Đề tài Ý thức và những biện pháp tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện xã hội

Ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình thức cao của sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có. ý thức của con người là cơ năng của cái “ khối vật chất đặc biệt phức tạm mà người ta gọi là bộ óc con người” (theo LêNin). Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà con là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất bại của thực tiễn, tác động tích cự hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vai trò của khoa học văn hoá và tư tưỏng.

Nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực kinh tế- kỹ thuật yếu, trong điều kiện sự biến đổi khoa học- công nghệ trên thế giới lại diễn ra rất nhanh, liệu nước ta có thể đạt đựoc những thành công mong muốn trong việc tạo ra nền khoa học- công nghệ đạt tiêu chuẩn quốc tế trong một thời gian ngắn hay không? Chung ta phải làm gì để tránh được nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra cho chúng ta một vấn đề đó là sự lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên phát triển khoa học- công nghệ trong quan hệ với phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới. Như vậy có nghĩa là ta cần phải có tri thức vì tri thức là khoa học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao khả năng nhận thức cho mỗi người. Tuy nhiên nếu tri thức không biến thành niềm tin và ý chí thì tự nó cũng không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực cả.Chỉ chú trọng đến tri thức mà bỏ qua công tác văn hoá- tư tưởng thì sẽ không phát huy được thế mạnh truyền thống của dân tộc. Chức năng của các giá trị văn hoá đã đem lại chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không có tính đạo đức thì tất cả các dạng giá trị ( giá trị vật chất và tinh thần) sẽ mất đi mọi ý nghĩa.Còn cách mạng tư tưởng góp phần làm biến đổi đời sống tinh thần- xã hội, xây dựng mối quan hệ tư tưởng, tình cảm của con người với tư cách là chủ thể xây dựng đời sống tinh thần và tạo ra được những điều kiện đảm bảo sự phát triển tự do của con người.Mà có tự do thì con người mới có thể tham gia xây dựng đất nước.

Như vậy, ý thức mà biểu hiện trong đời sống xã hội là các vấn đề khoa học- văn hoá- tư tưởng có vai trò vô cùng quan trọng. Tìm hiểu về ý thức để có những biện pháp đúng đắn tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện xã hội.

 

doc14 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1237 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đề tài Ý thức và những biện pháp tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện xã hội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời Mở Đầu ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học. Nó là hình thức cao của sự phản ánh của thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có. ý thức của con người là cơ năng của cái “ khối vật chất đặc biệt phức tạm mà người ta gọi là bộ óc con người” (theo LêNin). Tác động của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn. Nó không những là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà con là động lực thực tiễn. Sự thành công hay thất bại của thực tiễn, tác động tích cự hay tiêu cực của ý thức đối với sự phát triển của tự nhiên, xã hội chủ yếu phụ thuộc vào vai trò chỉ đạo của ý thức mà biểu hiện ra là vai trò của khoa học văn hoá và tư tưỏng. Nền kinh tế của nước ta từ một điểm xuất phát thấp, tiềm lực kinh tế- kỹ thuật yếu, trong điều kiện sự biến đổi khoa học- công nghệ trên thế giới lại diễn ra rất nhanh, liệu nước ta có thể đạt đựoc những thành công mong muốn trong việc tạo ra nền khoa học- công nghệ đạt tiêu chuẩn quốc tế trong một thời gian ngắn hay không? Chung ta phải làm gì để tránh được nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đặt ra cho chúng ta một vấn đề đó là sự lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên phát triển khoa học- công nghệ trong quan hệ với phát triển kinh tế trong các giai đoạn tới. Như vậy có nghĩa là ta cần phải có tri thức vì tri thức là khoa học. Chúng ta phải không ngừng nâng cao khả năng nhận thức cho mỗi người. Tuy nhiên nếu tri thức không biến thành niềm tin và ý chí thì tự nó cũng không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực cả.Chỉ chú trọng đến tri thức mà bỏ qua công tác văn hoá- tư tưởng thì sẽ không phát huy được thế mạnh truyền thống của dân tộc. Chức năng của các giá trị văn hoá đã đem lại chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không có tính đạo đức thì tất cả các dạng giá trị ( giá trị vật chất và tinh thần) sẽ mất đi mọi ý nghĩa.Còn cách mạng tư tưởng góp phần làm biến đổi đời sống tinh thần- xã hội, xây dựng mối quan hệ tư tưởng, tình cảm của con người với tư cách là chủ thể xây dựng đời sống tinh thần và tạo ra được những điều kiện đảm bảo sự phát triển tự do của con người.Mà có tự do thì con người mới có thể tham gia xây dựng đất nước. Như vậy, ý thức mà biểu hiện trong đời sống xã hội là các vấn đề khoa học- văn hoá- tư tưởng có vai trò vô cùng quan trọng. Tìm hiểu về ý thức để có những biện pháp đúng đắn tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện xã hội. ý thức - vai trò ý thức A - ý thức I- Quan điểm chủ nghĩa Mác về ý thức Trước Mác, có nhiều quan điểm khác nhau về ý thức. Tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm đều cho rằng ý thức là cái có trước, cái quyết định vật chất. Họ quan niệm rằng ý thức tồn tại độc lập với thế giới bên ngoài và là tính thứ nhất, sáng tạo ra thế giới vật chất. Các nhà duy vật trước Mác đã đưa ra những quan điểm chống lại chủ nghĩa duy tâm nhưng hầu hết đêù chưa có quan niệm đúng đắn về ý thức: Chủ nghĩa duy vật chất phát cổ đại cho rằng linh hồn cũng do những hạt nhỏ vật chất cấu tạo thành... các nhà duy vật máy móc cho rằng óc trực tiếp tiết ra ý thức như gan tiết ra mật; còn chủ nghĩa vật thế kỷ XVII- XVIII và chủ nghĩa duy vật Phơ Bách đã có quan niệm về kết cấu ý thức bao gồm cả tâm lý, tình cảm, trí thức, trí tuệ, tự ý thức và định nghĩa ý thức là sự phản ánh thế giới quan, cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan nhưng lại chưa thấy rõ nguồn gốc xã hội và vai trò xã hội của ý thức. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là đặc tính và là sản phẩm của vật chất, ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc ngưòi thông qua lao động và ngôn ngữ. Mác nhấn mạnh rằng, tinh thần, ý thức chẳng qua chỉ là cái vật chất được di chuyển vào trong bộ óc của con người và được cải biến đi trong đó. ý thức là một hiện tượng tâm lý- xã hộ có kết cấu phức tạp bao gồm tự ý thức, tri thức, tình cảm, ý chí trong đó tri thức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức. Người ta quan niệm ý thức xã hội là toàn bộ những tư tưởng, lý luận và quan niệm xã hộ phản ánh những điều kiện của sinh hoạt vật chất của xã hộ và phương thức sản xuất của các vật chất. Chủ nghĩa duy vật Mac-xit xuất phát từ nguyên lý xác định rằng vật chất tồn tại ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, là cái có trước vì nó là nguồn gốc của các cảm giác, biểu tượng của ý thức, còn ý thức chỉ là cái có sau, có tính chất phụ thuộc, vì nó là sự phản ánh của vật chất, của sự tồn tại. Vật chất, tồn tại là cái có trước so với ý thức. Điều này được chứng minh bằng sự việc là đến một giai iđoạn nào đó của vật chất, của tự nhiên thì ý thức mới xuất hiện. Những tư tưởng và lý luận cấu thành ý thức con người chỉ là sự phản ảnh của hoàn cảnh chung quan vào bộ óc của con người, toàn bộ ý thức xã hội là do những điều kiện sinh hoạt vật do phương thức sản xuất của cải vật chất quyết định, sinh hoạt xã hội của con ngưòi quyết định ý thức xã hội của con người. Nếu đời sống xã hội thay đổi thì ý thức xã hội thay đổi theo. Như vậy, chủ nghĩa Mác đã đưa ra những quan điểm đúng đắn và toàn diện nhất về phạm trù ý thức. II - Bản chất của ý thức: 1. Tính phản ánh và sáng tạo: ý thức là sự phản ánh thế giới xung quanh vào bộ óc con người là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Sự phản ảnh ý thức là hình ảnh chủ quan vì nó không có tính vật chất, nó là hình ảnh tinh thần. ở đây không phải sự phản ảnh tuỳ tiện xuyên tạc hiện thực khách quan như: những hình tượng của các vị thần linh và sự tưởng thế giới thần linh, cuộc đấu tranh của các vị thần.... là sự phản ánh xuyên tạc, hư ảo thế giới hiện thực vào trong ý thức; mà nội dung của nó là thôg tin về thế giới ên ngoài, là biểu thị nội dung nhận được từ vật gây tác động và được truyền đi trong quá trình phản ánh. Bản tính phản ánh quy định mặt khách quan làm tiền đề, bị cái khách quan quy định và có nội dung phản ánh là thế giới khách quan. Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ, nó không chụp lại một cách thụ động nguyên xi sự vật mà phản ánh gắn liền với cái biến, quá trình thu thập thông tin gắn liền với quá trình xử lý thông tin. Tính sáng tạo của ý thức còn thể hiện ở khả năng phản ánh gián tiếp khái quát thế giới khách quan, ở quá trình chủ động tác động vào thế giới khách quan, ở quá trình chủ động tác động vào thế giới để phản ánh thế giới đó. Bản tính sáng tạo quy định mặt chủ quan của ý thức, tức là ý thức chỉ có thể xuất hiện ở trong bộ óc của con người, gắn liền với hình thức hoạt động khái quát hoá, trừu tượng hoá, có định hướng, có lựa chọn, tồn tại dưới hình thức hiện thực chủ quan, là hình ảnh chủ quan phân biệt về nguyên tấc với hiện thực khách quan và sự vật, hiện tượng vật chất, cảm tính. Phản ánh và sáng tạo liên quan chặt chẽ không thể tách rời nhau. Không có phản ánh thì không có sáng tạo vì phản ánh là cơ sở, là điểm xuất phát của sáng tạo. Ngược lại , không có sáng tạo thì không có phản ánh. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa hai quá trình thu nhận, xử lý thông tinh, là sự thống nhất giữa mặt khách quan và chủ quan trong ý thức. 2. Tính xã hội: Là sản phẩm lịch sử của sự phát triển xã hội, ý thức xét về bản chất có tính xã hội.Đây là sự khác biệt rất cơ bản của ý thức con người so với tâm lý động vật, là chỗ phân biệt về nguyên tắc ý thức của con người với cái gọi là “bộ óc” hay là “suy nghĩ” của máy móc. ý thức trước hết là tri thức của con người về xã hội và hoàn cảnh, về những gì đang diễn ra ở Thế giới khách quan, về mối liên hệ giữa ngưòi và người trong xã hội. Do đó, ý thức xã hội hình thành và bị chi phối bởi tồn tại xã hội đó... Và ý thức của mỗi cá nhân phải mang trong lòng nó ý thức xã hội. Bản tính xã hội của ý thức thống nhất với bản tính phản ánh và sáng tạo. Sự thống nhất đó thể hiện ở tính năng động chủ quan của ý thức, ở quan hệ giữa nhân tố vật chất và nhân tố ý thức trong hoạt động cải tạo thế giới của con người. B- Vai trò của ý thức trong đời sống xã hội: ý thức là một hiện tượng tâm lý – xã hội có kết cấu phức tạp bao gồm tự ý thức, tri thức, tình cảm, ý chí trong đó tri thức là quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức. Vai trò của ý thức thể hiện ở vai trò của tri thức, tự ý thức, tình cảm và ý chí. 1. Vai trò của trí thức: Tri thức là phương thức tồn tại của vật chất. Sở dĩ như vậy là vì sự hình thành và phát triển của ý thức có liên quan mật thiết với quá trình con người nhận thức và cải biến tự nhiên. Tri thức càng được tích luỹ, con ngưoiừ ngày càng đi vào bản chất sự vật và cải tạo sự vật có hiệu quả hơn, tính năng động của ý thức cũng nhờ đó mà tăng hơn. ý thức không có nội dung thực tế, tức không có một cái gì hiện thực cả, thì không bao giờ hàm tri thức; nếu không dựa vào tri thức thì ý thức là một sự trìu tượng trống rỗng, thuần tuý, không giúp ích gì cho con người trong hoạt động thực tiễn. Những tri thức là khoa học, do đó vai trò của tri thức cũng chính là vai trò của khoa học. 2. Vai trò của khoa học: Khoa học vừa là hệ thống những tri thức, vừa là sự sản xuất tinh thần ra những tri thức cũng như hoạt động thực tiễn dựa voà những tri thức đó. Nhờ tri thức khoa học con người không ngừng vươn tới cái mới sáng tạo ra mọi thế giới mới và ngày càng làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân mình. Trong thời kỳ cổ đại việc sử dụng khoa họcvào sản xuất còn ít ỏi, trồng trọt, chăn nuôi và thủ công chủ yếu dựa vào tri thức và kinh ngiệm. Từ thế kỷ thứ XVII, khoa học phát triển, vai trò của khoa học ngày càng trở nên quan trọng đối với sản xuất và đời sống: trở thành một tiền đề của công nghiệp hoá, trở thành nội dung tinh thần của lựu lượng sản xuất, mà trước hết tạo ra cơ sở lý luận để chế tạo những công cụ máy móc ngày càng hoàn thiện, cho phép tiêu hao lao động sống ít hơn mà đạt kết quả to lớn hơn trong sản xuất vật chất. Kỹ thuật cơ giới đã làm cho con người thoát khỏi lao động chân tay cực nhọc, làm cho năng suất lao động tăng nên gấp đôi. Từ thế kỷ thứ XX trở lại đây, khoa học tiến bộ rất nhanh chóng và vai trò xã hội của nó ngày càng ra tăng. Khoa học và kỹ thuật với nhau thành một thể thống nhất để đi sâu nghiên cứu cấu trúc vật chất nhuư cấu trúc nguyên tử, các hạt cơ bản, cấu trúc gen và xâm nhập vào vũ trụ với quy môngày càng lớn. Nhờ vậy, khoa học đã phát hiện ra những đặc tính mới, quy luật mới có tác dụng nhiều mặt, những dạng năng lượng mới cực mạnh, mở ra nhiều triển vọng to lớn để hiểu biết và phát triển những tài nguyên mới trong vũ trụ và quả đất: tạo ra và ứng dụng những kỹ thuật mới để điều trị bệnh tật, lai tạo các giống loài, điều chỉnh quá trình sống của động vật, thực vật, đề ra hàng loạt những phương tiện kỹ thuật và quá trình công nghệ mới. Khoa học là lực lượng sản xuất hàng đầu. Ngày nay, chúng ta thường xuyên nghe nói đến một nền kinh tế mới đó là “ nền kinh tế tri thức” mà trong đó khoa học- công nghệ- kỹ thuật trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là yếu tố quyết định hàng đầu việc sản xuất ra của cải, sức cạnh tranh và triển vọng phát triển. Tri thức khoa học được vật hoá, được kết tinh vào mọi yếu tố của lực lượng sản xuất, tức là trong đối tượng lao động, kỹ thuật và quá trình công nghệ và cả trong những hình thức của tổ chức sản xuất. Tri thức khoa học còn được bao hàm trực tiếp trong hoạt động của con người lao động sản xuất, trở thành một bộ phận không thể thiếu được, khăng khít của mỗi người làm việc trong quá trình sản xuất, dần dần chiếm địa vị chủ đạo thay cho thói quen và kinh nghiệm thông thường. Ngườilao động snả xuất chủ yếu sẽ không phải là đối tượng hoá sức lao động của mình mà chủ yếu là vận dụng tri thức khoa học để điều khiển kiểm tra quá trình sản xuất tự động hoá, đế xuất sáng kiến, sử dụng hợp lý thiết bị, nguyên liệu, năng lượng và để tổ chức hoạt động của mình một cách có hiệu quả nhất. Việc quản lý sản xuất và các quá trình công nghệ chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở khoa học. Đông thời hoạt động nghiên cứu khoa học và thiết kế tham gia vào kết cấu của quá trình sản xuất như một mắt khâu trực tiếp. Như vậy, khoa học không còn đứng trên cao hay bên ngoài sản xuất mà chuyể thành một mắt khâu khác của sản xuất. Trong nền kinh tế tri thức, tri thức đóng vai trò là lực lượng sản xuất quyết định nhất nên quy trình thực tiễn hoá tri thức cũng là quy trình sản xuất chủ yếu, quyết định sự phát triển trong đó khả năng đồng hoá, sử dụng và truyền bá tri thức là những khâu trực tiếp quyết định thành công trong nền kinh tế, nhất là xét trong ngắn hạn và trung hạn. Lịch sử phát triển hiện đại này càng chứng tỏ rằng, lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, về nguồn nhân lực cang giảm bớt. Trong khi đó trình độ khoa học công nghệ và nguồn nhân lực kỹ năng cao ( bao gồm nhân lực trí tuệ) ngày càng đóng vai trò quyết định thắng lợi trong cuộc đua tranh cạnh tranh phát triẻn. Đối với một đất nước còn nghèo như Việt Nam thì vai trò của khoa học – công nghệ trong sự phát triển của đất nước là vô cùng to lớn, quyết định tốc độ và khả năng vươn lên ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra đường lói đổi mới coi khoa học và công nghệ là một đọng lực mạnh mẽ của sự nghiệp đổi mới, ổn định tình hình và phát triển kinh tế xã hội theo định hướng của xã hội chủ nghĩa, coi những người làm khoa học và công nghệ là đội ngũ cán bộ tin cậy, quý báu của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Còn nghị quyết Đại hội lần thứ VII Ban chấp hành trung ương ( khoá VII) trong phần về chủ trương phát triển công nghiệp và công nghệ đến năm 2000 đã nêu rõ quan điểm “ khoa học công nghệ là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định”. Trong báo cáo chính trị Đại hội VII Đảng ta lại nhấn mạnh “ khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài chí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏinghèo nàn và lạc hậu bằng khoa học và công nghệ” Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX vừa qua một làn nữa lại xác định rõ vai trò to lớn của khoa học – công nghệ trong sự nghệp xây dựng đất nước, phấn đấu đưa nước ta trở thành nước công nghệp hoá hiện đại hoá vào năm 2020. Như vậy, đủ thấy rằng Đảng và nhà nước ta thật sự rất coi trọng khoa học- công nghệ coi đó là quyết sách hàng đầu cho sự phát triển của đất nước. Như vậy, sứ mệnh xã hội của khoa học là làm cho cuộc sống và lao động của con người trở nên đỡ vất vả hơn, tăng thêm tiềm lực trí tuệ của con ngưới đối với tự nhiên, góp phần hoàn thiện các quan hệ xã hội, hoàn thành nhân cách con người và trở nên phát triển hài hoà làm cho cuộc sống và hoạt động của con người. Khoa học tự nó là thành quả bất hủ của thiên tài con người, nó mở rộng chân trời cho sự sáng tạo những của cải vật chất và tinh thần dồi dào. Song khoa học tự nó không được coi là giá trị cao nhất của văn minh loài người, khoa học là phương tiện chứ không phải là mục đích. 3.Vai trò của tình cảm và ý chí: Việc nhấn mạnh yếu tố tri thức không đồng nghĩa với việc phủ nhận hoặc coi nhẹ vai trò của các nhân tố tình cảm và ý chí. Ngược lại, nếu tri thức không biến thành tình cảm, niềm tin và ý chí của con người hành động thì tự nó cũng không có vai trò gì đối với đời sống hiện thực cả. Không có sự thúc đẩy của tình cảm ý chí, hoạt động thực tiễn sẽ diễn ra một cách chậm chạp, thậm chí không thể diễn ra được. Nhờ ý chí và tình cảm, ý thức quy định tốc độ và bản sắcủa hoạt động thực tiễn. Tinh thần dũng cảm dám nghĩ, dám làm, lòng nhiệt tình, chí quyết tâm, tình yêu, niềm say mê đối với công việc, khả năng sáng tạo và vượt qua khó khăn nhằm đạt tới mục tiêu xác định... đều có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động thực tiễn, quy định tính đặc thù và bản sắc riêng của những hoạt động cụ thể nhất định. Nói một cách khác, tư tưởng có vai trò không kém phần quan trọng trong đời sống xã hội so với khoa học. 4. Vai trò của tư tưởng: Khi nói đến tính tích cực, năng động của ý thức có nghĩa là nói đến con người, đến hoạt động có mục đích của con người. Sức mạnh của ý thức (tư tưởng) tuỳ thuộc vào mức độ thâm nhập, phổ biến của nó vào con người, vào trình độ tổ chức hoạt động thực tiễn và vào các điều kiện vật chất và hoàn cảnh khách quan trong đó ý thức được thực hiện. Tính tích cực của ý thức có thể là thúc đẩy và cũng có thể là kìm hãm ở một mức độ nhất định của sự phát triển của tồn tại. Những tư tưởng khoa học, lý luận cách mạng có vai trò to lớn thúc đấy sự phát triển của tồn tại. Tầm quan trọng của lý luận cách mạng được Lê- Nin khái quát “ Không có lý luận cách mạng thì cũng không thẻ có phong trào cách mạng”. Những tư tưởng khoa học, lý luận khoa học có thúc đẩy sự phát triển tồn tại, vì chúng trang bị cho con người những tri thức đúng đắn về các quy luận khách quan trên cơ sở đó con người vận dụng và hành động phù hợp. Việc thực hiện cách mạng trong lĩnh vực tư tưởng, văn hoá là một trong những quy luật phổ biến của sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản C. Mác và sau này là V.I. Lê-nin đã chỉ ra rằng, cách mạng tư tưởng -văn hoá có vai trò rất quan trọng, góp phần làm biến đổi toàn bộ đời sống tinh thần xã hội, xây dựng mối quan hệ tư tưởng, tình cảm của con người với tư cách là chủ thể xây dựng đời sống tinh thần làm cho quần chúng nhân dân trở thành người trực tiếp tham gia voà quá trình sáng tạo lịch sử một cách tự giác có ý thức, làm chủ mọi giá trị tinh thần, văn hoá và tạo ra được những điều kiện đảm bảo sự phát triển tự do của con người. Do đó, cộng tác tư tưởng- văn hoá nhằm biến tư tưởng -văn hoá tiến bộ thành lực lượng vật chất để cải tạo xã hội, xây dựng chế độ mới, làm cho hệ tư tưởng của Đảng, của giai cấp công nhân, những giá trị tốt đẹp trong truyền tgống văn hoá dân tộc, trở thành hệ tư tưởng và các giá trị nhân văn, khoa học, chiếm địa vị chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển. Nhận thức được vai trò to lớn đó, Đảng ta luôn luôn coi tư tưởng , kiên định tư tưởng HCM và CN Mác- Lênin . Coi tư tưởng HCM cùng với CN Mác – Lênin là nền tảng tư tưởng là kim chỉ nam cho hành động . Trong thời đại ngày nay thì vấn đề tư tưởng trong thanh niên là nhiệm vụ mang đầy thử thách., là một vấn đề quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của dân tộc. Kiên định theo lập trường , thái độ , tư tưởng đúng đắn thì con người chắc chắn sẽ thành công thực tiễn đã chứng minh như vậy. Xã hội tôn trọng cá nhân , đồng thời cá nhân biết đề cao lơo ích xã hội , có thể hy sinh lợi ích riêng vì lợi ích xã hội khi cần thiết . Và do vậy , sẽ đảm bảo cho nhân cách mỗi cá nhân phát triển lành mạnh trong sự hài hoà với xã hội . Đó lad tư tưởng HCM. Như vậy , tư tưởng có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội . Nó giúp con người xác định lập trường thái độ , tư tưởng đúng đắn . Tuy nhiên đây chỉ là động lực mà không thể là định hướng cho hoạt động thực tiễn . ỳ thức bao gồm những yếu tố tình cảm trong sự liên hệ tác động qua lại nhưng về cơ bản , ý thức có nội dung tri thức và luôn hướng tới tri thức 5. Vai trò của tự ý thức Tự ý thức cũng thức cũng là yếu tố quan trọng của ý thức . CN duy tân coi tự ý thức là một thực thể độc lập , tự nó có sẵn trong các cá nhân biểu hiện sự hướng về bản thân mình , tự khẳng định “ cái tôi” riêng biệt ,tách rời những quan hệ xã hội . Trái lại , tự ý thức theo CN duy vật biện chứng thì là ý thức hướng về nhận thức bản thân mình thông qua quan hệ với thế giới bên ngoài . Con ngươi không chỉ nhận thức thế giới xung quanh . Khi phản ánh các sự vật , hiền tượng của thế giới xung quanh và các quá trình xảy ra trong đó con người đã tự phân biệt mình , tự tách mình, đối lập mình với mình với thế giới đó. Nhờ vậy, con người tự nhận thức về bản thân về thế giới cũng như hành vi đạo đức, khát vọng, động cơ, mục đích và ý tưởng sống của bản thân mình. Mặt khác, sự giao tiếp xã hội và hoạt động thực tiễn xã hội đòi hỏi con người phải nhận rõ bản thân mình và tự điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn và xã hội đề ra. Tự ý thức không phải là ý thức về cái tôi thuần tuý. Không thể và không có tự ý thức nào tồn tại tách khỏi sự phản ánh thế giới xung quanh và cái độc lập với nó ( theo V. I. Lê nin ) . kết luận Xét đến cùng tác dụng của ý thức cũng chỉ là tương đối, có điều kiện.Vai trò tích cực hay tiêu cực của ý thức chỉ được trong một thời gian nhất định và điều kiện cụ thể. Thế giới vẫn tồn tại khách quan và vận đông theo quy luật khách quan đòi hỏi ý thức phải có biến đổi phù hợp với nó, và như vậy nếu là tiêu cực ý thức có thể kìm hãm sự phát triển của sự vật hiện tượng trong thời gian và không gian xác định nhưng bản thân yêu cầu khách quan của tiến trình vận động sớm muộn sẽ bị đào thải, ý thức lạc hậu. Xét về bản chất, ý thức là cái có sau, là cái phản ánh hơn nữa vai trò của nó còn phụ vào mức độ chính xác trong quá trình phản ánh hiện thực, do vậy, ý thức vẫn là nhân tố thứ hai, bị quyết định. Cần thấy rằng hoạt động của con người bao giờ cũng có tính chất xã hội, do đó vai trò có ý thức chỉ có được nếu nó xâm nhập vào quần chúng và tổ chức hoạt động thực tiễn cho toàn xã hội. ý thức là một phạm trù rộng lớn, trừu tượng mà chúng ta chưa thể hiểu được về nó một cách trọn vẹn, toàn diện. Để có thể làm được điều này, chắc hẳn chúng ta còn phải nghiên cứu rất nhiều. Mục lục Trang Lời nói đầu 1 ý thức - vai trò ý thức 3 A - ý thức 3 I - Quan điểm chủ nghĩa Mác về ý thức 3 II – Bản chất của ý thức 4 1. Tính phản ánh và sáng tạo 4 2. Tính xã hội 5 B - Vai trò của ý thức trong đời sống xã hội 5 1. Vai trò của ý thức 6 2. Vai trò của khoa học 6 3. Vai trò của tình cảm và ý chí 9 4. Vai trò của tư tưởng 9 5. Vai trò của tự ý thức 11 Kết luận 12

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60185.doc
Tài liệu liên quan