Trên các mặt cắt địa chấn, hệ tầng Phù Tiên được thể hiện bằng tập địa chấn nằm ngang phủ bất chỉnh hợp ngay trên mặt đá móng trước Đệ Tam. Tuy nhiên, nó chỉ được theo dõi tốt ở vùng vịnh Bắc Bộ. Tập địa chấn này có các phản xạ biên độ cao, tần số thấp, độ liên tục từ trung bình đến
kém ở miền võng Hà Nội và chuyển sang dạng phản xạ song song, độ liên tục tốt ở vịnh Bắc Bộ.
Tuổi Eocen của hệ tầng được xác định dựa theo các dạng bào tử phấn hoa, đặc biệt là Trudopollisvà Ephedripites. Nguyễn Địch Dỹ (1981) và Phạm Quang Trung (1998) cho rằng chúng có tuổi CretaPaleogen, có nhiều khả năng là Eocen. Tuy nhiên, dựa vào quan hệ nằm dưới các trầm tích Oligocen (hệ tầng Đình Cao), nên xếp hệ tầng Phù Tiên vào Eocen. Hệ tầng được thành tạo trong môi trường sườn tích - sông hồ. Đó là các trầm tích lấp đầy các địa hào sụt lún nhanh, diện phân bố hẹp.
40 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương
Địa tầng các
bể trầm tích
Kainozoi
Việt Nam
6
139
Chương 6. Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam
Nghiên cứu địa tầng thực chất là phân
chia các đơn vị địa tầng và đối sánh chúng
với nhau. Cơ sở để giải quyết nhiệm vụ này
chủ yếu được dựa theo “Quy phạm về địa
tầng Việt Nam - 1994” và “Hướng dẫn địa
tầng quốc tế - 1993, 2000”.
Do đặc điểm của vùng nghiên cứu là
các trầm tích bị phủ, không trực tiếp quan
sát được, các giếng khoan xa nhau, tỷ lệ
mẫu lõi rất hạn chế v.v... nên để xây dựng
cột địa tầng tổng hợp của từng giếng khoan,
từng vùng, từng bể trầm tích và liên kết với
khu vực phụ cận chúng tôi đã phối hợp sử
dụng các phương pháp nghiên cứu thạch
Trầm tích Kainozoi phân bố rộng rãi trên thềm lục địa và đất liền Việt Nam. Phần lớn
chúng tập trung trong các bể trầm tích, có nơi dày trên 10.000 m. Nghiên cứu địa tầng trầm
tích Kainozoi trong thời gian qua gắn liền với quá trình tìm kiếm - thăm dò dầu khí và đã có
những kết quả đáng khích lệ.
Cho đến nay sau hơn nửa thế kỷ, công tác tìm kiếm - thăm dò dầu khí đã trải khắp trên các
bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam. Một khối lượng khổng lồ các tài liệu địa chất
- địa vật lý đã được thu thập. Hàng chục vạn km tuyến địa chấn đã được xử lý. Hàng trăm
giếng khoan đã có kết quả phân tích. Nhiều báo cáo về trầm tích, cổ sinh, carota và địa chấn
địa tầng cùng với hàng loạt các báo cáo tổng hợp của các cơ quan nghiên cứu, các công ty
trong và ngoài nước như Liên đoàn địa chất 36, Viện Dầu khí Việt Nam, Công ty TOTAL, BP,
SHELL, FINA, MOBIL, UNOCAL, VIETSOVPETRO, JVPC, IDEMITSU, PETRONAS..v.v...
Hầu hết các báo cáo đều đề cập đến khía cạnh địa tầng, song mức độ nghiên cứu của từng
báo cáo có nét khác nhau. Những kết quả đó đã được các tác giả Golovenok V.K - Lê Văn
Chân (1960 - 1970), Paluxtovich - Nguyễn Ngọc Cư (1971), Vũ Văn Nhi (1975) Sevostianov
(1977), Phạm Hồng Quế (1981), Nguyễn Giao (1982), Lê Văn Cự (1982), J. Moris (1993),
C. Sladen (1997) Ngô Thường San (1981, 1987), Lê Đình Thám (1992), Đỗ Bạt - Phan Huy
Quynh (1985, 1993, 2002)... nghiên cứu tổng hợp và trình bày trên các bảng 6.1, 6.2, 6.3,
6.4.
Đặc biệt kết quả nghiên cứu gần đây nhất đã được Đỗ Bạt, Phan Huy Quynh, Ngô Xuân
Vinh, Phan Giang Long và Nguyễn Quý Hùng tổng hợp vào năm 2002, được xem là tài liệu
địa tầng sử dụng phổ biến trong tìm kiếm thăm dò dầu khí các bể trầm tích Kainozoi thềm
lục địa và đất liền Việt Nam cả về phương pháp nghiên cứu và kết quả đạt được.
1. Phương pháp nghiên cứu
140
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
địa tầng, sinh địa tầng, carota và địa chấn
địa tầng…, nhằm khắc phục điểm yếu và bổ
xung các thế mạnh cho nhau giữa phương
pháp này và phương pháp khác trong
nghiên cứu địa tầng. Việc tổng hợp này sẽ
tuân theo các nguyên tắc chủ yếu sau:
• Các phân chia thạch địa tầng là đơn vị
cơ bản. Đặc điểm của chúng được xác
định bằng các tài liệu trầm tích, cổ sinh
và carota.
• Tuổi của các đơn vị địa tầng dựa theo
tài liệu cổ sinh
• Ranh giới của các đơn vị địa tầng thường
được xác định theo tài liệu carota, còn
đặc trưng của các mặt bất chỉnh hợp,
các đơn vị địa tầng thường dựa theo các
tài liệu địa chấn.
• Liên kết địa tầng giữa các vùng dựa
theo tuổi trầm tích được xác định theo
tài liệu cổ sinh và theo dõi các tập địa
chấn địa tầng mang tính khu vực.
Kết quả nghiên cứu địa tầng trầm tích
Đệ Tam của các nhà địa chất trong và
ngoài nước trong thời gian qua được tổng
hợp trong chuyên đề này sẽ cho bức tranh
toàn cảnh địa tầng trầm tích Đệ Tam thềm
lục địa và đất liền Việt Nam.
2. Địa tầng các bể trầm tích Đệ Tam
2.1. Bể Sông Hồng
a. Miền võng Hà Nội - Vịnh Bắc Bộ
(BẮC BỂ SÔNG HỒNG)
(Hình 6.1)
PALEOGEN
Eocen
Hệ tầng Phù Tiên (E2 pt)
Mặt cắt chuẩn được Phạm Hồng Quế
mô tả tại GK.104 Phù Tiên-Hưng Yên từ
độ sâu 3.544 m đến 3.860 m và đặt tên là
Điệp Xuân Hoà (1981) bao gồm cát kết,
sét bột kết màu nâu tím, màu xám xen các
lớp cuội kết có độ hạt rất khác nhau từ vài
cm đến vài chục cm. Thành phần hạt cuội
thường là ryolit, thạch anh, đá phiến kết
tinh và quarzit. Cát kết có thành phần đa
khoáng, độ mài tròn và chọn lọc kém, nhiều
hạt thạch anh, calcit bị gặm mòn, xi măng
Hình 6.1. Địa tầng tổng hợp Bắc bể Sông Hồng
141
Chương 6. Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam
calcit-sericit. Bột kết rắn chắc thường màu
tím chứa sericit và oxyt sắt. Trên cùng là
lớp cuội kết hỗn tạp màu tím, màu đỏ xen
các đá phiến sét với nhiều vết trượt láng
bóng. Bề dày của hệ tầng tại giếng khoan
này đạt 316 m. Năm 1982 trong các công
trình nghiên cứu tổng hợp các tác giả Đỗ
Bạt, Phan Huy Quynh đã đổi thành Điệp
Phù Tiên, còn Lê Văn Cự (1982) đổi thành
hệ tầng Phù Tiên theo địa danh huyện Phù
Tiên (Hưng Yên), nơi giếng khoan 104 đã
phát hiện ra hệ tầng. Ở ngoài khơi vịnh Bắc
Bộ, hệ tầng Phù Tiên đã được phát hiện ở
GK. 107-PA-1X (3.050-3.535 m) với cuội
sạn kết có kích thước nhỏ, thành phần chủ
yếu là các mảnh đá granit và đá biến chất
xen với cát kết, sét kết màu xám, màu nâu
có các mặt trượt hoặc bị phân phiến mạnh.
Các đá kể trên bị biến đổi thứ sinh mạnh.
Bề dày hệ tầng ở đây khoảng 485 m.
Trên các mặt cắt địa chấn, hệ tầng Phù
Tiên được thể hiện bằng tập địa chấn nằm
ngang phủ bất chỉnh hợp ngay trên mặt đá
móng trước Đệ Tam. Tuy nhiên, nó chỉ
được theo dõi tốt ở vùng vịnh Bắc Bộ. Tập
địa chấn này có các phản xạ biên độ cao,
tần số thấp, độ liên tục từ trung bình đến
kém ở miền võng Hà Nội và chuyển sang
dạng phản xạ song song, độ liên tục tốt ở
vịnh Bắc Bộ.
Tuổi Eocen của hệ tầng được xác
định dựa theo các dạng bào tử phấn hoa,
đặc biệt là Trudopollis và Ephedripites.
Nguyễn Địch Dỹ (1981) và Phạm Quang
Trung (1998) cho rằng chúng có tuổi Creta-
Paleogen, có nhiều khả năng là Eocen. Tuy
nhiên, dựa vào quan hệ nằm dưới các trầm
tích Oligocen (hệ tầng Đình Cao), nên xếp
hệ tầng Phù Tiên vào Eocen. Hệ tầng được
thành tạo trong môi trường sườn tích - sông
hồ. Đó là các trầm tích lấp đầy các địa hào
sụt lún nhanh, diện phân bố hẹp.
Oligocen
Hệ tầng Đình Cao (E3 đc)
Hệ tầng mang tên xã Đình Cao (Phù
Tiên-Hưng Yên), nơi đặt GK. 104 đã mở
Bảng 6.1. Khái quát phân chia địa tầng miền võng Hà Nội và Bắc bể Sông Hồng
142
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
ra mặt cắt chuẩn của hệ tầng. Tại đây, từ
độ sâu 2.396 đến 3.544 m, mặt cắt chủ yếu
gồm cát kết màu xám sáng, xám sẫm đôi
chỗ phớt tím, xen các lớp kẹp cuội kết dạng
puđing, sạn kết chuyển lên các lớp bột kết,
sét kết màu xám, xám đen, rắn chắc xen ít
lớp cuội sạn kết. Các đường cong đo địa vật
lý giếng khoan phân dị rõ với giá trị điện
trở suất cao. Bề dày của hệ tầng ở mặt cắt
này là 1.148 m.
Hệ tầng Đình Cao phát triển mạnh ở
Đông Quan, Thái Thụy, Tiền Hải và vịnh
Bắc Bộ, bao gồm cát kết xám sáng, sáng
xẫm, hạt nhỏ đến vừa, ít hạt thô, đôi khi
gặp cuội kết, sạn kết có độ lựa trọn trung
bình đến tốt. Đá gắn kết chắc bằng xi măng
carbonat, sét và oxýt sắt. Cát kết đôi khi
chứa glauconit (GK.104-QN-1X, 107-PA-
1X). Sét kết xám sáng, xám sẫm có các mặt
trượt láng bóng, đôi chỗ có các thấu kính
than hoặc các lớp kẹp mỏng sét vôi, chứa
hoá thạch động vật. Chiều dầy hệ tầng thay
đổi từ 300-1.148m.
Điều đáng lưu ý là các tập bột kết và
sét kết màu xám đen phổ biến ở trũng
Đông Quan và vịnh Bắc Bộ chứa lượng vật
chất hữu cơ ở mức độ trung bình (0,54%wt).
Chúng được xem là đá mẹ sinh dầu ở bể
Sông Hồng.
Trên mặt cắt địa chấn, hệ tầng Đình Cao
đặc trưng bằng các phản xạ mạnh, biên độ
cao, độ liên tục trung bình, nằm xiên, gián
đoạn xâm thực thể hiện các trầm tích vụn
thô chân núi hay aluvi. Phần dưới của mặt
cắt có các phản xạ không liên tục, biên độ
trung bình. Đặc biệt còn nhận thấy phần
đáy của tập được thể hiện bằng các mặt kề
áp, một pha, độ liên tục kém, biên độ cao.
Đây chính là mặt bất chỉnh hợp giữa các hệ
tầng Đình Cao và Phù Tiên. Ở các giếng
khoan 203, 81, 204, 200, 106 các trầm tích
bị vò nhàu và dốc đứng đến 800 với chiều
giếng khoan.
Trong hệ tầng Đình Cao mới chỉ tìm
thấy các vết in lá thực vật, bào tử phấn hoa,
Diatomeae, Pediatrum và động vật nước
ngọt.
Tuổi Oligocen của phức hệ nói trên dựa
theo: Cicatricosisporites dorogensis (LAD
trong Oligocen muộn), Lycopodiumsporites
neogenicus (chỉ trong Oligocen),
Gothanopollis bassensis (chỉ có trong
Oligocen muộn), Florschuetzia trilobata
(FAD trong Eocen/Oligocen).
Hoá thạch động vật thân mềm nước ngọt
Viviparus kích thước nhỏ. Tuy hóa thạch
này có khoảng phân bố địa tầng rất rộng
(Creta-Neogen), nhưng rất có ý nghĩa trong
việc đánh dấu đối với trầm tích Oligocen
miền võng Hà Nội, nên được dùng để nhận
biết hệ tầng Đình Cao là “Các lớp chứa
Viviparus nhỏ”.
Hệ tầng Đình Cao thành tạo trong môi
trường đầm hồ - aluvi. Hệ tầng nằm không
chỉnh hợp trên hệ tầng Phù Tiên.
NEOGEN
Miocen dưới
Hệ tầng Phong Châu (N11 pch)
Năm 1972 Paluxtovich và Nguyễn
Ngọc Cư đã mô tả mặt cắt trầm tích được
mở ra từ 1.820-3.000m ở giếng khoan 100
xã Phong Châu-Thái Bình và đặt tên là hệ
tầng Phong Châu, nơi giếng khoan đã được
thi công. Mặt cắt trầm tích đặc trưng bằng
sự xen kẽ liên tục giữa những lớp cát kết
hạt vừa, hạt nhỏ màu xám trắng, xám lục
nhạt gắn kết rắn chắc với những lớp cát bột
kết phân lớp rất mỏng từ cỡ mm đến cm
143
Chương 6. Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam
tạo thành các cấu tạo dạng mắt, thấu kính,
gợn sóng và được gọi là các đá “dạng sọc”.
Cát kết có xi măng chủ yếu là carbonat với
hàm lượng cao (25%). Khoáng vật phụ gồm
nhiều glauconit và pyrit. Bề dày của hệ
tầng tại giếng khoan này đạt tới 1.180 m.
Hệ tầng Phong Châu phân bố chủ yếu
trong dải Khoái Châu - Tiền Hải (GK. 100)
và phát triển ra vịnh Bắc Bộ (GK. 103-
TH) với sự xen kẽ giữa các lớp cát kết, cát
bột kết và sét kết chứa dấu vết than hoặc
những lớp kẹp đá vôi mỏng (GK. 103-TH,
103-HOL). Cát kết màu xám đến xám sẫm,
hạt nhỏ đến vừa, ít hạt thô, chọn lọc trung
bình đến tốt, xi măng carbonat, ít sét. Sét
kết màu xám sáng đến xám sẫm và nâu
đỏ nhạt, phân lớp song song, lượn sóng,
với thành phần chủ yếu là kaolinit và ilit.
Bề dày của hệ tầng thay đổi từ 400 đến
1400m.
Trên các mặt cắt địa chấn, hệ tầng
Phong Châu được thể hiện bằng các tập
phản xạ song song, độ liên tục tốt, với thế
nằm biển tiến trên các khối nâng ở ngoài
khơi vịnh Bắc Bộ. Ở miền võng Hà Nội,
các phản xạ có biên độ cao, gồm 1-2 pha
phản xạ mạnh có thể liên quan đến các lớp
sét than.
Trên cơ sở phân tích các dạng hóa
thạch bào tử phấn hoa thu thập được Phan
Huy Quynh, Đỗ Bạt (1985, 1993, 1995) đã
xác lập được phức hệ Betula-Alnipollenites
và đới Florschuetzia levipoli tuổi Miocen
sớm.
Hệ tầng Phong Châu được thành tạo
trong môi trường đồng bằng châu thổ (GK.
104) có xen nhiều pha biển (GK. 100) với
các trầm tích biển tăng lên rõ rệt từ miền
võng Hà Nội ra vịnh Bắc Bộ. Hệ tầng nằm
không chỉnh hợp trên hệ tầng Đình Cao và
các đá cổ hơn.
Miocen giữa
Hệ tầng Phù Cừ (N12 pc)
Hệ tầng Phù Cừ được Golovenok V.
K., Lê Văn Chân (1966) mô tả lần đầu tại
GK. 2 (960 -1.180 m) trên cấu tạo Phù Cừ
miền võng Hà Nội. Tuy nhiên, khi đó chưa
gặp được phần đáy của hệ tầng và mặt cắt
được mô tả bao gồm các trầm tích đặc trưng
bằng tính chu kỳ rõ rệt với các lớp cát kết
hạt vừa, cát bột kết phân lớp mỏng (dạng
sóng, thấu kính, phân lớp xiên), bột kết, sét
kết cấu tạo khối chứa nhiều hóa thạch thực
vật, dấu vết động vật ăn bùn, trùng lỗ và
các vỉa than lignit. Cát kết có thành phần ít
khoáng, độ lựa chọn và mài tròn tốt, khoáng
vật phụ ngoài turmalin, zircon, đôi nơi gặp
glauconit và granat là những khoáng vật
không thấy trong hệ tầng Phong Châu.
Sau này, Phan Huy Quynh, Đỗ Bạt
(1983) và Lê Văn Cự (1985) khi xem xét
lại toàn bộ các mặt cắt của hệ tầng Phù Cừ
tại các giếng khoan sâu xuyên qua toàn bộ
hệ tầng (GK. 100, 101, 102, 204) và quan
hệ của chúng với hệ tầng Phong Châu nằm
dưới, theo quan điểm về nhịp và chu kỳ
trầm tích đã chia hệ tầng Phù Cừ thành 3
phần, mỗi phần là một nhịp trầm tích bao
gồm cát kết, bột kết, sét kết có chứa than
và hóa thạch thực vật. Một vài nơi gặp
trùng lỗ và thân mềm nước lợ.
Hệ tầng Phù Cừ phát triển rộng khắp
ở miền võng Hà Nội, có bề dày mỏng ở
vùng Đông Quan và phát triển mạnh ở vịnh
Bắc Bộ với thành phần trầm tích gồm cát
kết, sét bột kết, than và đôi nơi gặp các
lớp mỏng carbonat. Cát kết có màu xám
sáng đến xám lục nhạt, thường hạt nhỏ đến
144
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
vừa, đôi khi hạt thô (GK.104-QN), chọn lọc
trung bình đến tốt, phổ biến cấu tạo phân
lớp mỏng, thấu kính, lượn sóng, đôi khi
dạng khối chứa nhiều kết hạch siderit, đôi
nơi có glauconit (các GK. 100, 102, 110,
104, 204, 107-PA ). Cát kết có xi măng gắn
kết nhiều carbonat, ít sét. Sét bột kết xám
sáng đến xám sẫm, chứa rất ít carbonat, ít
vụn thực vật và than (GK. 103-TH) có ít lớp
đá carbonat mỏng (GK. 103-TH, 107-PA).
Bề dày chung của hệ tầng thay đổi từ 1.500
đến 2.000 m
Điều đáng lưu ý là sét kết của hệ tầng
thường có tổng hàm lượng vật chất hữu cơ
bằng 0,86%wt, đạt tiêu chuẩn của đá mẹ
sinh dầu và thực tế đã có phát hiện dầu và
condensat trong hệ tầng Phù Cừ ở miền
võng Hà Nội
Trên mặt cắt địa chấn, hệ tầng Phù Cừ
được thể hiện bằng các pha sóng phản xạ
có dạng song song hay hỗn độn, biên độ
lớn, tần số cao, thường liên quan đến các
tập chứa than. Ranh giới của hệ tầng với
hệ tầng Phong Châu nằm dưới có đặc trưng
sóng gồm 1 đến 2 pha phản xạ mạnh, biên
độ cao, độ liên tục tốt.
Tuổi Miocen giữa của các phức hệ hoá
thạch được xác định theo Florschuetzia
trilobata với Fl. semilobata và theo
Globorotalia mayeri, theo Orbulina universa
(N9)
Hệ tầng Phù Cừ được hình thành trong
môi trường đồng bằng châu thổ có xen các
pha biển chuyển dần sang châu thổ, châu
thổ ngập nước - tiền châu thổ, theo hướng
tăng dần ra vịnh Bắc Bộ.
Hệ tầng Phù Cừ nằm chỉnh hợp trên hệ
tầng Phong Châu.
Miocen trên
Hệ tầng Tiên Hưng (N13 th)
Hệ tầng Tiên Hưng được Golovenok
V. K., Lê Văn Chân (1966) đặt theo tên
địa phương, nơi mặt cắt chuẩn của hệ tầng
được mở ra từ 250-1.010m ở giếng khoan
4 Tiên Hưng-Thái Bình, bao gồm các trầm
tích có tính phân nhịp rõ ràng với các nhịp
bắt đầu bằng sạn kết, cát kết chuyển lên
bột kết, sét kết, sét than và nhiều vỉa than
lignit, với bề dày phần thô thường lớn hơn
phần mịn. Số lượng nhịp thấy được trong
hệ tầng lên tới 15-18 nhịp. Cát kết, sạn
kết thường gắn kết yếu hoặc chưa gắn kết,
chứa nhiều granat, các hạt có độ lựa chọn
và mài tròn kém. Trong phần dưới của hệ
tầng, các lớp thường bị nén chặt hơn và gặp
cát kết xám trắng chứa kết hạch siderit, xi
măng carbonat. Bề dày của hệ tầng trong
giếng khoan này là 760 m.
Thực tế việc xác định ranh giới giữa hệ
tầng Tiên Hưng và hệ tầng Phù Cừ nằm
dưới thường gặp nhiều khó khăn do có sự
thay đổi tướng đá như đã nêu trên. Phan
Huy Quynh, Đỗ Bạt (1985) đã phát hiện ở
phần dưới của hệ tầng một tập cát kết rất
rắn chắc màu xám chứa các vết in lá thực
vật phân bố tương đối rộng trong các giếng
khoan ở miền võng Hà Nội, đã coi đây là
dấu hiệu chuyển sang giai đoạn trầm tích
lục địa sau hệ tầng Phù Cừ và đáy của tập
cát kết này có thể coi là ranh giới dưới của
hệ tầng Tiên Hưng.
Hệ tầng Tiên Hưng có mặt trong hầu
hết các giếng khoan ở miền võng Hà Nội
và ngoài khơi vịnh Bắc Bộ với thành phần
chủ yếu là cát kết, ở phần trên thường là
cát kết hạt thô và sạn sỏi kết, sét kết, bột
kết, xen các vỉa than lignit. Mức độ chứa
than giảm đi rõ rệt do trầm tích tam giác
145
Chương 6. Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam
châu ngập nước, với tính biển tăng theo
hướng tiến ra vịnh Bắc Bộ. Các lớp cát
kết phân lớp dày đến dạng khối, màu xám
nhạt, mờ đục hoặc xám xanh, hạt nhỏ đến
thô, độ chọn lọc trung bình đến kém, chứa
hoá thạch động vật và vụn than, gắn kết
trung bình đến kém bằng xi măng carbonat
và sét. Sét bột kết màu xám lục nhạt, xám
sáng có chỗ xám nâu, xám đen (GK.104,
102-HD) chứa vụn than và các hóa thạch,
đôi khi có glauconit, pyrit (GK.100, 103-
TH). Bề dày của hệ tầng thay đổi trong
khoảng 760-3.000 m.
Trên mặt cắt địa chấn, hệ tầng Tiên
Hưng được biểu hiện bằng tập địa chấn có
độ phân lớp kém và phản xạ yếu, trục đồng
pha ngắn, biên độ cao, uốn nếp và có nhiều
lớp có biểu hiện của than. Hệ tầng Tiên
Hưng tiếp xúc với hệ tầng Phù Cừ nằm
dưới bằng mặt bất chỉnh hợp có dấu hiệu
biển lùi ở đới nâng cao, với 2 pha phản xạ
mạnh không liên tục.
Hoá thạch tìm thấy trong hệ tầng Tiên
Hưng gồm các vết in lá cổ thực vật, bào tử
phấn hoa, trùng lỗ và Nannoplankton, đặc
biệt có một phức hệ đặc trưng gồm Quercus
lobbii, Ziziphus thấy trong một lớp cát kết
hạt vừa dày khoảng 10 m, gặp trong phần
lớn các giếng khoan lấy mẫu ở miền võng
Hà Nội. Lớp cát kết này còn thấy ở nhiều
nơi trên miền Bắc Việt Nam như Tầm Chả
(Na Dương, Lạng Sơn), Bạch Long Vĩ,
Trịnh Quận (Phú Thọ).
Tuổi Miocen muộn của hệ tầng được xác
định theo phức hệ bào tử phấn Dacrydium
– Ilex – Quercus – Florschuetzia trilobata
– Acrostichum và Stenochlaena, cũng như
phức hệ trùng lỗ Pseudorotalia-Ammonia.
Môi trường trầm tích của hệ tầng Tiên
Hưng chủ yếu là đồng bằng châu thổ, xen
những pha biển ven bờ (trũng Đông Quan)
và tam giác châu ngập nước phát triển theo
hướng đi ra vịnh Bắc Bộ.
Pliocen
Hệ tầng Vĩnh Bảo (N2 vb)
Nằm bất chỉnh hợp trên trầm tích
Miocen, hệ tầng Vĩnh Bảo đánh dấu giai
đoạn phát triển cuối cùng của trầm tích Đệ
Tam trong miền võng Hà Nội - vịnh Bắc
Bộ thuộc bể Sông Hồng. Tại mặt cắt trong
GK.3 ở Vĩnh Bảo, Hải Phòng từ 240-510m,
có thể chia hệ tầng Vĩnh Bảo làm 2 phần:
phần dưới chủ yếu là cát, hạt mịn màu
xám, vàng chanh, phân lớp dày, có độ lựa
chọn tốt, đôi nơi có những thấu kính hay
lớp kẹp cuội, sạn hạt nhỏ xen kẽ; phần trên
có thành phần bột tăng dần. Bề dày chung
của hệ tầng tại giếng khoan này đạt khoảng
270 m. Trong đá gặp nhiều hóa thạch động
vật biển như thân mềm, san hô, trùng lỗ.
Hệ tầng Vĩnh Bảo đã được phát hiện
trong tất cả các giếng khoan; từ GK.3 (ven
biển) tiến vào đất liền tính lục địa của trầm
tích tăng lên, và hệ tầng mang đặc điểm
châu thổ chứa than (GK.2, Phù Cừ). Ngược
lại, tiến ra phía biển trầm tích mang tính
thềm lục địa rõ: cát bở rời xám sáng đến
xám sẫm, hạt nhỏ đến vừa, đôi khi thô đến
rất thô, chọn lọc trung bình đến tốt xen với
sét màu xám, xám xanh, mềm, chứa mica,
nhiều pyrit, glauconit và phong phú các
mảnh vỏ động vật biển, thấy ở tất cả các
giếng khoan (GK.104-QN, 103-TH, 107-
PA). Hệ tầng Vĩnh Bảo có chiều dày từ 200
đến 500 m và tăng dần ra biển.
Trên mặt cắt địa chấn, hệ tầng được
thể hiện bằng các phản xạ song song hoặc
gần song song, nằm ngang, tần số cao, biên
146
Địa chất và tài nguyên dầu khí Việt Nam
độ trung bình, độ liên tục tốt. Ở phần đáy
của hệ tầng, nơi tiếp xúc với hệ tầng Tiên
Hưng, thấy mặt bất chỉnh hợp rõ từ các mặt
gián đoạn bào mòn ở miền võng Hà Nội
đến các dạng biển tiến ở phần trung tâm
vịnh Bắc Bộ.
Tuổi của hệ tầng được xác định là
Pliocen trong khoảng N18-N20 dựa
theo trùng lỗ Globigerina bulloides
(N5-N20), Globigerina nepenthes (N14-
N19), Globigerinoides ruber (N18-N23),
Globigerinoides conglobatus (N18-N23),
và phức hệ bào tử phấn hoa Liquidambar-
Dacrydium với sự có mặt của Florschuetzia
levipoli, Fl. Meridionalis.
Hệ tầng Vĩnh Bảo chủ yếu hình thành
trong môi trường thềm biển, riêng khu vực
rìa TB và TN của miền võng Hà Nội trầm
tích tích tụ trong điều kiện đồng bằng châu
thổ có ảnh hưởng của biển.
b. Trũng Huế - Địa hào Quảng Ngãi
(NAM BỂ SÔNG HỒNG)
(Hình 6.2)
PALEOGEN
Oligocen
Hệ tầng Bạch Trĩ (E3 bt)
Các trầm tích lục nguyên phủ trên
móng trước Đệ Tam và nằm lót đáy trũng
Huế và địa hào Quảng Ngãi đã được một
số tác giả gọi là loạt Huế (J. Moris, 1993;
E. Lamers, 1993) hay Loạt Đà Nẵng (Đỗ
Bạt, 1993). Tuy nhiên trước đó tên Huế đã
được Nguyễn Ngọc sử dụng để đặt tên cho
trầm tích Đệ Tứ (1983). Do vậy mặt cắt đặc
trưng của hệ tầng mở ra tại giếng khoan
Bạch Trĩ (GK.112-BT) nơi Lê Đình Thám
đã mô tả, được Đỗ Bạt đặt tên là Hệ tầng
Bạch Trĩ (2001). Tại đây, từ độ sâu 3.667m
đến 3.936 m hệ tầng phủ không chỉnh hợp
trên đá dolomit tuổi Đevon. Mặt cắt gồm
chủ yếu là sét bột kết xen các tập cát kết
hạt nhỏ đến vừa màu xám, xám nâu và ít
lớp kẹp mỏng than. Đá sét rất rắn chắc,
phân lớp mỏng đến trung bình màu xám,
xám sẫm, chứa các mảnh vụn than hoặc
vật chất hữu cơ. Cát kết hạt nhỏ đến trung
bình, bán góc cạnh đến bán tròn cạnh, chọn
lọc trung bình đến tốt, màu xám sáng, xám
nâu nhạt gắn kết rắn chắc bằng xi măng
sét, carbonat. Bề dày chung của hệ tầng là
Hình 6.2. Địa tầng tổng hợp Nam bể Sông Hồng
147
Chương 6. Địa tầng các bể trầm tích Kainozoi thềm lục địa Việt Nam
269 m. Đây là trầm tích được thành tạo
trong môi trường aluvi, đầm hồ và đồng
bằng châu thổ.
Phát triển xuống phía Nam, ở lô 114
(GK.114-KT) hệ tầng có thành phần cát kết
nhiều hơn và xen các lớp sét kết. Chuyển
sang địa hào Quảng Ngãi, tại các lô 118 và
119 gặp những lớp đá lục nguyên tương đối
dày (>200 m) chủ yếu gồm cát kết hạt vừa,
thô, đến rất thô hoặc đôi khi gặp sạn và
cuội kết, xen ít lớp sét bột kết và những vỉa
than (GK.118-CVX). Trong cát kết, hạt vụn
thường bán góc cạnh đến bán tròn cạnh, độ
lựa chọn và mài tròn kém đến trung bình,
gắn kết chắc bằng xi măng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dia_chat_va_tai_nguyen_dau_khi_viet_nam_chuong_6_9988.pdf