Nước ta tồn tại lâu dài nền kinh tế tự cung tự cấp khép kín chỉ quan hệ với các nước XHCN trong những năm đầu của thập niên 80. Nền kinh tế đó đã lộ rõ, những yếu kém, trì trệ phát sinh nhiều tiêu cực. Trong khi thế giới đang đón nhận những tiến bộ to lớn của lực lượng sản xuất thì bối cảnh của Việt Nam là một cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nhà nước tiến hành phân phối mọi sản phẩm quốc dân thông qua các cửa hàng mậu dịch, chế độ tem phiếu lâu dài không còn phù hợp mà chỉ làm phiền phức cho người dân. Bên cạnh đó cơ chế xin- cho, cấp- phát làm cho mọi nguồn lực trong xã hội không có điều kiện để phát triển. Với cơ chế kinh tế lỗi thời đó, với việc bao cấp tràn lan, quản lí kinh tế kém hiệu quả thì sản xuất không đủ sản phẩm để tiêu dùng, dẫn đến không thể tích luỹ mở rộng sản xuất và đưa đến thâm hụt ngân sách là điều không tránh khỏi.
Tại Đại hội Đảng VI (1986) đã mở đường cho công cuộc đổi mới đất nước dần xoá bỏ cơ chế bao cấp, chỉ huy và thừa nhận yếu tố thị trường của nền kinh tế. Đại hội VII và Đại hội VIII tiếp tục nhấn mạnh thêm đổi mới cơ chế kinh tế là một tất yếu. Đại hội IX đã đưa ra con đường phát trieern của đất nước ta đó là tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN và khẳng định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trườn định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau 20 năm công cuộc đổi mới, đất nứoc đã “thay da đổi thịt”, phát triển khá ổn định càng chứng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Cho nên bản thân tôi cảm thấy việc nghiên cứu “Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”
19 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đề tài Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Nước ta tồn tại lâu dài nền kinh tế tự cung tự cấp khép kín chỉ quan hệ với các nước XHCN trong những năm đầu của thập niên 80. Nền kinh tế đó đã lộ rõ, những yếu kém, trì trệ phát sinh nhiều tiêu cực. Trong khi thế giới đang đón nhận những tiến bộ to lớn của lực lượng sản xuất thì bối cảnh của Việt Nam là một cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nhà nước tiến hành phân phối mọi sản phẩm quốc dân thông qua các cửa hàng mậu dịch, chế độ tem phiếu lâu dài không còn phù hợp mà chỉ làm phiền phức cho người dân. Bên cạnh đó cơ chế xin- cho, cấp- phát làm cho mọi nguồn lực trong xã hội không có điều kiện để phát triển. Với cơ chế kinh tế lỗi thời đó, với việc bao cấp tràn lan, quản lí kinh tế kém hiệu quả thì sản xuất không đủ sản phẩm để tiêu dùng, dẫn đến không thể tích luỹ mở rộng sản xuất và đưa đến thâm hụt ngân sách là điều không tránh khỏi.
Tại Đại hội Đảng VI (1986) đã mở đường cho công cuộc đổi mới đất nước dần xoá bỏ cơ chế bao cấp, chỉ huy và thừa nhận yếu tố thị trường của nền kinh tế. Đại hội VII và Đại hội VIII tiếp tục nhấn mạnh thêm đổi mới cơ chế kinh tế là một tất yếu. Đại hội IX đã đưa ra con đường phát trieern của đất nước ta đó là tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN và khẳng định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trườn định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau 20 năm công cuộc đổi mới, đất nứoc đã “thay da đổi thịt”, phát triển khá ổn định càng chứng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Cho nên bản thân tôi cảm thấy việc nghiên cứu “Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”
I.Cơ sở lí luận của kinh tế thị trường định hướng XHCN.
1/Thế nào là kinh tế thị trường.
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hôi đã và đang trải qua 2 hình thức sản xuất vật chất, đó là kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá. Kinh tế tự nhiên là nền kinh tế sơ khai, sản phẩm sản xuất ra nhằm thoả mãn nhu cầu trực tiếp của sản xuất. Bước tiến của nhân loại đó là nền kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tê – xã hội, mà trong đó sản phẩm sản xuất ra là để trao đổi,để bán, tức là để thoả mãn nhu cầu người mua, nhu cầu xã hội.
Kinh tế thị trường(KTTT) là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá trong đó toàn bộ yếu tố “đầu vào”và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường,do thị trường quyết định.
2/Đặc trưng của kinh tế thị trường.
Một nền KTTT nói chung có 4 đặc điểm. Một là, các chủ thể có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Hai là , giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và có tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Ba là, nền kinh tế vận động theo quy luật vốn có của KTTT như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… Sự tác động của các quy luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế thị trường. Bốn là, nếu là nền kinh tế thị trường hiện đại thì còn có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách kinh tế.
3/ Tính tất yếu của việc phát triển KTTT ở Việt Nam.
Trước đổi mới nền kinh tế nước ta là nền kinh tế phát triển ở mức thấp, cơ cấu kinh tế đơn giản, quản lý kinh tế theo kiểu tập trung quan liêu bao cấp. Nó làm thui chột mọi nguồn lực trong xã hội đưa đến một nền kinh tế trì trệ, lạc hậu, bảo thủ,cuộc sống nhân dân khó khăn thiếu thốn. Nền kinh tế ngày càng bộc lộ rõ nhược điểm: Hạn chế sự cạnh tranh , thị trường gần như đóng băng , quan hệ hàng hoá xơ cứng, tất cả đều do nhà nước phân phối theo cách “san bằng” cơ chế quản lý theo kiểu mệnh lệnh xin - cho, tăng trưởng sản xuất chậm, không ổn định. Hậu quả là khủng hoảng kinh tế xã hội sâu sắc, giá cả hàng hoá tăng nhanh. Trước thực trạng đó, Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, đầu tiên là đổi mới về kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu sang cơ chế hạch toán kinh doanh XHCN.
Ngày xưa chúng ta cho rằng KTTT là đặc trưng của CNTB, nhưng ngày nay chúng ta đã nhận thức lại. Nếu như trước đây Đảng ta chỉ ra con đường đi lên của đất nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN. Từ đó chúng ta hiểu đó là bỏ qua tất cả những gì mà loài người đã đạt được dưới chế độ TBCN. Bây giờ ở Đại hội VII, VIII, IX, đặc biệt là Đại hội IX đã khẳng định con đường đi lên của đất nước ta là bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị về quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng vẫn tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà loài người đã đạt được dưới chế độ TBCN. Chính vì vậy mà Đảng ta đã nhận ra lối đi đúng đắn cho nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế tự cấp tự túc sang nền KTTT định hướng XHCN.
KTTT định hướng XHCN là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.
Hơn nữa, trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể,sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế giưa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hóa-tiền tệ. Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định,có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác, các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ khoa học-công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.Quan hệ hàng hóa-tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc, vì mỗi nước là một quốc gia riêng biệt, là người chủ sở hữu đối với các hàng hóa đem ra trao đổi trên thị trường thế giới. Sự trao đổi theo nguyên tắc ngang giá. Như vậy,có thể thấy KTTT nước ta tồn tại theo nguyên tắc khách quan chứ không thể theo ý muốn chủ quan mà xóa bỏ nó được.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với nước ta, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu nước ta thành nên kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm năng của đât nước vào sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, viêc chuyển sang KTTT nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc tăng trưởng kinh tế với nhịp độ khá ổn định trong thời gian qua.
Do những điều kiện và trình độ phát triển riêng nên nên KTTT Việt Nam ngoài 4 đặc điểm chung của một nền KTTT còn mang những đăc điểm đăc thù riêng phản ánh bản chất XHCN.Thứ nhất,về mục tiêu phát triển thị trường.Sự phân biệt nền KTTT của nước ta so với nền KTTT khác, phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế-xã hội mà Nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn làm định hướng chi phối sự phát triển nền kinh tế. Mục tiêu hàng đầu của phát triển KTTT ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dưng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao hiệu quả kinh tế-xã hội, cải thiên từng bước đời sống nhân dân. Ở nước ta, thực hiên tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng, lấy sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xóa đói giảm nghèo.
Thứ hai, nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sớ hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư nhân tư bản). Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế nói trên tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần đều bình đẳng với nhau trước pháp luật, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau để phát triển. Trong nền KTTT nhiều thành phần ở nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tính định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta đã quyết định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
Thứ ba, trong nền KTTT XHCN, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu. Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu cá nhân và các hình thức sở hữu do kết quả của sự xâm nhập giữa chúng. Trong nền KTTT ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối thu nhập sau đây: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn hay tài sản đóng góp, phân phối theo giá trị sức lao động (nó được thực hiện trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), phân phối thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội. Sự khác biệt cơ bản giữa KTTT định hướng XHCN với KTTT tư bản chủ nghĩa là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động. Phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của KTTT định hướng XHCN, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. Vì thế phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nước ta xây dựng KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa chứ không phải KTTT tư bản chủ nghĩa. Chúng ta lấy phát triển KTTT là phương tiện để đạt đựợc mục tiêu cơ bản xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Vì vậy, mỗi bước tăng trưởng kinh tế ở nước ta phải gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Việc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội và tập thể có ý nghĩa quan trọng để thực hiện mục tiêu đó.
Thứ tư, cơ chế vận hành kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa cũng vận động theo yêu cầu của những quy luật vốn có của KTTT, như quy luật cung cầu, quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh,… giá cả do thị trường quyết định, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.Trong điều kiện ngày nay, hầu như tất cả các nền kinh tế các nước trên thế giới đều có sự quản lí của Nhà nước để sửa chữa một mức độ nào đó “những thất bại của thị trường”. Tức là cơ chế vận hành nền kinh tế của tất cả các nước đều là cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước. Nhưng điều khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế của nước ta là ở chỗ Nhà nước quản lí nền kinh tế không phải là Nhà nước tư sản, mà là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Sự quản lí của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm sữa chữa “những thất bại của thị trường” , thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo, mà bản thân cơ chế thị trường không thể làm được, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế mở hội nhập. Đặc điểm này phản ánh sự khác biệt giữa nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng với nền kinh tế đóng, khép kín trước đổi mới, đồng thời phản ánh xu hướng hội nhập của nền kinh tế nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế.
Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, đang diễn ra quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, kĩ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lí tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nuớc ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển KTTT hiện đại theo kiểu rút ngắn. Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa các hình thức đối ngoại.
II. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Do nước ta bước vào nền kinh tế thị trường khá muộn màng so với các nước trên thế giới cho nên kinh tế thị trường ở nước ta còn ở gíai đoạn sơ khai,các yếu tố của thị trường phát triển chưa đồng bộ
1/Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai.
Theo UNDP, Việt Nam đang ở trình độ công nghê lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2-3 thế hệ (có lĩnh vực 4-5 thế hệ). Lao động thủ công vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so với khu vực và thế giới (năng suất lao động của nước ta chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới).
Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thong, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc… còn lạc hậu, kém phát triển (mật độ đường giao thông/km bằng 1% với mức trung bình của thế giới; tốc độ truyền thông trung bình cả nước chậm hơn thế giới 30 lần). Hệ thống giao thông kém phát triển làm cho các địa phương, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau, do đó làm cho nhiều tiềm năng của các địa phương không thể được khai thác, các địa phương không thể chuyên môn hóa sản xuất để phát huy thế mạnh.
Do cơ sở vật chất – kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp vẫn sử dụng khoảng 70% lực lượng lao động, nhưng chỉ sản xuất khoảng 26% GDP, các ngành kinh tế công nghệ cao chiếm tỉ trọng thấp.Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài còn rất yếu. Do cơ sở vật chất – kỹ thuật và công nghệ lạc hậu nên năng suất lao động thấp, do đó khối lượng hàng hóa còn nghèo nàn, chất lượng hàng hóa thấp, giá cả cao vì thế khả năng cạnh tranh còn yếu.
2/ Hệ thống thị trường đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ
Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hóa thống nhất.
Thị trường hàng hóa – dịch vụ đã hình thành, phát triển và đang mở rộng từ khi đổi mới. Nhiều loại hàng hóa có khả năng cạnh tranh trên thị trường khu vực và thế giới. Thị trường hàng hóa và dịch vụ đang từng bước đáp ứng được yêu cầu tiêu dùng và dịch vụ trong nước. Tuy nhiên, thị trường này mới hình thành, khả năng cạnh tranh vẫn còn thấp. Thị trường hàng hóa phát triển nhanh ở khu vực thành thị và các đô thị lớn, khu vực nông thôn còn rất đơn giản. Bên cạnh đó còn nhiều hiện tượng tiêu cực (hàng giả, hàng nhập lậu, hàng nhái nhãn hiệu) vẫn còn làm rối loạn thị trường. Tổ chức thị trường còn thiếu chặt chẽ. Thị trường dịch vụ, nhất là dịch vụ chất lượng cao (bảo hiểm, tài chính, ngân hàng, tư vấn, khoa học – công nghệ, đào tạo…) còn ở trình độ rất thấp và chưa thực sự hội nhập quốc tế. Nhiều loại hình dịch vụ công trong cơ chế thị trường chưa được xác lập. Dịch vụ y tế, giáo dục trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn lung túng, tính cạnh tranh và hội nhập khu vực và quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ còn thấp.
Thị trường hàng hóa lao động ở nước ta mới bắt đầu hình thành và mang nặng tính tự phát. Thị trường phát triển không đồng đều và bị chia cắt giữa các vùng, các khu vực kinh tế. Quan hệ cung – cấu về thị trường lao động còn bị chia cắt, khép kín, thiếu thông tin và đang bị các hàng rào, lực cản khác chi phối như qui định về hộ khẩu, nhà ở … Qui mô thị trường nhỏ hẹp và nói chung chưa vận hành theo nguyên tắc thị trường. Tỉ lệ lao động tham gia vào thị trường còn rất thấp. Tính chung trên pham vi cả nước, mới chỉ có khoảng 17% lao động tham gia vào thị truờng này. Khu vực nông thôn chiếm hơn 60% lực lượng lao động nhưng mới chỉ có khoảng hơn 4% lao động thực sự tham gia vào thị trường lao động. Điều đáng quan tâm đối với thị trường lao động ở nước ta là số lượng lao động lớn, nhưng cơ cấu lao động và chất lượng lao động còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Nét nổi bật là sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn rất nhiều, trong khi đó cung về lao động giản đơn lại vượt quá xa cầu, nhiều người có sức lao động không tìm được việc làm. Ngành nghề ít, chất lượng tay nghề thấp là rào cản về sự cạnh tranh với thị trường lao động khu vực và quốc tế.
Thị trường bất động sản tuy mới hình thành nhưng đang phát triển đa dạng. Đây là một thị trường nhạy cảm, liên quan đến quyền sỡ hữu tư nhân về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Thị trường bất động sản đang diễn ra chủ yếu ở một số thành phố và đô thị lớn, khi sôi động, khi lắng chìm theo tín hiệu của hệ thống chính sách bất động sản của Nhà nước. Thị trường bất động sản đang bị méo mó và hoạt động không lành mạnh, thiếu minh bạch. Ở khu vực đô thị, khoảng 70% giao dịch bất động sản là do (thị trường ngầm) chi phối. Thị trường bất động sản đang rất thiếu một môi trường pháp lí nhất quán, rõ rang, minh bạch, nhất là đất đai, nhà ở. Tính công khai và hệ thống thông tin về thị trường bất động sản đang rất bất cập. Để thúc đẩy thị trường bất động sản đang còn sơ khai ở nước ta, cần thiết lập quyền sơ hữu tư nhân đối với bất động sản. Đây là một vấn đề mới vì nền kinh tế nước ta đang ở giai đoạn tích lũy ban đầu, từng cá nhân và xã hội chưa có nhiều bất động sản.
Thị trường tài chính đang trong giai đoạn bước đầu hình thành, mang tính chất quá độ từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Đặc điểm cơ bản của thị trường tài chính ở nước ta hiện nay là phần lớn giao dịch chính trên thị trường là bằng tiền mặt. Thị trường tài chính đang tiềm ẩn nhiều khiếm khuyết, chưa đông bộ, thiếu minh bạch, Sàn giao dịch thị trường tài chính chưa đáng kể, vốn ứ đọng trong dân còn lớn, đồng tiền hoạt động chưa hiệu quả. Sự phát triển chậm chạp, thiếu đồng bộ của các yếu tố thị trường tài chính là một trong những nhân tố chủ yếu làm chậm tiến trình đổi mới, gây nhiều cản trở đối với sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế nước ta. Một mâu thuẫn lớn của nền kinh tế nước ta trước mắt và lâu dài là thiếu vốn phát triển, phải vay vốn nước ngoài, trong khi các nguồn vốn trong nước chưa được huy động và sử dụng có hiệu quả do chưa được phân bố theo tín hiệu của thị trường. Thị trường tiền tệ, thị trường vốn nói riêng đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở, như nhiều doanh nghiệp tư nhân thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng mắc thủ tục, trong khi đó nhiều ngân hàng thương mại huy động được tiền gửi mà không thể cho vay để ứ đọng trong két, dư nợ quá hạn trong nhiều ngân hàng thương mại đã đến mức báo động. Thị trường chứng khoán ra đời nhưng cũng chưa có nhiều “hàng hóa” để mua – bán và mới có rất ít doanh nghiệp đủ điều kiện tham gia thị trường này.
Thị trường khoa học và công nghệ mặc dù đã xuất hiện một số hình thức giao dịch và thương mại hóa hoạt động khoa học và công nghệ, nhưng cho đến nay ở nước ta vẫn chưa có thị trường khoa học công nghệ. Khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành hàng hóa. Thị trường khoa học và công nghệ thường là loại thị trường trình độ cao, gắn liền với kinh tế thị trường hiện đại có công nghiệp phát triển. Ở đây, hàng hóa chất xám, thiết bị, công nghệ hiện đại được thị trường chấp nhận, giao dịch theo quan hệ cung cầu. Nền kinh tế nước ta mới chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường, muốn đi nhanh tiến kịp các nước công nghiệp hiện đại, rất cần phát triển nhanh thị trường khoa học và công nghệ để tiếp cận với nền kinh tế tri thức và công nghệ cao. Nếu không có chiến lược, chính sách phát triển thị trường khoa học công nghệ, chúng ta sẽ không có cơ hội giao dịch với các thị trường khoa học công nghệ của các nền kinh tế thị trường hiện đại và là nguy cơ tụt hậu về khoa học công nghệ.
3/ Nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường.
Do vậy nền kinh tế ở nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hóa cùng tồn tại, đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hóa nhỏ phân tán còn phổ biến.
4/Quá trình hội nhập kinh tế vào thị trường khu vực và thế giới diễn ra bất lợi cho Việt Nam.
Sự hình thành thị trường trong nước gắn liền với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước khác.
Toàn cầu hàng hóa và khu vực hóa về kinh tế đang đặt ra chung cho các nước cũng như nước ta nói riêng những thách thức hết sức gay gắt. Nhưng nó là xu thế tất yếu khách quan, nên không đặt vấn đề tham gia hay không tham gia mà chỉ có thể đặt vấn đề: tìm cách xử sự với xu hướng đó như thế nào? Phải chủ động tham gia vào khu vực hóa và toàn cầu hóa, tìm ra “cái mạnh tương đối” của nước ta, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa kinh tế đối ngoại, tân dụng ngoại lực để phát huy nội lực, nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân, định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội.
5/ Quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội còn yếu kém.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng ta nhận định về vấn đề này như sau: “Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm.
Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hóa, quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn nhiều yếu kém; thủ tục hành chính… đổi mới chậm. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu có nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây tác động xấu đối với sản xuất. Chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý. Bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn. Lạm phát tuy được kiềm chế nhưng chưa vững chắc.
III. Quan điểm của Đảng và những giải pháp để phát triển KTTT ở Việt Nam.
1/ Các quan điểm định hướng.
Kể từ Đại hội Đảng VI(năm 1986) đến nay, tư duy lí luận của Đảng ta từng bước đổi mới và có tiến bộ rõ rệt. Các quan điểm cơ bản của Đảng chỉ đạo sự nghiệp đổi mới thể hiện lập trường kiên định và sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể Việt Nam trong thời kỳ mới. Những thành tựu nghiên cứu lý luận gắn với tổng kết thực tiễn đã cung cấp luận cứ khoa học cho việc định hướng đường lối của Đảng, tăng cường sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội; góp phần vào những thành công to lớn của sự nghiệp đổi mới.
Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Sau một thời gian tìm tòi, thử nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ Đại hội VI, Đảng ta đã dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế phi hàng hóa, phi thị trường, mô hình kinh tế tập trung bao cấp, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) khẳng định: “Phải phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”. Đại hội VIII đưa ra quan điểm mới rất quan trọng về kinh tế hàng hóa và chủ nghĩa xã hội: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”.Nhưng vào thời điểm đại hội VIII, chúng ta vẫn chưa gọi là kinh tế thị trường. Phải đến Đại hội IX khái niệm “kinh tế thị trường” mới chính thức nêu trong văn kiện Đại hội Đảng. Đại hội IX cũng đã đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, xem đó là mô hình tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Chúng ta đã nhận thức sâu hơn muốn thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vấn đề cơ bản nhất trong thời kỳ hiện nay là phải đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thực tế những năm qua cho thấy, nhờ có chủ trương đúng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, áp dụng mô hình KTTT định hướng XHCN, nền kinh tế nước ta đã có bước phát triển khá nhanh, mang lại hiệu quả rõ rệt. Mặc dù là bước đầu, còn không ít hạn chế, nhưng có thể khẳng định phát triển KTTT định hướng XHCN là một chủ trương đúng, là phương thức, là con đường xây dựng CNXH ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Nhiều bạn bè quốc tế đã ghi nhận điều đó.
2/ Các giải pháp cơ bản để phát triển
2.1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
Đẩy nhanh cổ phần hoá, hạn chế tối đa việc nhà nước còn giữ cổ phần hoá ở các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111082.doc