Đề tài Xuất khẩu than Việt Nam: thực trạng và một số giải pháp

Từ sau đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thứ VI đến nay đã có nhiều đổi mới quan trọng, đặc biệt là việc chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nề kinh tế nhiều thành phần, mở cửa và vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nền kinh tế mở cửa đã tạo điều kiện cho thương mại quốc tế phát triển nhằm đảm bảo sự lưu thông hàng hoá, thông thương với nước ngoài, khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta và trên thế giới trên cơ sở phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế một cách có lợi nhất.

Hoạt động xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động cơ bản của Thương mại Quốc tế, là phương tiện thúc đẩy cho nền kinh tế phát triển.

Việc mở rộng hoạt động xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động cơ bản của Thương mại Quốc tế, là phương tiện thúc đẩy cho nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng hoạt động xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển các cơ sở hạ tầng trong nước.

Qua thời gian thực tập tốt nghiệp tại Công ty cảng và kinh doanh than tôi thấy hoạt động xuất khẩu than là hoạt động kinh doanh chính của Công ty. Việc nghiên cứu thực trạng của hoạt động này là hết sức cần thiết và quan trọng. Chính vì thế tôi đã chọn đề tài:”Xuất khẩu than Việt Nam: thực trạng và một số giải pháp ” với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu than của Công ty trong thời gian tới.

Trong đề tài này tôi đi nghiên cứu vào 3 vấn đề chính sau:

Chương I: Thương mại Quốc tế và tổ chức kinh doanh hàng xuất nhập khẩu ở các doanh nghiệp Việt Nam .

Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu than trong những năm 1995-2006.

Chương III: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu than.

Đề tài này được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú ở Công ty và thầy giáo hướng dẫn GS;TS Đỗ Đức Bình đã giúp đỡ tôi hoàn thành tốt đề tài này

doc57 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1051 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Xuất khẩu than Việt Nam: thực trạng và một số giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Trang A/lời mở đầu B/nội dung 4 Chương I: TMQT và chức kinh doanh hàng XNK ở các doanh 4 tổ nghiệp trong nền KTTT. I. TMQT và sự tồn tại khách quan của TMQT trong nền KTQD 4 Khái niệm và sự tồn tại khách quan của TMQT 4 Tác dụng của TMQT đối với đất nước và doanh nghiệp 10 Đặc trưng của TMQT 12 II. Những nội dung chủ yếu trong hoạt động kinh doanh 14 XK ở các doanh nghiệp. A. Nghiên cứu tiếp cận thị trường: 14 Nghiên cứu môi trường. 16 Nghiên cứu nhu cầu. 18 Nghiên cứu về cạnh tranh 18 Nghiên cứu giá cả. 19 Xu hướng phát triển của thị trường 20 B. Tìm kiếm đối tác trong kinh doanh. 20 Công tác tạo nguồn hàng. 20 Tìm kiếm bạn hàng. 22 Lên phương án kinh doanh. 23 Giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng. 24 Tổ chức thực hiện hợp đồng XK 25 Đánh giá hiệu quả của hợp đồng XK 28 Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu than trong những năm 1995-2006 31 i.Thực trạng hoạt động XK than 31 Đặc điểm của sản phẩm 31 Vị trí của than trên thị trường 34 Ii .Kết quả hoạt động xuất khẩu than trong những năm 1995-2006 38 Thời kỳ 1995-1999 38 Thời kỳ 2000-2006 40 III.Đánh giá hoạt động xk than trong thời gian vừa qua 42 1.Kết quả đạt được 42 2.Tồn tại 43 3.Nguyên nhân 44 Chương III: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu than. 45 i.cơ hội và thách thức xk than việt nam trong những năm tới. 45 1.Cơ hội 45 2.Thách thức 46 II. Giải pháp đẩy mạnh hoạt động XK than. 46 Chú trọng nâng cao chất lượng hàng hoá 46 Tiếp cận và mở rộng thị trường 47 Đẩy mạnh XK bằng cách giữ vững và nâng cao uy tín công ty 47 Lập quỹ thưởng phạt đối với hoạt động XK 48 Duy trì mối quan hệ với bạn hàng cũ và mở rộng các quan hệ với bạn hàng mới . 48 Đẩy mạnh hoạt động Marketing 50 Đào tạo đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi 50 Hạn chế rủi ro và nâng cao hiệu quả trong thanh toán quốc tế 51 c/kết luận 54 d/danh mục tàI liệu tham khảo 55 e/lời cảm ơn 56 f/nhậnxét 57 A/Lời nói đầu Từ sau đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam toàn quốc lần thứ VI đến nay đã có nhiều đổi mới quan trọng, đặc biệt là việc chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nề kinh tế nhiều thành phần, mở cửa và vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nền kinh tế mở cửa đã tạo điều kiện cho thương mại quốc tế phát triển nhằm đảm bảo sự lưu thông hàng hoá, thông thương với nước ngoài, khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta và trên thế giới trên cơ sở phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế một cách có lợi nhất. Hoạt động xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động cơ bản của Thương mại Quốc tế, là phương tiện thúc đẩy cho nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng hoạt động xuất khẩu được thừa nhận là hoạt động cơ bản của Thương mại Quốc tế, là phương tiện thúc đẩy cho nền kinh tế phát triển. Việc mở rộng hoạt động xuất khẩu để tăng thu nhập ngoại tệ cho tài chính và cho nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển các cơ sở hạ tầng trong nước. Qua thời gian thực tập tốt nghiệp tại Công ty cảng và kinh doanh than tôi thấy hoạt động xuất khẩu than là hoạt động kinh doanh chính của Công ty. Việc nghiên cứu thực trạng của hoạt động này là hết sức cần thiết và quan trọng. Chính vì thế tôi đã chọn đề tài:”Xuất khẩu than Việt Nam: thực trạng và một số giải pháp ” với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu than của Công ty trong thời gian tới. Trong đề tài này tôi đi nghiên cứu vào 3 vấn đề chính sau: Chương I: Thương mại Quốc tế và tổ chức kinh doanh hàng xuất nhập khẩu ở các doanh nghiệp Việt Nam . Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu than trong những năm 1995-2006. Chương III: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu than. Đề tài này được hoàn thành với sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú ở Công ty và thầy giáo hướng dẫn GS;TS Đỗ Đức Bình đã giúp đỡ tôi hoàn thành tốt đề tài này. B/nội dung Chương I TMQT và tổ chức kinh doanh hàng XNK ở các doanh nghiệp VIệT NAM. I. Thương mại quốc tế và sự tồn tại khách quan của thương mại quốc tế . 1. Khái niệm và sự tồn tại khách quan của thương mại quốc tế . 1.1. Khái niệm : Thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa các nước thông qua mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về mặt kinh tế giữa các quốc gia. Trong điều kiện hiện nay,khi mà xu thế toàn cầu hoá quốc tế hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới,việc tham gia vào thương mại quốc tế yêu cầu khách quan của mọi quốc gia. Đương nhiên trong mọi thời đại , nước nghèo thường bị nước giàu chèn ép, song trong điều kiện nền kinh tế được quốc tế hoá, không chỉ nước nghèo mà cả nước giàu cũng không thể phát triển nếu tự tách mình hoặc bị cô lập khỏi thị trường kinh tế thế giới . Sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển kéo theo sự phát triển không ngừng của trao đổi và lưu thông hàng hoá cũng như sự phát triển của phân công lao động và chuyên môn hoá quốc tế Trao đổi và lưu thông hàng hoá ngày càng phát triển cao hơn và hiện đại hơn từ trao đổi hàng hoá với nhau trong từng vùng , giữa các vùng tiến tới vượt ra khỏi lãnh thổ của một nước để trao đổi mua bán với các quốc gia khác hình thành lên thương mại quốc tế . 1.2 .Sự tồn tại khách quan của thương mại quốc tế : Thương mại quốc tế có vai trò quan trọng đối với các quốc gia vì lý do cơ bản là nó mở rộng khả năng sản xuất và tiêu dùng của một nước . Thương mại quốc tế cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất, tiêu dùng trong nước khi thực hiện chế độ tự cung tự cấp, không buôn bán. Thương mại với tính chất là trao đổi hàng hoá đã xuất hiện từ lâu ở phạm vi và mức độ khác nhau từ một vùng , giữa các vùng , giữa các quốc gia gần nhau về địa lý như: Lào , Việt Nam , Trung Quốc ... Ngày nay chúng ta thấy sự giao dịch thương mại đã phát triển trên toàn cầu do xu hướng quốc tế hoá nền kinh tế . Cơ sở của thương mại quốc tế là sự trao đổi và chuyên môn hoá dựa trên lý thuyết về lợi thế so sánh . Sự khác nhau giữa các nước về nguồn tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố sản xuất khác nhau như lao động và trình độ kỹ thuật , công nghệ dẫn đến sự khác biệt về chi phí sản xuất và giá cả sản phẩm . Chính vì vậy mà từ xa xưa các nước đã trao đổi buôn bán với nhau . Qua sự trao đổi đó họ có thể mua từ nước ngoài những hàng hoá có chất lượng tốt hơn và giá cả laị rẻ hơn chi phí để sản xuất hàng hoá đó trong nước . Đồng thời lại có thể bán hàng hoá khác ra nước ngoài với giá cả lớn hơn nhiều so với chi phí . Tiền đề của sự trao đổi là phân công lao động xuất phát từ điều kiện tự nhiên, Điều kiện sản xuất . Do khả năng , tiềm lực của mỗi nước không tự sản xuất đủ để đáp ứng nhu cầu của quốc gia đó được hoặc có đi chăng nữa thì với chi phí cực lớn . Vì vậy muốn thoả mãn nhu cầu họ đã phải trao đổi với các nước khác . Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật phạm vi chuyên môn hóa ngày một tăng , số sản phẩm dịch vụ để thoả mãn nhu cầu ngày càng dồi dào và có xu hướng quốc tế hoá đồng thời sự phụ thuộc giữa các nước ngày một tăng . Thương mại quốc tế xuất hiện trên cơ sở của sự trao đổi và chuyên môn hoá nhưng nó lại dựa trên lý thuyết về lợi thế đó là lợi thế tuyệt đối và lợi thế tương đối ( lợi thế so sánh ). Theo lợi thế tuyệt đối thì mỗi quốc gia theo điều kiện tự nhiên hay do trình độ sản xuất phát triển cao đã sản xuất ra những sản phẩm hành hoá nhất định đối với chi phí thấp hơn so với các nước kia . Điều đó sẽ dẫn đến việc nước này sẽ chuyên môn hoá sản xuất loại hàng hoá có chi phí thấp để xuất khẩu . Đồng thời lại nhập khẩu những mặt hàng mà nước đó không sản xuất được hoặc sản xuất với chi phí cao hơn . Trên thực tế lợi thế tuyệt đối không giải thích được nhiều vấn đề chẳng hạn điều gì sẽ xảy ra nếu một quốc gia tỏ ra bất lợi trong việc sản xuất tất cả các mặt hàng . Một nước có trình độ phát triển kinh tế , khoa học còn thấp như nước ta tại sao vẫn tham gia thương mại quốc tế cùng với các nước phát triển mạnh như Anh , Mỹ , Đức , Hàn Quốc ... Chìa khoá để trả lời cho câu hỏi này là lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricacdo. Lý thuyết này giải thích tại sao khi một quốc gia không có được lợi thế ở bất kỳ mặt hàng nào cũng thu được lợi ích từ việc buôn bán với các nước khác. Lý thuyết này được xây dựng trên một loạt các giả thiết đã được đơn giản hoá như chỉ có hai nước sản xuất hàng hoá, nhân tố sản xuất duy nhất là lao động có thể di chuyển tự do trong từng nước nhưng không di chuyển được giữa các nước: chi phí sản xuất không đổi, công nghệ không đổi, thương mại hoàn toàn tự do ... Quy luật lợi thế so sánh phát biểu rằng nếu mỗi quốc gia thực hiện chuyên môn hoá sản xuất những mặt hàng mà nước đó có lợi thế so sánh thì tổng sản lượng của tất cả các mặt hàng sẽ tăng lên và tất cả các nứơc đó sẽ trở nên sung túc hơn. Trong trường hợp một nước tỏ ra kém hiệu quả hơn một nước khác trong việc sản xuất tất cả các mặt hàng thì vẫn tồn tại cơ sở dẫn đến chuyên môn hoá sản xuất và trao đổi . Cụ thể quốc gia thứ nhất sẽ tập trung vào sản xuất và xuất khẩu mặt hàng có mức bất lợi tuyệt đối nhỏ hơn và nhập khẩu mặt hàng có mức bất lợi tuyệt đối lớn hơn. Quy luật lợi thế so sánh là nguyên lí quan trọng của kinh tế học nhưng việc giải thích như Ricacđô còn hạn chế vì nó chủ yếu dựa vào lý luận về giá trị lao động và cho rằng nó là yếu tố sản xuất duy nhất. Trong thực tế lại không phải như vậy mà nó còn phụ thuộc vào trình độ đào tạo, năng suất, tiền lương. Sau đó các nhà kinh tế đã đưa ra lý thuyết về cơ hội để giải thích được sự buôn bán giữa các quốc gia. Theo lý thuyết này thì chi phí của một mặt hàng là số lượng mặt hàng khác phải giảm cắt để có thể sản xuất thêm một đơn vị mặt hàng thứ nhất. Mỗi quốc gia được coi là có lợi thế so sánh vì mặt hàng nào đó nếu mất chi phí cơ hội để sản xuất mặt hàng này tại quốc gia đó thấp hơn chi phí cơ hội để sản xuất mặt hàng đó tại quốc gia khác. Lý thuyết này dùng để xem xét quá trình sản xuất trao đổi và tiêu dùng giữa các quốc gia. Ngoài những cơ sở trên còn rất nhiều lý do khiến TMQT trở nên quan trọng như TMQT tối cần thiết cho việc thực hiện chuyên môn hóa sâu để có được hiệu quả kinh tế cao trong ngành công nghiệp hiện đại. Chuyên môn hoá qui mô lớn sẽ phát huy được hiệu quả kinh tế theo qui mô. Ngày nay trong thể Quốc tế hoá đời sống kinh tế sâu rộng, khoa học kỹ thuật phát triển cao có thể chia các công đoạn của quá trình sản xuất thành các khâu khác nhau và bố trí ở những vị trí cách xa nhau thì không một nước nào có thể tách mình biệt lập với mối quan hệ cùng có lợi với bên ngoài. Thương mại Quốc tế đã mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Ta biểu thị qua biểu đồ dưới đây: X a + X2 X1 X1 Y2 Y1 t E Y a. Khi sản xuất cố định: Giả sử đường EF là đường giới hạn khả năng sản xuất cũng là đường giới hạn khả năng tiêu dùng của nền kinh tế. Nếu không có thương mại Quốc tế thì khối lượng sản xuất hay khối lượng tiêu dùng chính là EF. Giả sử nền kinh tế đang ở mức tiêu dùng tại điểm a nghĩa là sản xuất và tiêu dùng Y, mặt hàng Y và x1 mặt hàng x. Khi có thương mại Quốc tế thì khả năng tiêu dùng bây giờ sẽ là đường H đi qua a. Qua xuất nhập khẩu ta sẽ giảm đi một lượng hàng Y để đổi lấy một lượng hàng khác X nên kinh tế sẽ đạt mức tiêu dùng tại điểm b thuộc t tương ứng với mức tiêu dùng là Y2 hàng hoá Y và x2 hàng hoá X. Như vậy ta đã xuất khẩu một lượng hàng là DY hàng hoá Y (DY = Y1 - Y2) để đổi lấy một lượng là DX hàng hoá X (DX = X1 - X2) Rõ ràng nếu không có xuất nhập khẩu thì theo đường giới hạn tiêu dùng nếu ta tiêu dùng hàng hoá Y thì sẽ tiêu dùng được X’2 hàng hoá X mà X’2 < X2 Do đó khi sản xuất cố định, ngoại thương mở rộng khả năng tiêu dùng b. Khi sản xuất thay đổi: Đường giới hạn khả năng sản xuất hay giới hạn khả năng tiêu dùng là EF. Nhưng do có thể thay đổi được các yếu tố sản xuất ta có thể dịch chuyển điểm a đến d bằng cách chuyên môn hoá sản xuất mặt hàng Y. Đường biểu diễn khả năng tiêu dùng bây giờ khi có xuất khẩu sẽ dịch chuyển từ H đến t’t’. Điều này cho phép tiêu dùng nhiều hơn cả hai loại sản phẩm do việc chuyên môn hoá sản xuất mặt hàng Y và qua giao dịch xuất nhập khẩu đổi lấy mặt hàng X Như vậy: ngoại trừ điểm d. t’ X a t X2 X1 X1 Y2 Y1 t t’ E - Nếu không có xuất nhập khẩu thì khả năng tiêu dùng luôn thuộc đường giới hạn khả năng sản xuất ở bất cứ điểm nào. - Nếu có xuất nhập khẩu thì đường giới hạn tiêu dùng thay đổi làm cho khả năng tiêu dùng tăng lên. Đặc biệt khi có thể thay đổi được điều kiện sản xuất thì một nước sẽ chuyên môn hoá mặt hàng mà nước đó có ưu thế (Y) để xuất khẩu và nhập khẩu mặt hàng X, nó sẽ cho phép tăng khả năng tiêu dùng của cả hai loại hàng hoá. Đó chính là lợi ích của thương mại Quốc tế. Nó đã giải thích về cơ sở kinh tế của việc trao đổi hàng hoá giữa các nước. Từ đó càng thấy rõ thương mại Quốc tế tồn tại khác quan và đem lại lợi ích cho mỗi quốc gia tham gia trao đổi. Nhận thức rõ điều này Đảng ta đã coi thương mại Quốc tế mà đặc biệt là xuất khẩu là công cụ để thực hiện công cuộc xây dựng đất nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 2. Tác dụng của thương mại Quốc tế đối với quốc gia và doanh nghiệp. 2.1. Đối với quốc gia. Tác dụng của thương mại Quốc tế chính là việc khắc phục những tồn tại của một nền kinh tế đóng cửa mà trong điều kiện Quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày càng cao sự phân công lao động Quốc tế ngày càng sâu sắc, các nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau và tham dự tích cực hơn vào quá trình liên kết và hợp tác Quốc tế, nó không còn phù hợp. Những tồn tại đó là: - Chính sách đóng cửa đã hạn chế khả năng tiếp thu kỹ thuật mới, làm cho nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu, không có nguồn bổ xung kỹ thuật tiên tiến trong khi cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật phát triển mạnh trở thành một nhân tố quyết định sự phát triển của sản xuất. - Hầu hết các nước nghèo nàn, lạc hậu đang phát triển đều thiếu vốn . Trong khi đó quá trình phát triển nền kinh tế đòi hỏi phải nhập khẩu một khói lượng ngày càng nhiều máy móc thiết bị và nguyên liệu công nghiệp. Nếu không phát triển mạnh thương mại Quốc tế thiếu hụt trong cán cân thanh toán Quốc tế ngày càng lớn và găy gắt. - Thị trường trong nước nhỏ hẹp, không đủ đảm bảo cho sự phát triển công nghiệp với qui mô hiện đại, sản xuất hàng loạt do đó không tạo thêm được viêc làm, một vấn đề mà các nước nghèo luôn cần giải quyết. Vì vậy thương mại Quốc tế ra đời là một tất yếu khách quan khắc phục những tồn tại trên để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, khoa học kỹ thuật của từng quốc gia với xu thế chung của toàn thế giới. Đó là: Tạo vốn nước ngoài cần thiết để nhập khẩu vật tư thiết bị kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Thực hiện công nghiệp hoá XHCN thông qua hoạt động xuất nhập khẩu cũng như việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, đã phát huy và sử dụng tốt hơn nguồn lao động và tài nguyên của đất nước, tăng giá trị ngày công lao động, tăng thu nhập quốc dân. Kinh doanh thương mại Quốc tế phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới kinh tế, góp phần thực hiện đường lối đối ngoại của Nhà nước. Việc xuất nhập khẩu trong nền kinh tế thị trường tất yếu dẫn đến cạnh tranh theo dõi kiểm soát chặt chẽ giữa các chủ thể tham gia sản xuất do đó chủ thể của nền kinh tế được nâng cao, việc đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật mới được thường xuyên và có ý thức. Xuất nhập khẩu tiến tới xoá bỏ nhanh chóng những chủ thể kinh doanh các sản phẩm lạc hậu không thể chấp nhận được, đồng thời góp phần quản lý cơ chế quản lý xuất nhập khẩu của Nhà nước và mỗi địa phương thông qua các đòi hỏi hợp lý cuả các chủ thể tham gia xuất nhập khẩu trong quá trình thực hiện. Kinh doanh thương mại Quốc tế trong giai đoạn hiện nay như Đảng ta nhận định là đặc biệt quan trọng góp phần tích cực nhất vào việc thẵng lợi của đường lối đổi mới và xây dựng kinh tế ở nước ta. 2.2 .Đối với doanh nghiệp: Xuất nhập khẩu là một bộ phận quan trọng của thương mại Quốc tế, nó tác động đến doanh nghiệp trên các mặt sau: - Nó phát huy cao độ tính năng động sáng tạo của mọi người, mọi đơn vị, mọi tổ chức, mọi ngành nghề, mọi địa phương trong xã hội bởi vì xuất nhập khẩu dễ dàng thu được hiệu quả lớn. Khả năng phát hiện chính xác các mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả cao sẽ có ý nghĩa lớn vì nó đồng thời được nhiều cá nhân và tổ chức thực hiện, các luồng thông tin được khai thông các mối quan hệ được sử dụng tích cực. - Xuất nhập khẩu trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần còn dẫn tới việc hình thành các liên doanh, liên kết giữa các chủ thể trong và ngoaì nước một cách tự giác nhằm tạo sức mạnh phát triển cho các chủ thể một cách thiết thực. - Nó dẫn tới sự liên kết chặt chẽ giữa các nhà sản xuất với các nhà khoa học một cách thiết thực và có hiệu quả, nó khơi thông nhiều nguồn chất xám ở cả trong và ngoài nước. - Phát huy hiệu quả kinh tế theo quy mô đó là: nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật tiến bộ cũng như việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố đầu vào làm cho năng suất cao, chất lượng tốt dẫn đến việc giảm chi phí sản xuất, tăng hiệu quả công tác xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó xuất nhập khẩu trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường còn có những tồn tại cần khắc phục như tình trạng rối ren trong buôn bán do cạnh tranh. Nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ sẽ gây ra các thiệt hại về kinh tế trong quan hệ với nước ngoài. Đồng thời cạnh tranh sẽ dẫn đến sự thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể bằng các biện pháp xấu như phá hoại công việc của nhau. Trong cơ chế thị trường xuất nhập khẩu có thể dẫn tới các hiện tượng xấu về kinh tế xã hội, tư tưởng như buôn lâu, trốn thuế, tha hoá cán bộ ... 3. Đặc trưng của thương mại Quốc tế. 3.1. Sự khác nhau giữa thương mại Quốc tế với buôn bán trong nước: Giao dịch thương mại Quốc tế là sự mở rộng của giao dịch buôn bán trong nước. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xu hướng quan hệ hợp tác kinh tế giữa các nước ngày càng phát triển. Trong hệ thống kinh tế thế giới thì mỗi quốc gia có vai trò như một mắt xích, các mắt xích này liên kết chặt chẽ với nhau. Xét về mặt giao dịch thì thương mại Quốc tế và buôn bán trong nước có những điểm giống nhau chẳng hạn như bước chào hàng, bước thoả thuận về điều kiện mua bán. Bên cạnh đó có những mặt khác với buôn bán trong nước, đó là: - Do điều kiện không gian nên thời gian giao dịch thường là lâu hơn so với thời gian giao dịch mua bán trong nước. - Hợp đồng thương mại Quốc tế là hợp đồng mang tính chất thông lệ Quốc tế vì đó là sự giao dịch ký kết giữa các quốc gia có hệ thống pháp luật không gióng nhau. - Ngôn ngữ của hợp đồng phải là ngôn ngữ mà cả hai bên cùng hiểu và nhất trí để dễ dàng đàm phán ký kết. Nó có thể là ngôn ngữ của một trong hai nước nhưng cũng có thể là ngôn ngữ của một nước thứ ba. Thông thường người ta hay chọn tiếng Anh vì tính phổ thông của nó trên thế giới. 3.2. Phương thức giao dịch phức tạp hơn so với buôn bán trong nước. - Thời gian vận chuyển dài hơn so với buôn bán trong nước do khoảng cách giữa các nước. - Điều kiện bảo quản phức tạp bởi lẽ điều kiện thời tiết khí hậu khác nhau qua các quốc gia, đồng thời hàng hoá lại phải qua một thời gian vận chuyển dài. Do vậy hay xẩy ra các khiếu nại, tranh chấp đối với việc hàng hoá không đảm bảo chất lượng. - Phương thức vận tải phức tạp: vì là vận tải Quốc tế nên vấn đề chọn phương thức vận tải, chọn hàng vận tải cũng không đơn giản. Trong trường hợp chưa đủ trình độ đàm phán ký kết hợp đồng vận chuyển thì không nên trực tiếp đàm phán ký kết mà nên thông qua trung gian là các đại lý. Đồng thời trong quá trình vận tải còn gặp các khó khăn đó là hệ thống vận đơn không thống nhất. Bên cạnh đó là vấn đề bảo hiểm: lựa chọn loại nào, hàng nào, điều kiện nào ... rất phức tạp. 3.3. Thanh toán và giải quyết tranh chấp: - Trong thương mại Quốc tế thanh toán giữ vai trò đặc biệt quan trọng, nó quyết định phần lớn sự thành bại của quá trình giao dịch. Nhưng đồng thời nó cũng là vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi trình độ và nghiệp vụ cao, bởi vì: phải lựa chọn đồng tiền thanh toán như thế nào cho có lợi nhất: ngân hàng nào được lựa chọn cũng như phương thức thanh toán như thế nào cho có lợi .. - Do tính chất phức tạp của thương mại Quốc tế mà thường có xẩy ra các tranh chấp. Trong trường hợp có tranh chấp thì các bên phải chủ động thoả thuận với nhau về cách giải quyết trên cơ sở của thiện chí và cùng có lợi. Nếu không tự thoả thuận được thì sẽ đưa trọng tài thương mại Quốc tế. Điều này bất lợi vì phải chịu chi phí lớn và giảm uy tín của nhau. 3.4. Sự tác động của môi trường kinh tế, chính trị, xã hội của các quốc gia ảnh hưởng rất lớn tới chính sách thương mại, cụ thể: - Chính sách đầu tư và khuyến khích xuất nhập khẩu các loại hàng hoá dịch vụ của mỗi quốc gia. - Tỷ giá hối đoái từ phía các quốc gia có đồng tiền mạnh và đồng tiền có khả năng chuyển đổi hoàn toàn. -Tổ chức ngoại thương của các quốc gia được phép kinh doanh xuất nhập khẩu đa dạng làm ảnh hưởng đến các ảnh hưởng đến các hình thức và phương pháp kinh doanh. 3.5. Xu hướng phát triển kinh doanh thương mại trực tiếp: Trước đây xuất nhập khẩu là công tác riêng của các Công ty xuất nhập khẩu. Ngày nay trong điều kiện kinh tế mở nó không chỉ là công việc của riêng các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nữa mà các doanh nghiệp sản xuất cũng tham gia tích cực vào lĩnh vực này là vì những lý do sau: các Công ty buôn bán không theo kịp về sự cấu tạo sản phẩm, tiến bộ khoa học kỹ thuật đã cho phép sản phẩm có cấu tạo thường xuyên thay đổi và theo xu hướng ngày càng gọn và tinh vi hơn, số lượng nhiều do vậy các nhà thương mại thuần tuý không theo kịp. - Ngày nay dịch vụ đã trở thành công cụ cạnh tranh quan trọng thì càng đòi hỏi phải có sự tham gia trực tiếp của các nhà sản xuất vào thương mại Quốc tế. - Do khuynh hướng đào tạo, các nhà xuất nhập khẩu trước đây không được đào tạo dẫn đến không am hiểu về kỹ thuật đặc biệt kỹ thuật bảo hành đối với các hàng hoá gọn nhẹ đòi hỏi kỹ thuật cao. Bên cạnh đó thì các nhà sản xuất ngày nay lại am hiểu và có nghiệp vụ kinh doanh thương mại Quốc tế như trình độ ngoại ngữ, trình độ đàm phán, ký kết và thực hiện các hợp đồng sao cho có hiệu quả .... II. Những nội dung chủ yếu trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở các doanh nghiệp. Hoạt động xuất khẩu là một quá trình kinh doanh bao gồm nhiều công đoạn khác nhau, mỗi công đoạn lại bao gồm nhiều hoạt động mang những đặc điểm riêng được tiến hành theo những cách thức nhất định. Hoạt động xuất khẩu mang tính phức tạp hơn hoạt động thương mại trong nước bởi nhiều lẽ như: bạn hàng ở cách xa nhau, bất đông ngôn ngữ, hoạt động chịu sự điều tiết của nhiều hệ thống pháp luật, phong tục tập quán, thói quen tâm lý khác nhau, hệ thống tài chính khác nhau ... Do đó trước khi vào giao dịch đơn vị kinh doanh cần chuẩn bị chu đáo. A. Nghiên cứu tiếp cận thị trường và xác định mặt hàng xuất khẩu: Có thể khẳng định rằng thị trường là yếu tố sống còn của bất cứ quá trình kinh doanh nào. Thị trường là yếu tố vận động không ngừng mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng nỗ lực tìm hiểu, nghiên cứu để chỉ ra phương thức hoạt động của nó như thế nào. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu thực chất là phương pháp đã được tiêu chuẩn hoá có hệ thống và tỉ mỷ để xử lý các vấn đề Marketing với mục đích tìm ra những điều cần thiết, thích hợp để tìm ra thị trường cho các loại hàng hoá, dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian và nguồn tài lực hạn chế. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu có nhứng đặc thù và khó khăn: Nhu cầu Người chỉ dẫn Người phân phối Cạnh tranh nội địa và nước ngoài Cung cấp Môi trường kinh tế Môi trường văn hoá - xã hội Môi trường công nghệ Môi trường pháp lý - Đó là một lĩnh vực rất rộng, cần có được mọi hiểu biết phong phú và đa dạng trong những lĩnh vực mà không phải bao giờ cũng được chuẩn bị sẵn. Nó có thể được miêu tả qua sơ đồ sau: - Những khó khăn về kỹ thuật thu thập thông tin. Các bí quyết kỹ thuật nghiên cứu thương mại trên thị trường nội địa lại thường khó vận dụng do những đặc trưng riêng của thị trường nước ngoài. Sự thiếu thông tin thống kê đủ tin cậy cũng gây khó khăn cho việc nghiên cứu thăm dò và không thể xây dựng một mẫu đại diện cho tổng thể cần nghiên cứu. Tại hiện trường, việc thu nhập thông tin cũng gặp khó khăn rất lớn. Trước hết đó là vấn đề hạn chế theo luật pháp, đặc biệt là một số nước Trung Phi và Nam Mỹ, việc nghiên cứu thị trường chỉ có thể được tiến hành sau khi chính quyền địa phương cho phép. Việc nghiên cứu thị trường phải được tiến hành dựa trên một số phương pháp nhất định, chứ không phải chỉ đơn thuần dựa vào cảm tính. - Phương pháp nghiên cứu tại văn phòng: Nghiên cứu tại văn phòng cơ bản là thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu có xuất bản hoặc không xuất bản. Theo phương pháp này cần có đội ngũ chuyên gia có khả năng phân tích, phải sử dụng các công cụ tiên tiến. Nguồn tư liệu để phục vụ có thể lấy từ các nguồn sau: + Nguồn tài liệu có xuất bản từ các tổ chức, các cơ quan chẳng hạn như thông tin thị trư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc158.doc
Tài liệu liên quan