội. Điều đó có nghĩa là mọi thành công hay thất bại ưu điểm hay khuyết điểm trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc đều gắn liền với trách nhiệm của Đảng.
Trong điều kiện đảng cầm quyền làm sao cho đảng không rơi vào tình trạng lạm quyền, lấn áp nhà nước, bao biện, làm thay các công việc của nhà nước, trái lại phát huy được vai trò quản lí, hiêu lực, hiệu quả của nhà nước.Mặt khác không hạ thấp, buông lỏng vai trò lãnh đạo của đảng đối với nhà nước. Đây là vấn đề hết sức khó khăn và phức tạp.Vì vậy, yêu cầu cấp thiết đặt ra với Đảng ta đó là phải “đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước”.Nhiệm vụ này đòi hỏi Đảng phải nhận thức đúng đắn hiện thưc khách quan và vận dụng phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam.Vấn đề này sẽ vẫn luôn là nhiệm vụ chính trị quan trọng nhằm giúp Đảng ngày càng hoàn thiện, vững mạnh, góp phần không ngừng nâng cao vị thế của Đảng ta trong hệ thống chính trị.
II - NỘI DUNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NHÀ NƯỚC.
1. Lí luận của chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1. Về một số khái niệm có liên quan.
1.1.1. Đảng cầm quyền ?
Đảng là tổ chức chính trị của những người cùng chung một lí tưởng. Đảng chỉ bao gồm những đại biểu ưu tú nhất của một giai cấp, tự nguyện tập hợp trong một tổ chức, sinh hoạt và hành động theo những quy tắc, nguyên tắc nhất định. Đảng đại biểu quyền lợi cho một giai cấp, lãnh đạo giai cấp đấu tranh và sẵn sang chiến đấu hi sinh để bảo vệ lợi ích giai cấp.
Đảng cầm quyền tức là đảng nắm quyền lãnh đạo nhân dân, lãnh đạonhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội khác để thực hiện các mục tiêu chính trị-kinh tế-xã hội mà đảng đã đề ra.
1.1.2. Nhà nước ?
Theo quan điểm lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lenin, nhà nước xét về bản chất là một hệ thống kiến trúc thượng tầng tồn tại trên một cơ sở kinh tế nhất định, là công cụ để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với ggiai cấp khác, là tổ chức quyền lực đặc biệt có bộ máy chuyên trách để cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lí nhằm bảo vệ lợi ích giai cấp thống trị trong xã hội có đối kháng giai cấp. Lenin nhấn mạnh: “Nhà nước là bộ máy đặc biệt phục vụ cho giai cấp này đàn áp giai cấp khác”.
1.1.3. Phương tức lãnh đạo đối với nhà nước ?
Phương thức lãnh đạo đối với nhà nước là các biện pháp, cách thức tổ chức thực hiện mà giai cấp cầm quyền sử dụng đẻ tác động vào bộ máy nhà nước nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế -xã hội.
1.2. Lí luận của C.Mác và Ăngghen.
Theo quan điểm của C.Mác thì “Đảng cộng sản là đội tiền phong, là tổ chức chiến đấu của những người cách mạng, là lãnh tụ chính trị của giai cấp vô sản”. Nói về bản chất giai cấp của Đảng hai ông cho rằng Đảng luôn đứng trên lập trường giai cấp công nhân để xử lý và giải quyết mọi vấn đề của cách mạng. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng dều phải xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân.
Mác và Ăngghen khẳng định sự cần thiết phải có Đảng và sự lãnh đạo của Đảng vô sản trong hệ thống chính trị vô sản. Suốt đời hai ông chăm lo xây dựng nên một chính Đảng vô sản chân chính, thống nhất, có lý luận khoa học đúng đắn, có tổ chức chặt chẽ, rèn luyện trong phong trào quần chúng và được quần chúng tin cậy để Đảng thực hiện sự thống trị của mình, quyền thống trị của giai cấp công nhân, tức là “sự thống trị giai cấp”, “hệ thống chính trị vô sản phải đảm bảo quyền thống trị của giai cấp vô sản, nghĩa là phải đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản mà đại biểu là ĐCS”.
Về sự lãnh đạo của Đảng, hai ông cho rằng: “Đảng lãnh đạo trên cơ sở khoa học và quyết định của tập thể. Có nghĩa là mọi quyết định của tập thể phải dựa trên sự phân tích một cách khách quan những quy luật phát triển của xã hội, phải dựa trên ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Phải kiên quyết chống khuynh hướng cơ hội. Kiên quyết lên án những người theo chủ nghĩa chủ quan, giáo điều các loại. “Và để làm được điều này các vị lãnh tụ vô sản phải nghiêm túc học tập khoa học cách mạng và dựa vào khoa học để làm công tác tư tưởng của mình”.
Mác và Ăng ghen rất chú trọng việc đề bạt và bổ nhiệm cán bộ, “Kiến thức hàn lâm chưa thể mang lại hàm sỹ quan để có quyền giữ cương vị thích ứng trong Đảng”. Tổ chức cán bộ là vấn đề quan trọng góp phần xác định đường lối, chính sách và thực hiện hiệu quả đường lối chính sách đó. Những định hướng chính trị của Đảng chỉ có thể thực hiện được thông qua thực tiễn của những tổ chức và những cán bộ Đảng. Bên cạch đó “Đảng phải kiểm tra hoạt động các vị lãnh tụ của mình, phê bình những thiếu sót của họ”. Điều này làm được khi có sự lãnh đạo của tập thể.
Mác và Ăng ghen cho rằng: “Cách mạng thành công, giai cấp vô sản thiết lập nền chuyên chính vô sản và sử dụng quyền lực chính trị ấy để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới”. Hai ông chủ trương chỉ có một Đảng vô sản lãnh đạo duy nhất; hai ông cũng cho rằng:“Khuyết điểm chính của công xã Pari đó là nó không có một đảng vô sản thống nhất”.
Theo Mác: “Hệ thống chính trị phải lấy Nhà nước chuyên chính vô sản làm nòng cốt đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân”. Từ đây thấy được rằng Mác và Ăng ghen nói đến sự cần thiết phải có Nhà nước chuyên chính vô sản và Nhà nước ấy đương nhiên phải đặt dưới sự lãnh đạo của chính Đảng vô sản. Mác nói rằng: “Bất cứ một chế độ chính trị nào, xét về thực chất cũng là chuyên chính của một giai cấp. Chuyên chính vô sản chủ yếu không phải là bạo lực, càng không đồng nhất với bạo lực, mà là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với Nhà nước và toàn xã hội”.
Nói về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thì hai ông chưa có điều kiện nghiên cứu sâu song đã đưa ra những gợi ý về phương thức thuyết phục Bằng sự đúng đắn của lý luận, đường lối, coi đó là phương thức cơ bản. Về tổ chức thì lãnh đạo bằng Đảng đoàn; về tinh thần thì lãnh đạo bằng uy tín có được của quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài.
1.3. Lí luận của Lenin.
Lênin là người kế thừa và phát triển sáng tạo học thuyết của Mác,đặc biệt là về Đảng kiểu mới. Với những lí luận ban đầu của Mac-Ăngghen, bằng tài năng và thực tiễn cách mạng của mình, Lênin đã phát triển học thuyết Mác về đảng kiểu mới hoàn thiện hơn, trong đó ông đề cập rất nhiều đến vai trò lãnh đạo và phương thức lãnh đạo của Đảng. Theo Lênin: “Đảng là hạt nhân lãnh đạo chuyên chính vô sản”. Trong điều kiện Đảng cầm quyền theo Lênin: “Đảng cộng sản là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị”. Lênin còn khẳng định: “ Đảng là lực lượng duy nhất có đủ bản lĩnh chính trị, năng lực và uy tín để lãnh đạo xã hội; đủ sức lãnh đạo và tổ chức xã hội mới”.
Nói về vai trò lãnh đạo của Đảng, theo Lênin: “ Đảng là đội tiên phong cầm quyền trực tiếp của giai cấp vô sản, Đảng là người lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết đảm bảo đảm công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công”.
Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay công việc của Nhà nước, không can thiệp vào công việc cụ thể của nhà nước. “ Vấn đề là vấn đề hết sức quan trọng là ở chỗ: làm sao vừa kết hợp vừa phân rõ chức năng của Đảng và chức năng của chính quyền Xô viết, theo hướng tăng thêm tính chủ động của các cơ quan Xô viết và cán bộ Xô viết. Còn về phần Đảng thì giành chính quyền lãnh đạo mà không can thiệp một cách quá nhỏ nhặt, không thường xuyên và không chính quy như hiện nay. Muốn vậy Đảng phải lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh”(Thư gửi Môlôtốp, 3-1920).
Lênin rất coi trọng phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Theo ông, Đảng phải có cách lãnh đạo như thế nào đối với Nhà nước, nếu không giải quyết tốt mối quan hệ này thì sẽ “phá rối quan hệ đúng đắn” giữa Đảng và bộ maý Nhà nước, thậm chí đến sự diệt vong của chế độ. Trong thời kỳ đầu, Lênin luôn nhắc nhở không nên lẫn lộn chức năng của hai tổ chức này, Đảng không nên can thiệp vào công việc của bộ máy Nhà nước, “Đảng nói chung và Ban chấp hành trung ương nói riêng đừng bao giờ can thiệp trực tiếp, đừng làm thay Nhà nước những công việc cụ thể mang tính chất hành chính chuyên môn nghiệp vụ”
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng định hướng chính trị. Theo Lênin, trong điều kiện Đảng cầm quyền thì Đảng cộng sản lãnh đạo bằng cương lĩnh chính trị, đường lối. Sách lược đúng đắn của mình. Đó là việc hoạch định cương lĩnh xây dựng đất nước, các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, những định hướng về chính sách... Phương thức lãnh đạo này tập trung trong các nghị quyết của Đảng. Lênin nói: “Trong nước cộng hòa chúng ta, không có một vấn đề chính trị hay tổ chức quan trọng nào do một cơ quan Nhà nước giải quyết mà lại không có chỉ thị của Ban chấp hành trung ương Đảng”.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Theo Lênin: “Đảng phải đem những đảng viên có phẩm chất và năng lực vào bộ máy Nhà nước. Việc bố trí và quản lý cán bộ trong các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể thông qua Đảng đoàn, ban cán sự Đảng. đối với những chức danh chủ chốt trong các cơ quan Nhà nước và tổ chức chính trị thì Đảng phải giới thiệu những cán bộ đảng viên có đủ tiêu chuẩn để ứng cử vào các cơ quan, tổ chức đó. Đảng tôn trọng chế độ bầu cử, bổ nhiệm và bãi miễn chức danh cán bộ của cơ quan Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội”.
Lênin nói đến yếu tố xây dựng bộ máy Nhà nước thì yếu tố cán bộ là trước tiên, người chỉ rõ: “chúng ta chỉ hiện có... chỉ có hai mà thôi. Một là: những công nhân hăng hái đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội nhưng họ không biết làm thế nào. Cho đến nay họ chưa được học tập mấy, họ không có trình độ văn hóa cần thiết để làm việc đó. Hai là: những yếu tố kiến thức, học thức, giáo dục...”. Còn nói về con người: “muốn thế, những phần tử ưu tú trong chế độ xã hội của chúng ta tức là trước hết, những công nhân tiên tiến và sau nữa là phần tử thật sự có học thức mà người ta có thể tin chắc rằng họ sẽ không tin một lời nào, không nói một lời nào trái với lương tâm họ - những phần tử ưu tú ấy phải không sợ thừa nhận bất cứ một khó khăn nào và không lùi bước trước bất cứ một cuộc đáu tranh nào để đạt được mục đích mà họ tự đặt cho mình một cách nghiêm chỉnh … phải có những điều kiện qua được một kỳ sát hạch chứng nhận rằng họ hiểu bộ máy nhà nước chúng ta, họ hiểu lý luận thường thức về bộ máy Nhà nước của chúng ta, những nguyên tắc của khoa học quản lý, những giấy tờ sổ sách”. Muốn vậy, theo Lênin: “Phải làm sao cho học thức ở nước ta không nằm trên giấy tờ hoặc một lời nói theo mốt nữa, phải làm sao cho học thức ăn sâu vào trí não, hoàn toàn và thực tế trở thành một bộ phận khăng khít của cuộc sống của chúng ta. Lênin đòi hỏi bộ máy ấy phải có kiến thức quản lý như bộ máy Nhà nước Tây Âu nhưng điều quan trọng hơn là bộ máy khác hẳn cái Tây âu tư sản đòi hỏi, tức là cái gì xứng đáng và thích hợp với một nước đang đặt ra cho mình nhiệm vụ trở thành một nước xã hội chủ nghĩa”. Bên cạnh đó Lênin còn đòi hỏi phải củng cố Ban chấp hành trung ương Đảng, ở rộng bổ sung ban chấp hành từ những người tiên tiến trong giai cấp công nhân, chấn chỉnh và và đổi mới quy chế làm việc của Bộ chính Trị và Ban chấp hành trung ương nhằm làm cho Bộ chính trị và Ban chấp hành trung ương khỏi phải giải quyết công việc vun vặt.
Về nhiệm vụ của cán bộ đảng viên của Đảng trong bộ máy Nhà nước Lênin nói: “Các đồng chí là những người cộng sản, các đồng chí là công nhân, là bộ phận giác ngộ của giai cấp vô sản, các đồng chí là người đảm nhiệm việc lãnh đạo Nhà nước, các đồng chí hãy làm thế nào cho Nhà nước mà các đồng chí nắm trong tay phải hoạt động như các đồng chí mong muốn”(Đại hội Đảng XI, 3-1922).
Đảng lãnh đạo thông qua công tác vận động quần chúng tham gia quản lý Nhà nước. Theo Lênin, đây là hình thức hết sức quan trọng, không thể thiếu trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Bởi vì số phận của cách mạng xã hội chủ nghĩa phụ thuộc vào lòng tin và khả năng vận động, tập hợp, giáo dục, thuyết phục quần chúng tin vào Đảng, đi theo Đảng và tiến hành các hoạt động cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ông nói: “Chỉ có những người tin vào nhân dân, dấn mình vào nguồn sáng tạo sinh động của nhân dân mới là người chiến thắng và giữ được chính quyền”, “Nhiệm vụ thứ nhất của bất cứ một chính Đảng nào có trọng trách đối với thời đại là thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình...”
Từ vị trí và vai trò của quần chúng, Lênin chỉ ra rằng, Đảng phải giáo dục, thuyết phục và tổ chức cho quần chúng nhân dân tham gia quản lý Nhà nước. Nếu không có sự tham gia giám sát và quản lý của quần chúng nhân dân thì Đảng không thể lãnh đạo được Nhà nước, mà bản thân bộ máy của Đảng và Nhà nước cũng bị tiêu tan. Người nói: “Trong quần chúng nhân dân, chúng ta chỉ tựa như giọt nước trong đại dương và chỉ khi nào biểu hiện được đúng ý nguyện của nhân dân thì chúng ta mới quản lý Nhà nước được. Nếu không Đảng cộng sản sẽ không lãnh đạo được giai cấp vô sản, giai cấp vô sản sẽ không lôi cuốn được quần chúng theo mình, và tất cả bộ máy sẽ tan rã”.
Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra: Theo Lênin, nội dung kiểm tra của Đảng đối với Nhà nước là việc quán triệt và tổ chức thực hiện chủ trương, quan điểm đường lối chỉ đạo của Đảng, hiến pháp và pháp luật của Nhà nước có đúng không.
Đảng trực tiếp kiểm tra, đồng thời phối hợp kiểm tra Đảng với thanh tra nhà nước, thanh tra nhân dân và kiểm tra đoàn thể. Đảng thực hiện chức năng kiểm tra không phải bằng những quyền lực hành chính mà bằng đường lối, chủ trương chính sách đúng, bằng giáo dục, thuyết phục, bằng công tác tư tưởng, công tác vận động quần chúng, bằng hành động gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
Trong phương thức lãnh đạo cũa Đảng đối với Nhà nước, Lênin nhấn mạnh: “Cần phân định rõ ràng hơn những nhiệm vụ của Đảng với nhiệm vụ của chính quyền Xô viết”, “chừng nào mà ban chấp hành trung ương Đảng và toàn Đảng còn tiếp tục làm thay công tác quản lý hành chính, nghĩa là quản lý Nhà nước, thì Đảng không thể gọi là người lãnh đạo được”, “Đảng không bao biện, làm thay công việc Nhà nước”.
Tóm lại, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước theo Lênin có mấy vấn đề sau:
+ Đảng không bao biện, làm thay công việc Nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng định hướng chính trị.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua cán bộ và công tác cán bộ của Đảng.
+ Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra giám sát.
+ Đảng lãnh đạo bằng hình thức vận động quần chúng.
1.4.Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Là người sáng lập và lãnh đạo Đảng ta, chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến sự lãnh đạo của Đảng và phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền.
1.4.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền.
Người nhấn mạnh: “Đảng ta là Đảng cầm quyền”, nghĩa là Người khẳng định bước ngoặt vĩ đại đánh dấu sự chuyển biến về chất trong vị thế của Đảng từ chưa coc chính quyền trở thành có chính quyền; đồng thời là bước ngoặt trong đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng.
Cũng như chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến vai trò của Đảng cầm quyền: “Lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, Đảng trở thành Đảng cầm quyền, Đảng nắm quyền lãnh đạo đất nước về mọi mặt. Trong điều kiện có chính quyền, bản chất chính trị của Đảng không thay đổi, nhưng nội dung, phương thức hoạt động, phương thức lãnh đạo của Đảng có sự thay đổi cho thích hợp với yêu cầu và nhiệm vụ thời kỳ mới”. Người nhấn mạnh: “Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Đây là sự khác biệt của Đảng ta so với các Đảng khác.
“Đảng phải xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là Nhà nước kiểu mới, tồn tại và hoạt động vì lợi ích nhân dân, là bộ máy thể hiện quyềm lực của nhân dân, do nhân dân xây dựng. Đảng cầm quyền phải biết tìm ra và tuân theo một quy trình nghiêm nhặt để hoạt động và xây dựng trưởng thành”
Nhiệm vụ của Đảng cầm quyền là tổ chức quản lí đất nước, bảo vệ lợi ích cho nhân dân, cụ thể: “Tất cả mọi việc liên quan đến nhân dân, dù là tương cà mắm muối, cái kim sợi chỉ hàng ngày của dân, Đảng đều phải có trách nhiệm”...
Trong điều kiện Đảng cầm quyền: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt đêt phát triển kinh tế, văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân”, “Đảng phải tuân thủ những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt nhất định, mà nếu vi phạm thì đảng sẽ bị suy yếu và tan rã”, “Đảng phải có tư cách chân chính cách mạng”.
Đảng cầm quyền phải thường xuyên chăm lo công tác cán bộ, phải nắm cán bộ. Theo người, thành hay bại của cách mạng đều liên quan đến vấn đề cán bộ, đều do cán bộ tốt hay kém. Luôn luôn quan tâm giáo dục, nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải giữ gìn phẩm chất đạo đức, chống những thói hư tạt xấu, sự thoái hóa biến chất trong điều kiện Đảng cầm quyền, phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”.
Nói đến nguy cơ Đảng cầm quyền, Người nói đó là nguy cơ tha hóa, biến chất của Đảng dẫn đến sai lầm về đường lối, đó là chủ nghĩa cá nhân làm suy yếu Đảng, “Chủ nghĩa cá nhân là căn bệnh nguy hiểm làm hư hỏng đội ngũ cán bộ, đảng viên”, “chủ nghĩa cá nhân là vi trùng”. Người nói thêm, “đề phòng âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế”.
1.4.2.Hồ Chí Minh nói về phương thức lãnh đạo.
Theo Người, muốn có cách lãnh đạo đúng, trước hết phải hiểu lãnh đạo đúng nghĩa là thế nào, lãnh đạo đúng nghĩa là: “1.Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm quần chúng, vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo”, “2.Phải tổ chức thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong”, “3.Phải tổ chức sự kiểm soát cho đúng, mà muốn kiểm soát đúng thì phải có quần chúng giúp mới được”(Trích sửa đổi lối làm việc). Qua sự giải thích của chủ tịch Hồ Chí Minh về cách lãnh đạo đúng, có thể thấy rõ Đảng lãnh đạo mọi công việc của Đảng, của Nhà nước, của toàn xã hội trước hết bằng nghị quyết, chỉ thị hay chính sách của Đảng. Đòi hỏi trước hết của Đảng cầm quyền là phải đề ra được đường lối, chủ trương đúng đắn. Đường lối phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước
Trong việc ra quyết định, chính sách trong lãnh đạo, Người nói: “Đảng và chính phủ điều tra, nghiên cứu cân nhắc cẩn thận nhằm vào lợi ích chung của nhân dân đặt ra chính sách”. “Người lãnh đạo cách mạng phải khéo sửa đổi khi có những sai lầm trong tư tưởng, lý luận, kế hoạch và nghị quyết của mình. Đồng thời khi giai đoạn này phát triển lên giai đoạn khác thì sự hiểu biết cũa người lãnh đạo và chiến sỹ cách mạng cũng phải tiến theo. Nghĩa là đề ra nhiệm vụ mới và phương pháp mới hợp với tình hình mới của cách mạng”.
Trong tổ chức thi hành quyết định,Hồ Chí Minh dạy: “Khi đã định kế hoạch hẳn hoi rồi thì quả quyết thực hiện cho kỳ được”. “Để thực hiện chính sách, làm tròn nhiệm vụ, cán bộ chẳng những phải chịu khó giải thích, tuyên truyền, cổ động mà còn phải bàn bạc với quần chúng, hỏi han ý kiến, gom góp ý kiến của quần chúng. Lãnh đạo quần chúng và hoan nghênh quần chúng phê bình...”
Việc tổ chức kiểm soát, kiểm tra. Theo Bác: “Khi đã có chính sách đúng thì sự thành công hay thất bại của chính sách đó là nơi cách tổ chức công việc, nơi chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”. Hai điều để kiểm soát tốt là: một là, việc kiểm soát phải có hệ thống, phải thường làm. Hai là, người kiểm soát phải là người rất có uy tín. Có hai cách kiểm tra, kiểm soát là: “một cách từ trên xuống, tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả công việc của cán bộ mình. Một cách nũa là từ dưới lên. Tức là cán bộ và quần chúng kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tổ cái cách sửa chữa sự sai lầm đó cách này là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên”.
Cách lãnh đạo cụ thể một công việc: Người dạy rằng: “Bất kỳ công việc gì cũng phải dùng hai cách lãnh đạo sau: một là liên hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng, hai là liên hợp người lãnh đạo với quần chúng.
2.Vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ở Việt Nam từ khi Đảng trở thành đảng cầm quyền .
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định phương hướng tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đảm bảo tính chuyên chính vô sản của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Là người sang lập nên ĐCSVN, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến sự lãnh đạo của Đảng và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong điều kiện ĐCSVN nắm quyền lãnh đạo nhà nước. Người khẳng định: “Đảng ta là đảng cầm quyền”, nghĩa là bên cạnh sự chuyển biến về chất trong vị thế lãnh đạo của Đảng, yêu cầu Đảng cần có những đổi mới to lớn về nội dung và phương thức lãnh đạo của mình.
Nội dung cơ bản về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước bao gồm những vấn đề cơ bản sau đây:
+ Đảng định hướng chính trị - tức là đề ra cương lĩnh, đường lối, chính sách lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực và hoạt động có hiệu quả. Đây là Nhà nước kiểu mới, Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
+ Đảng đề ra các quan điểm, chủ trương về xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng.
+Đảng kiểm tra các hoạt động của Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Theo nội dung trên thì phương thức lãnh đạo của Đảng bao gồm cả việc xây dựng đường lối nghị quyết. Trong thưc tiễn quá trình lãnh đạo của Đảng ta thấy ngay từ khi mới thành lập Đảng đã xây dựng cho mình phương thức lãnh đạo đúng đắn. Điều này thể hiện cụ thể qua cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng tháng 2-1930. Cương lĩnh xác định con đường cua cách mạng Việt Nam đó là: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Cương lĩnh chỉ rõ: “Đảng không khi nào nhượng một chút lợi ích của công nông đê đi vào con đường thỏa hiệp”, Đảng là đội tiên phong cuả giai cấp công nhân, người tổ chức , lãnh đạo cách mạng, đấu tranh giải phóng công nhân, nông dân, toàn thể đồng bào ta ra khỏi bị đế quốc và phong kiến áp bức bóc lột, giành lại quyền độc lập tự do. Như vậy, Đảng đã xác định được những vấn đề căn bản trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với phong trào cách mạng Việt Nam, đưa phong trào cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác.
Từ khi gánh vác sứ mệnh lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo nhân dân, vai trò, vị trí của Đảng đã có sự thay đổi to lớn. Đảng không chỉ là đại biểu cho quyền lợi của giai cấp công nhân mà còn là người lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo toàn thể dân tộc thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra. Vì vậy, yêu cầu cơ bản đối với Đảng trong tình hình mới là Đảng cần thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của mình: Đổi mới để làm tròn sứ mệnh lịch sử, để phù hợp với điều kiện khách quan, vì mục tiêu nâng cao hơn nữa vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng. Đổi mới trong phương thức lãnh đạo của Đảng từ khi Đang trở thành đảng cầm quyền phải nhằm hoàn thành những mục tiêu chính trị - kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài; cụ thể và toàn diện. Để tiện trong quá trình theo dõi chúng ta có thể phân chia thành một số giai đoạn cụ thể sau đây:
+ Giai đoan từ 1945 – 1954.
+ Giai đoạn từ 1954 – 1975.
+ Giai đoạn từ 1975 – 1986.
+ Giai đoạn từ 1986 – nay.
2.1. Giai đoạn từ 1945 -1954.
Cách mạng tháng Tám 1945 giành thắng lợi, Đảng trở thành lực lượng chính trị nắm giữ chính quyền, lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ tổ quốc.Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong tình hình mới như sau: “Lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, Đảng trở thành Đảng cầm quyền, Đảng nắm quyền lãnh đạo đất nước về mọi mặt. Trong điều kiện có chính quyền, bản chất chính trị của Đảng không thay đổi, nhưng nội dung, phương thức hoạt động, phương thức lãnh đạo của Đảng có sự thay đổi cho thích hợp với yêu cầu và nhiệm vụ thời kỳ mới”. Người nhấn mạnh: “Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Đây là sự khác biệt của Đảng ta so với các đảng của giai cấp tư sản.
Nhiệm vụ của Đảng cầm qu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- i_8776.doc