Cơ sở khoa học: HCVcAg là xét nghiệm mới được phát triển gần đây trong chẩn đoán hoạt tính của HCV
ở người nhiễm HCV mạn. Giá trị dự báo của HCVcAg cho đáp ứng điều trị bắt đầu được chú ý gần đây và có
nhiều nghiên cứu.
Mục tiêu: Mô tả động học của HCVcAg trong quá trình điều trị viêm gan C mạn.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu quan sát tiền cứu thực hiện trên 61 bệnh nhân điều
trị viêm gan C tại BV Bệnh Nhiệt Đới từ tháng 3/12 đến tháng 7/13. HCVRNA được thực hiện bằng kỹ thuật
RT‐PCR (ngưỡng phát hiện 15UI/ml). HCV genotype được thực hiện bằng kỹ thuật PCR dựa trên cấu trúc
vùng 5’UTR kết hợp với vùng core. HCVcAg thực hiện bằng kỹ thuật ELISA trên hệ thống máy ABBOTT.
6 trang |
Chia sẻ: tieuaka001 | Lượt xem: 479 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Diễn tiến hcv core anntigen trên bệnh nhân điều trị viêm gan c mạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 341
DIỄN TIẾN HCV CORE ANNTIGEN
TRÊN BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ VIÊM GAN C MẠN
Vũ Trường Sơn*, Phạm Thị Thu Hà**, Đinh Thế Trung***, Lê Thị Thúy Hằng ***, Nguyễn Hữu Chí ***,
Phạm Thị Lệ Hoa***
TÓM TẮT
Cơ sở khoa học: HCVcAg là xét nghiệm mới được phát triển gần đây trong chẩn đoán hoạt tính của HCV
ở người nhiễm HCV mạn. Giá trị dự báo của HCVcAg cho đáp ứng điều trị bắt đầu được chú ý gần đây và có
nhiều nghiên cứu.
Mục tiêu: Mô tả động học của HCVcAg trong quá trình điều trị viêm gan C mạn.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu quan sát tiền cứu thực hiện trên 61 bệnh nhân điều
trị viêm gan C tại BV Bệnh Nhiệt Đới từ tháng 3/12 đến tháng 7/13. HCVRNA được thực hiện bằng kỹ thuật
RT‐PCR (ngưỡng phát hiện 15UI/ml). HCV genotype được thực hiện bằng kỹ thuật PCR dựa trên cấu trúc
vùng 5’UTR kết hợp với vùng core. HCVcAg thực hiện bằng kỹ thuật ELISA trên hệ thống máy ABBOTT.
Kết quả: Có 59/61 ca đạt ETVR. Mất HCVcAg sau 3 tháng quan sát được trên 49/51 bệnh nhân và khi kết
thúc điều trị trên 47/51 ca. 49/49 ca mất HCVcAg sau 3 tháng đạt được ETVR. Tuy nhiên có 2 ca HCVcAg
dương tính trở lại dù HCVRNA vẫn còn âm tính. HCVcAg và HCVRNA diễn biến tương ứng với nhau trong
điều trị. Sự tái xuất hiện HCVcAg có thể là yếu tố dự báo sớm tái phát.
Kết luận: HCVcAg thay đổi song hành với HCVRNA trong điều trị và có thể dùng dự báo sớm đáp ứng
điều trị hay tái phát.
Từ khóa: điều trị viêm gan virus C, kháng nguyên lõi.
ABSTRACT
HCV CORE ANTIGEN DYNAMIC AMONG CHC PATIENTS DURING TREATMENT
Vu Truong Son, Pham Thi Thu Ha, Dinh The Trung, Le Thi Thuy Hang, Nguyen Huu Chi,
Pham Thi Le Hoa * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 ‐ Supplement of No 1 ‐ 2014: 341 ‐ 346
Background: HCV core antigen quantification had been developed and applied to diagnose viral activity in
HCV infected patients. Some recent studies had done to observe the changing of HCVcAg during treatment but
the dynamic of this antigen had not been well studied.
Objectives: To describe the dynamic of HCV core antigen in patients with CHC under treatment.
Methods: This descriptive study were done prospectively from Mar 2012 to July 2013 at Hospital for
Tropical Diseases in 61 CHC patients who were under treatment to observe the serum level of HCVcAg
during their treatment. HCVcAg were done by ELISA using ABBOTT reagents. HCVRNA quantification
were determined by RT‐PCR with LOD of 15UI/mL, HCV genotype were tested by PCR based on the
5’UTR and the core genes.
Results: Among this cohort 58/61 patients had achieved ETVR. HCVcAg loss after 3 months achieved on
49/51 patients and at the end of treatment on 47/51 patients. 49/49 (100%) of patients with HCVcAg loss after 3
months had ETVR. The HCVcAg loss after 3 months had a good predictive value for ETVR. There were the same
* Bệnh viện Đa khoa Bưu Điện ** Phòng khám Viêm gan Bệnh viện Bệnh Nhiệt Đới
*** Bộ môn Nhiễm ĐH Y Dược TP.HCM
Tác giả liên lạc: BS. Vũ Trường Sơn ĐT: 0918017979 Email: sonbd2@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 342
dynamic of HCVcAg and HCVRNA during treatment in patients with or without ETVR. Re‐increasing of
HCVcAg shoud be considered as the early predictive factor of relapse after treatment.
Conclusion: HCVcAg and HCVRNA have the same dynamic under treatment. HCVcAg should be used as
the predictive factor for treatment response.
Keywords: hepatitis C virus, core antigen, treatment.
MỞ ĐẦU
HCV core antigen (HCVcAg), kháng nguyên
protein lõi của HCV là 1 trong 3 protein cấu trúc
của HCV, có trọng lượng phân tử 21 kD, gồm
174 acid amin đầu tiên trong chuỗi polyprotein
của HCV(11), tham gia vào quá trình lắp ráp
virus, điều hòa dịch mã và tham gia các phản
ứng tế bào như truyền các tín hiệu tế bào,
apoptosis, chuyển hóa lipid, sinh ung thư...(1,9,14).
Kháng nguyên này hiện diện sớm ngay sau
nhiễm HCV. Từ 1995, Tanaka và cs(12) bắt đầu
phát triển dần các kỹ thuật và nghiên cứu ứng
dụng HCVcAg trong chẩn đoán và điều trị.
Hiện nay HCVcAg được đề nghị ứng dụng để
tầm soát nhiễm HCV giai đoạn sớm khi chưa có
kháng thể antiHCV(5,6,8,10) hay để chẩn đoán hoạt
tính của HCV trên người mang kháng thể
antiHCV(2,4). Gần đây, các tác giả còn nghiên cứu
ứng dụng HCVcAg trong theo dõi đáp ứng điều
trị(3,7). Các nghiên cứu này bước đầu ghi nhận
HCVcAg có thể là marker phản ánh đáp ứng
điều trị. Tuy nhiên động học HCVcAg trong quá
trình điều trị còn chưa được mô tả đủ và đa số
kết quả đã công bố chưa đủ thuyết phục để
khẳng định vai trò của HCVcAg trong dự báo
đáp ứng hay tái phát. Nghiên cứu này nhằm
mục đích mô tả đủ chi tiết diễn biến nồng độ
HCVcAg trong quá trình điều trị và so sánh diễn
biến này ở nhóm có và không có đáp ứng điều
trị viêm gan C mạn.
Mục tiêu nghiên cứu
Mô tả diễn biến HCVcAg ở bệnh nhân điều
trị viêm gan C (VGC) mạn và thăm dò giá trị của
HCVcAg trong dự đoán đáp ứng điều trị.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng
Bệnh nhân người lớn cư ngụ tại TP HCM
hay các tỉnh đến khám tại Phòng khám Viêm
gan BV Bệnh Nhiệt Đới và được điều trị VGCtừ
tháng 3/2012 đến tháng 7/2013 theo phác đồ IFN
chuẩn hay PegIFN phối hợp Ribavirin theo định
hướng của genotype.
Tiêu chuẩn chọn bệnh
Có anti HCV dương tính >6 tháng, có HCV
RNA dương tính, đủ tiêu chuẩn và được chọn
điều trị viêm gan, có đủ thời gian theo dõi đáp
ứng cuối điều trị và đồng ý tham gia nghiên
cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu quan sát mô tả hàng loạt ca kết
hợp quan sát theo chiều dọc.
Biến số: Biến số nền gồm tuổi, giới,
genotype, nồng độ virus trước điều trị. Biến số
độc lập được xác định là nồng độ HCVcAg tại
các thời điểm gồm: trước điều trị, sau 4, 12tuần
và khi kết thúc điều trị. Biến số phụ thuộc là các
đáp ứng virus với điều trị như: đáp ứng nhanh
RVR, đáp ứng sớm EVR, đáp ứng cuối đợt điều
trị ETVR.
Kỹ thuật đo lường biến số:
‐ HCV genotype được thực hiện bằng kỹ
thuật PCR, dùng mồi Taqman probe chovùng
5’UTR kết hợp với mồi cho vùng core của HCV.
‐ HCVRNA định lượng được thực hiện bằng
kỹ thuật PCR thời gian thực với bộ test kit Cobas
AmpliPrep/Cobas TaqMan (Roche Molecular
Systems)tại Khoa xét nghiệm Bệnh viện Bệnh
Nhiệt Đới, ngưỡng phát hiện(LOD) 15 IU/ml.
‐ Định lượng HCVcAg trong huyết thanh
được thực hiện bằng kỹ thuật ELISA với test kit
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 343
Abbott Architect i2000SR (Abbott Laboratories,
USA) tại Khoa Xét nghiệm của Trung tâm Medic
TP. HCM với ngưỡng phát hiện >3,0 fmol/L.
Việc đo lường HCVcAg được thực hiện tập
trung trên mẫu máu lưu trữ ở âm 700C.
Xử lý số liệu: Số liệu được nhập và xử lý
bằng phần mềm SPSS 11.0. So sánh các số trung
bình dùng phép kiểm T – testhay Anova. So
sánh 2 tỷ lệ dùng phép kiểm Chi bình phương.
Mức ý nghĩa được xác định khi p<0,05. Trình
bày diễn biến HBVcAg và HCVRNA trong điều
trị theo bảng và biểu đồ. Giá trị dự báo đáp ứng
được tính bằng các giá trị độ nhạy, đặc hiệu, giá
trị chẩn đoán dương và âm.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Có 61 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn tham gia
nghiên cứu và phân tích diễn biến HCVcAg (35
nữ, 26 nam), từ 22 đến 66 tuổi. Có 52/61 bệnh
nhân (85%) được điều trị peginterferon‐α (2a
hoặc 2b) kết hợp ribavirin (PEG‐RBV) và 9 bệnh
nhân được điều trị interferon‐α cổ điển (2a hoặc
2b) kết hợp ribavirin (sIFN‐RBV). Phân loại
genotype 1, 2 và 6 chiếm lần lượt là 50%, 20% và
30%. 70% có HCVRNA cao (>400.000UI/ml),
nồng độ trung bình của HCVRNA là 5,94 ± 1,07
log10 IU/ml. Giá trị trung vị của HCVcAg là 3,37
log10 fmol/L và nồng độ trung bình của HCVcAg
là 3,19 ± 0,85log10fmol/L.
Các đáp ứng về virus
Đáp ứng virus bằng dữ liệu HCV RNA
Sau 4 tuần có 47 bệnh nhân (77%) có đáp
ứng nhanh đánh giá bằng mất HCVRNA hay
được phân loại có RVR. Sau 12 tuần đáp ứng
mất HCVRNA (EVR) tăng đến58 bệnh nhân
(95,1%) và tỉ lệ này giữ nguyên đến khi kết thúc
điều trị. Như vậy, chỉ có 3/61 trường hợp (4,9%)
không đạt đáp ứng cuối điều trị (ETVR), trong
đó có 2 bệnh nhân không giảm HCVRNA suốt
quá trình điều trị, và 1 bệnh nhân HCVRNA
dương tính trở lại sau 12 tuần, sau khi đã mất
HCVRNA (có RVR) trước đó. Phân bố đáp ứng
virus cuối điều trị không khác nhau theo giới
tính, genotype hay nồng độ virus trước điều trị.
Cả ba bệnh nhân không đạt ETVR đều thuộc
nhóm tuổi lớn (56 đến 66 tuổi)
Đáp ứng điều trị bằng dữ liệu HCVcAg
Biểu đồ 1: Tỷ lệ đáp ứng mất HCVcAg theo thời
gian điều trị
Diễn biến tỷ lệ đáp ứng HCVcAg theo thời
gian (Biểu đồ 1)
Tính theo từng thời điểm, có 81,4% (48/59
trường hợp) mất HCVcAg ngay sau 4 tuần (1
trường hợp HCVcAg âm tính nhưng chưa mất
HCVRNA). Tỷ lệ mất HCVcAg tăng nhanh đến
96,1% (49/51) sau 12 tuần, nhưng giảm còn
92,2% (47/51) khi ngưng điều trị do có 2 trường
hợp HCVcAg dương tính trở lại. Theo dõi theo
chiều dọc diễn biến HCVcAg trên nhóm bệnh
nhân mất HCVcAg sau 4 tuần có41/41 trường
hợp đều duy trì được HCVcAg âm đến 12 tuần,
nhưng khi kết thúc điều trị có 1 bệnh nhân tái
xuất hiện HCVcAg (CA073) dù vẫn còn giữ
được HCVRNA âm (Biểu đồ 3). Cùng theo dõi
dọc trên 10 bệnh nhân HCVcAg còn dương tính
sau 4 tuần, 8/10 bệnh nhân có HCVcAg âm tính
thêm sau 12 tuần, 2/10 bệnh nhân vẫn còn
dương tính đến cuối điều trị.
Liên quan giữa mất HCVcAg với ETVR
So sánh với đáp ứng mất HCVRNA cuối
điều trị (ETVR): có 47/48 trường hợp HCVcAg
âm tính sau 4 tuần và 49/49 trường hợp
HCVcAg âm sau 12 tuần đạt đáp ứng virus cuối
điều trị (HCVRNA âm), giá trị chẩn đoán dương
là 97,9% và 100% (Bảng 1). Tuy nhiên cả 2 ca
không mất HCVcAg sau 12 tuần, đều không có
đáp ứng ETVR, giá trị dự báo âm cho ETVR của
HCVcAg vào tuần 12 là 100%.Trong nhóm 8
bệnh nhân HCVcAg âm tính muộn vào tuần 12,
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 344
cả 8/8 bệnh nhân đều đạt đáp ứng virus cuối
điều trị (HCVRNA âm). Tuy vậy, có 1/8 bệnh
nhân này có xuất hiện HCVcAg trở lại cuối điều
trị (Biểu đồ 2).
Bảng 1: Liên quan giữa mất HCVcAg với ETVR
Mất HCVcAg ETVR p
Có % Không %
Sau 1 tháng (n = 59) 0,028
Có 47 97,9 1 2,1
Không 9 81,8 2 18,2
Sau 3 tháng (n = 51) <0.001
Có 49 100 0 0
Không 0 0 2 100
Kết thúc (n = 51) <0,001
Có 47 100 0 0
Không 2 50 2 50
Động học HCV RNA và HCVcAg và theo
điều trị
Khi so sánh diễn biến giá trị trung bình của
HCVRNA ở hai nhóm có và không có ETVR
thấy nhóm đạt ETVR có HCV RNA ban đầu cao
hơn nhóm không đạt ETVR, nhưng giảm nhanh
>4 log10 IU/mL, đến bằng ngưỡng 50 IU/mL sau
4 tuần, tiếp tục giảm xuống <15 IU/mL sau 12
tuần và giữ dưới ngưỡng này đến cuối điều trị.
Ở nhóm không đạt ETVR diễn biến sau 4 tuần
đầu điều trị cũng có giảm HCVRNA nhưng biên
độ giảm <1 log10 IU/mL, sau đó HCV RNA cũng
không giảm thêm và tăng trở lại từ sau 12 tuần.
Quan sát diễn tiến của HCVcAg ta cũng thấy
có hình ảnh tương tự. Ở nhóm có ETVR, nồng
độ HCVcAg ban đầu cũng tương đương với
nhóm không có ETVR, HCVcAg cũng giảm
nhanh >2 log10 fmol/L để đến ngưỡng phát hiện
là 3 fmol/L sau 4 tuần, tiếp tục giảm đến mức
không phát hiện sau 12 tuần và giữ nguyên tình
trạng âm tính này đến cuối điều trị. Ở nhóm
không có đáp ứng ETVR, nồng độ HCVcAg
cũng giảm nhưng biên độ giảm <2 log10
fmol/Lnên vẫn còn trên ngưỡng phát hiện sau 4
tuần (như diễn biến HCV RNA), sau đó
HCVcAg tăng trở lại ngay từ tuần thứ năm và
đạt nồng độ cao nhất ở tuần 12, duy trì nồng độ
này cho tới cuối điều trị. Như vậy HCVcAg diễn
biến tăng trở lại sớm hơn HCV RNA ở nhóm
không có đáp ứng ETVR (Biểu đồ 2).
Biểu đồ 2: Động học HCVcAg theo điều trị ở hai nhóm ETVR
Biểu đồ 3 biểu diễn động học của HCVcAg ở
các bệnh nhân không mất HCVcAg. Theo biểu
đồ này, có 2 kiểu không có đáp ứng mất
HBVcAg. Kiểu điển hình là không giảm mật độ
HCVcAg trong điều trị (CA114 và CA095), kiểu
thứ hai là giảm nhanh HCVcAg sau 4 tuần,
nhưng sau đó tăng hay dương tính trở lại
(CA073 và CA146)
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học
Nhiễm 345
Biểu đồ 3: Động học HCVcAg trên 4 bệnh nhân còn dương tính cuối điều trị
BÀN LUẬN
Tỷ lệ có ETVR trong nhóm nghiên cứu đạt
khá cao (95,1%). Nhóm nghiên cứu cũng có tỷ lệ
được điều trị PegIFN cao so với các nghiên cứu
công bố tại Việt Nam trước đây. Tỷ lệ genotype
xác định bằng kỹ thuật PCR với mồi để phát
hiện đặc điểm genotype theo tính chất của vùng
5’UTR kết hợp với vùng core như nghiên cứu có
lẽ vẫn chưa phân loại đúng genotype vì tỷ lệ
genotype 1 chiếm đến 50%, cao hơn so với các
khảo sát genotype tại Việt Nam theo kỹ thuật
giải trình tự gen chuẩn dưới 40%. Nghiên cứu
chỉ ngừng lại ở đáp ứng ETVR do hạn chế về
thời gian theo dõi cho nên số trường hợp không
đáp ứng hay tái phát được phát hiện ít, chỉ 3/61
ca trong thời gian điều trị, trong khi đa số bệnh
nhân không đạt SVR xảy ra tái hoạt virus sau
khi ngừng điều trị.
Trong nghiên cứu của Tanaka và cộng sự
trên 27 bệnh nhân điều trị viêm gan C(12) đã ghi
nhận mất HCVcAgdiễn ra nhanh sau 2 tuần
điều trị và duy trì âm tínhHCVcAg (<20 pg/mL
hay <1000 fmol/L) kéo dài suốt quá trình điều trị
cho đến khi đạt SVR ở nhóm có đáp ứng SVR
mặc dù ngưỡng phát hiện HCVcAg trong
nghiên cứu trên còn khá cao. Trong nghiên cứu
này đa số bệnh nhân đạt ETVR cũng có biên độ
giảm HCVcAg>2 log10 fmol/L, nhiều hơn nhóm
không có ETVR, và duy trì trạng thái âm tính
HCVcAg (0 fmol/L) từ sau 12 tuần cho đến cuối
điều trị. Trạng thái âm tính của HCVcAg ở sau
12 tuần điều trị cũng được phân tích giá trị dự
báo cho đáp ứng ETVR. Kết quả cho thấy mất
HCVcAg ở 12 tuần có độ nhạy, độ đặc hiệu,
giá trị dự đoán âm và dương cho ETVR đến
100%.
Tuy số thất bại hay tái phát rất ít, chúng tôi
vẫn phát hiện có 2 trường hợp HCVcAg
dương tính trở lại (CA073 và CA146, Biểu đồ 3)
mặc dù 2 trường hợp này vẫn được xem là có
đáp ứng virus cuối điều trị (ETVR) theo phân
loại HCVRNA âm tính. Diễn biến tiếp theo về
HCVRNA ở 2 bệnh nhân này sẽ ra sao sau khi
HCVcAg dương tính trở lại là điều được quan
tâm, nhưng chưa có câu trả lời trong nghiên
cứu này do hạn chế thời gian theo dõi. Câu hỏi
lớn hơn được đặt ra là HCVcAg có thể dự báo
trước khả năng tái phát hay không? Điều này
chưa có nhiều tác giả quan sát và công bố,
nhưng việc theo dõi nhóm nghiên cứu này hứa
hẹn sẽ cho những thông tin quan trọng liên
quan đến giá trị của HCVcAg trong diễn biến
đáp ứng hay tái phát.
Về động học của HCVcAg trong dự báo đáp
ứng điều trị: Trong một nghiên cứu năm 2000
trên 48 bệnh nhân viêm gan C mạn điều trị (13)
Tanaka cũng quan sát được động học của
HCVcAg rất giống với nghiên cứu này. Theo
đó,nhóm có đáp ứng ETVR nồng độ HCVcAg
giảm nhanh và nhiều hơn nhóm không có đáp
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014
Chuyên Đề Nội Khoa 346
ứng ETVR sau 4 tuần và duy trì trạng thái âm
tính từ sau 12 tuần trở đi cho tới cuối điều trị. Ở
nhóm không có ETVR, nồng độ HCVcAg cũng
có giảm khi bắt đầu điều trị nhưng với biên độ
thấp hơn, tăng trở lại ngay sau 1 tháng điều trị
và tiếp tục tăng cho đến cuối điều trị. Như vậy,
ở nhóm không có ETVR, HCVcAg và HCV RNA
đều cùng giảm nhẹ (<2 log10fmol/L) sau 4 tuần
điều trị và đều tăng trở lại mặc dù bệnh nhân
vẫn tiếp tục được điều trị.Nồng độ
HCVcAgcũng cho thấy tăng trở lại sớm hơn so
với HCV RNA.
KẾT LUẬN
Mất HCVcAg sau 12 tuần có giá trị dự báo
tốt cho đáp ứng cuối điều trị (ETVR) với độ
nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự báo âm, dương tối
đa (100%). Động học HCVcAg cũng giống động
học của HCV RNA trong quá trình điều trị
nhưng diễn biến tái phát của HCVcAg xảy ra
trước. HCVcAg là xét nghiệm đơn giản hơn nên
có thể có ý nghĩa dự báo sớm tái phát sau khi có
thêm thời gian theo dõi đến 6 tháng hay 24
tháng sau khi ngừng điều trị.
Chân thành cảm ơn các BS và ĐD Phòng khám Viêm
gan và Khoa Nhiễm Việt – Anh BV Bệnh Nhiệt Đới, DS
Nguyễn Thanh Tòng và BS Nguyễn Bảo Toàn Trung tâm
Y khoa Medic TP HCM, BS Nguyễn Bảo Phúc công ty
Abbott đã hỗ trợ trong quá trình thực hiện nghiên cứu
này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ait‐Goughoulte M, Hourioux C, Patient R, Trassard S, Brand
D, Roingeard P. (2006). Core protein cleavage by signal
peptide peptidase is required for hepatitis C virus‐like
particle assembly. J Gen Virol 2006;87:855‐860.
2. Aoyagi K, Ohue C, Iida K, Kimura T, Tanaka E, Kiyosawa K,
et al. (1999). Development of a simple and highly sensitive
enzyme immunoassay for hepatitis C virus core antigen. J
Clin Microbiol 1999;37:1802‐1808.
3. Gonzalez V, Padilla E, Diago M, Gimenez MD, Sola R, Matas
L, et al. (2005). Clinical usefulness of total hepatitis C virus
core antigen quantification to monitor the response to
treatment with peginterferon alpha‐2a plus ribavirin*. J Viral
Hepat 2005;12:481‐487.
4. Hayashi K, Hasuike S, Kusumoto K, Ido A, Uto H, Kenji N, et
al. (2005). Usefulness of a new immuno‐radiometric assay to
detect hepatitis C core antigen in a community‐based
population. J Viral Hepat 2005;12:106‐110.
5. Laperche S, Elghouzzi MH, Morel P, Asso‐Bonnet M, Le
MN, Girault A, et al. (2005). Is an assay for simultaneous
detection of hepatitis C virus core antigen and antibody a
valuable alternative to nucleic acid testing? Transfusion
2005;45:1965‐1972.
6. Lee SR, Peterson J, Niven P, Bahl C, Page E, DeLeys R, et al.
(2001). Efficacy of a hepatitis C virus core antigen enzyme‐
linked immunosorbent assay for the identification of
ʹwindow‐phaseʹ blood donations. Vox Sang 2001;80:19‐23.
7. Maynard M, Pradat P, Berthillon P, Picchio G, Voirin N,
Martinot M, et al. (2003). Clinical relevance of total HCV core
antigen testing for hepatitis C monitoring and for predicting
patientsʹ response to therapy. J Viral Hepat 2003;10:318‐323.
8. Muerhoff AS, Jiang L, Shah DO, Gutierrez RA, Patel J, Garolis
C, et al. (2002). Detection of HCV core antigen in human
serum and plasma with an automated chemiluminescent
immunoassay. Transfusion 2002;42:349‐356.
9. Santolini E, Migliaccio G, La MN. (1994). Biosynthesis and
biochemical properties of the hepatitis C virus core protein. J
Virol 1994;68:3631‐3641.
10. Shah DO, Chang CD, Jiang LX, Cheng KY, Muerhoff AS,
Gutierrez RA, et al. (2003). Combination HCV core antigen
and antibody assay on a fully automated chemiluminescence
analyzer. Transfusion 2003;43:1067‐1074.
11. Stefan Mauss, Thomas Berg, Juergen Rockstroh, Christoph
Sarrazin, Heiner Wedemeyer. (2012). Hepatology 2012: A
Clinical Textbook. 2012; Flying Publisher; 2012 p. 1‐546.
12. Tanaka E, Kiyosawa K, Matsumoto A, Kashiwakuma T,
Hasegawa A, Mori H, et al. (1996). Serum levels of hepatitis C
virus core protein in patients with chronic hepatitis C treated
with interferon alfa. Hepatology 1996;23:1330‐1333.
13. Tanaka E, Ohue C, Aoyagi K, Yamaguchi K, Yagi S,
Kiyosawa K, et al. (2000). Evaluation of a new enzyme
immunoassay for hepatitis C virus (HCV) core antigen with
clinical sensitivity approximating that of genomic
amplification of HCV RNA. Hepatology 2000;32:388‐393.
14. Tellinghuisen TL, Rice CM. (2002). Interaction between
hepatitis C virus proteins and host cell factors. Curr Opin
Microbiol 2002;5:419‐427.
Ngày nhận bài báo: 01/11/2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 26/11/2013
Ngày bài báo được đăng: 05/01/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 341_8879.pdf