Một đất nước, một xã hội muốn có một nền kinh tế phát triển thì phải lấy nền tảng phát triển là công nghiệp. Sự nghiệp đổi mới đất nước ta trong những năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành công nghiệp đã chứng minh cho điều đó. Vì vậy, Đại hội Đảng IX đã khẳng định rõ quyết tâm “Từ nay đến năm 2020 xây dựng nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Tuy nhiên để thực hiện được điều đó thì đòi hỏi chúng ta phải có những nỗ lực vượt bậc mới có thể thành công trong cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đối với Hà Tây, một tỉnh cửa ngõ thủ đô, lại có nhiều tiềm năng về đất đai, lao động, ngành nghề, có cơ sở vật chất kỹ thuật, danh lam thắng cảnh nên Hà Tây có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và công nghiệp nói riêng. Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ IX đã nhận định giai đoạn 2006 – 2010 có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá của tỉnh.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công nghiệp trong nền kinh tế và vai trò kế hoạch 5 năm trong hệ thống kế hoạch hoá, trong thời gian thực tập tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tây em đã chọn đề tài: “Xây dựng kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây giai đoạn 2006 – 2010” làm đề tài nghiên cứu thực tập tốt nghiệp.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Vai trò của kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp trong hệ thống kế hoạch hoá.
Chương II: Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Hà Tây giai đoạn 2001 – 2003.
Chương III: Kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp hoá trên địa phận tỉnh Hà Tây giai đoạn 2006 – 2010
79 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 904 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Xây dựng kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây giai đoạn 2006 – 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Một đất nước, một xã hội muốn có một nền kinh tế phát triển thì phải lấy nền tảng phát triển là công nghiệp. Sự nghiệp đổi mới đất nước ta trong những năm qua đã thu được những thành tựu to lớn, trong đó có sự đóng góp không nhỏ của ngành công nghiệp đã chứng minh cho điều đó. Vì vậy, Đại hội Đảng IX đã khẳng định rõ quyết tâm “Từ nay đến năm 2020 xây dựng nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp”. Tuy nhiên để thực hiện được điều đó thì đòi hỏi chúng ta phải có những nỗ lực vượt bậc mới có thể thành công trong cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đối với Hà Tây, một tỉnh cửa ngõ thủ đô, lại có nhiều tiềm năng về đất đai, lao động, ngành nghề, có cơ sở vật chất kỹ thuật, danh lam thắng cảnh nên Hà Tây có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung và công nghiệp nói riêng. Đại hội Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ IX đã nhận định giai đoạn 2006 – 2010 có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá của tỉnh.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công nghiệp trong nền kinh tế và vai trò kế hoạch 5 năm trong hệ thống kế hoạch hoá, trong thời gian thực tập tại Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Tây em đã chọn đề tài: “Xây dựng kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây giai đoạn 2006 – 2010” làm đề tài nghiên cứu thực tập tốt nghiệp.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Vai trò của kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp trong hệ thống kế hoạch hoá.
Chương II: Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển công nghiệp tỉnh Hà Tây giai đoạn 2001 – 2003.
Chương III: Kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp hoá trên địa phận tỉnh Hà Tây giai đoạn 2006 – 2010
Chương I
vai trò của kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp trong hệ thống kế hoạch hoá
I. Sự cần thiết phảI xây dựng kế hoạch 5 năm
Hệ thống kế hoạch kinh tế quốc dân xét theo thời gian gồm có:
- Chiến lược phát triển.
- Kế hoạch 5 năm.
- Kế hoạch hàng năm.
Giữa chiến lược phát triển, kế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm phải có sự ăn khớp về phương hướng phát triển. Mối quan hệ hữu cơ giữa chiến lược, kế hoạch 5 năm, kế hoạch hàng năm được đảm bảo nhờ có mục tiêu chung và những biện pháp chủ yếu, giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội theo những nguyên tắc và phương pháp luận thống nhất của kế hoạch hóa kinh tế quốc dân.
Tuy mỗi loại kế họach có đặc điểm, nhiệm vụ, chức năng riêng. Nhưng kế hoạch 5 năm là hình thức kế hoạch chủ yếu của hệ thống kế hoạch hóa quốc dân, là loại kế hoạch có vị trí quan trọng. Điều này được thể hiện ở những phân tích sau:
Chiến lược phát triển là tổng hợp sự phân tích, đánh giá và lựa chọn về các căn cứ, các quan điểm, các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong một khoảng thời gian dài trên 10 năm và những chính sách thể hiện ở những phân tích sau:
Chiến lược phát triển là tổng hợp sự phân tích, đánh giá và lựa chọn về các căn cứ, các quan điểm, các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong một khoảng thời gian dài trên mười năm và những chính sách thể chế cơ bản để thực hiện các mục tiêu đặt ra.
Thời gian xây dựng chiến lược từ 20 năm đến 30 năm còn gọi là tầm nhìn. Chiến lược là cụ thể hóa tầm nhìn hay tầm nhìn là cơ sở để xây dựng chiến lược một cách thuận lợi.
Ngay từ đầu những năm 1990, chúng ta đã xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội đầu tiên giai đoạn 2001 – 2010 với mục tiêu là ổn định và phát triển. Hiện nay có thể nói chúng ta đã ổn định được nền kinh tế và bước vào thời kỳ phát triển mới, tạo tiền đề đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nên mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế xã hội mười năm tiếp theo, giai đoạn 2001- 2010 của nước ta là đẩy mạnh CNH – HĐH.
Kế hoạch 5 năm là kế hoạch cụ thể hóa chiến lược trong lộ trình phát triển dài hạn của đất nước nhằm xác định các mục tiêu định hướng, các nhiệm vụ và các chỉ tiêu cụ thể, các chương trình, các cân đối vĩ mô chủ yếu và các giải pháp chính sách có giá trị hiện hành trong thời gian 5 năm.
Xây dựng kế hoạch trong thời gian 5 năm là vì:
- Trong điều kiện trình độ phát triển khoa học hiện đại thì 5 năm là thời gian trung bình cần thiết để hình thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản trong các ngành kinh tế quốc dân, để đưa vào sử dụng phát huy hiệu qủa vốn đầu tư.
- Thời hạn 5 năm có thể tiến hành chủ trương đổi mới về công tác quản lý và kế hoạch hóa, áp dụng các chính sách kinh tế.
- 5 năm là khoảng thời gian đảm bảo cho tính chính xác được hoàn thiện, đảm bảo tính định hướng, tác nghiệp.
- 5 năm là thời gian đủ để đánh giá hiệu quả của công trình và tiếp tục phát huy nữa hay không.
- 5 năm là thời gian cần thiết đối với việc đào tạo nguồn nhân lực.
- 5 năm là khoảng thời gian gắn giữa hai nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc.
Chức năng của kế hoạch 5 năm là cụ thể hóa những phương hướng chủ yếu của xã hội, xác định những mục tiêu cần tập trung, ưu tiên nhằm biến đổi cơ cấu kinh tế và những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của nền sản xuất xã hội.
Kế hoạch 5 năm tạo ra những thay đổi lớn trong cơ cấu, đồng thời thường xuyên duy trì tính cân đối của các yếu tố và các lĩnh vực kinh tế quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Đến nay chúng ta đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ bẩy 2001 – 2005. Qua mỗi chặng đường 5 năm kinh tế có sự chuyển dịch đáng kể.
Kế hoạch hàng năm là công cụ triển khai và cụ thể hóa kế hoạch 5 năm, là phân đoạn của kế hoạch năm. Mặt khác, kế hoạch hàng năm còn là công cụ hoàn thiện kế hoạch 5 năm, có tính chất bổ sung đưa vào những vấn đề mới chưa có trong kế hoạch 5 năm. Cũng có thể nói đây là kế hoạch điều hành, bao gồm cả việc thiết lập các cân đối lớn, trên cơ sở nghiên cứu, dự báo thị trường mà điều chỉnh các kế họach tiếp theo.
Từ những trình bầy ở phần trên, cho thấy: Kế hoạch 5 năm là yếu tố liên kết chính trong hệ thống kế hoạch, là trọng tâm trong hệ thống kế hoạch, là công cụ quan hệ vĩ mô quá trình phát triển trong thời hạn 5 năm. Mặt khác, Nghị quyết Đại hội IX vẫn tiếp tục khẳng định: “Chuyển dần sang kế hoạch 5 năm là chính, có phân ra từng năm”. Vậy, nhằm nâng cao chất lượng công tác kế hoạch hóa ở nước ta cần coi trọng kế hoạch 5 năm, lấy kế hoạch 5 năm là hình thức chủ yếu quản lý nền kinh tế quốc dân.
II. Nội dung của kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp
Nền kinh tế quốc dân bao gồm tổng thể các ngành sản xuất vật chất và sản xuất phi vật chất. Trong các ngành sản xuất vật chất thì công nghiệp là ngành kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất và giữ một vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân của mọi quốc gia. Hoạt động sản xuất công nghiệp có đặc điểm khác hẳn với hoạt động sản xuất khác trong nền kinh tế quốc dân.
Công nghiệp bao gồm ba hoạt động chủ yếu:
- Khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo ra nguồn nguyên liệu nguyên thủy.
- Sản xuất và chế biến sản phẩm của công nghiệp khai thác và của nông nghiệp thành nhiều loại sản phẩm nhằm thỏa mãn các nhu cầu khác nhau của xã hội.
- Sản xuất và phân phối điện nước và khí.
Để thực hiện ba hoạt động cơ bản đó, dưới sự tác động của phân công lao động xã hội trên cơ sở của tiến bộ khoa học và công nghệ, trong nền kinh tế quốc dân hình thành hệ thống các ngành công nghiệp:
- Công nghiệp khai thác.
- Các ngành sản xuất và chế biến sản phẩm
- Công nghiệp sản xuất và phân phối điện nước và khí.
Hoạt động khai thác là hoạt động mở đầu của toàn bộ quá trình sản xuất công nghiệp. Tính chất tác động của hoạt động này là đưa các đối tượng lao động ra khỏi môi trường tự nhiên, tạo ra cơ sở nguyên liệu nguyên thủy cho công nghiệp.
Hoạt động chế biến là hoạt động làm thay đổi hoàn toàn về chất của các nguyên liệu nguyên thủy để tạo ra các sản phẩm trung gian và tiếp tục chế biến thành các sản phẩm cuối cùng đưa vào tiêu dùng trong sản xuất và trong đời sống. Quá trình chế biến từ một loại nguyên liệu có thể tạo ra được một loại sản phẩm tương ứng; và cũng có thể một loại sản phẩm nào đó được tạo ra từ những nguyên liệu khác nhau. Sản phẩm trung gian là các sản phẩm được coi là nguyên liệu cho quá trình sản xuất công nghiệp tiếp theo. Sản phẩm cuối cùng là sản phẩm đã ra khỏi quá trình sản xuất công nghiệp để đưa vào sử dụng trong sản xuất hoặc tiêu dùng trong đời sống. Theo nguyên tắc phân ngành kinh tế quốc dân, ngành công nghiệp chế biến gồm ba ngành công nghiệp chủ yếu:
- Công nghiệp sản xuất công cụ lao động.
- Công nghiệp sản xuất đối tượng lao động (nguyên vật liệu lao động)
- Công nghiệp sản xuất vật phẩm tiêu dùng.
Hoạt động sản xuất và phân phối điện nước là hoạt động tạo ra sản phẩm điện, nước nhằm phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt.
Như vậy, có thể hiểu công nghiệp là một ngành kinh tế to lớn thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất, bao gồm một hệ thống các ngành sản xuất chuyên môn hóa hẹp, mỗi ngành sản xuất chuyên môn hóa hẹp đó lại bao gồm nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc nhiều loại hình khác nhau. Trên góc độ kỹ thuật và hình thức tổ chức sản xuất, công nghiệp còn được cụ thể hóa bằng các khái niệm khác nhau: Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp lớn và công nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp nằm trong nông nghiệp, công nghiệp nông thôn, công nghiệp quốc doanh và công nghiệp ngoài quốc doanh.
1. Vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
a. Công nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân
Công nghiệp trở thành một ngành sản xuất to lớn và độc lập. Đó chính là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội.
Vai trò lịch sử của công nghiệp trong việc phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất được nghiên cứu bởi học thuyết Mác – Lênin. V.I.Lênin phân tích những luận điểm của Mác - Ăngghen và chứng minh phương hướng phát triển của công nghiệp như là ngành chủ đạo của nền kinh tế quốc dân. Vai trò chủ đạo của công nghiệp trong quá trình phát triển nền kinh tế là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu đó xuất phát từ bản chất, những đặc điểm vốn có của công nghiệp.
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp luôn luôn giữ vai trò chủ đạo. Vai trò chủ đạo của công nghiệp được hiểu là: công nghiệp là ngành có sự ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển lực lượng sản xuất của các ngành kinh tế quốc dân, đồng thời công nghiệp có khả năng tạo ra những động lực và định hướng phát triển của các ngành khác. Vai trò chủ đạo của công nghiệp được thể hiện ở các mặt chủ yếu sau:
- Công nghiệp là một trong ba bộ phận quyết định sự hình thành cơ cấu kinh tế của một nước.
Tổng sản phẩm xã hội của một quốc gia. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay là tăng tỷ trọng công nghịêp, dịch vụ.
- Công nghiệp không chỉ là ngành tác động trực tiếp đến sự phát triển mà còn có tác động gián tiếp đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống hàng ngày của con người thông qua việc thúc đẩy các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân phát triển, mà các ngành này có tác động trực tiếp đến đời sống của con người như nông nghiệp, dịch vụ v.v…
Mục tiêu cuối cùng của nền sản xuất xã hội là tạo ra sản phẩm để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của con người. Trong quá trình do công nghiệp là ngành không chỉ khai thác tài nguyên, mà còn tiếp tục chế biến các loại nguyên liệu nguyên thủy được khai thác và sản xuất từ các loại nguyên liệu khoáng sản, thành các sản phẩm trung gian để sản xuất ra những sản phẩm cuối cùng nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của con người. Trong khi đặc điểm của sản xuất nông nghịêp chỉ có thể tạo ra những sản phẩm từ các nguồn tài nguyên động thực vật đáp ứng nhu cầu cơ bản về lương thực, thực phẩm của con người. Nhưng muốn thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người đối với lương thực, thực phẩm, chỗ ở, ăn, mặc, đi lại học hành, sức khoẻ… thì cần phải có sản phẩm của công nghiệp.
- Công nghiệp tác động vào quá trình phát triển của các ngành với tư cách là hình mẫu về sử dụng tư liệu sản xuất tiên tiến, hiện đại, về phương pháp quản lý mới, về ý thức tổ chức, kỷ luật lao động…
Do đặc điểm của sản xuất công nghiệp, công nghiệp có những điều kiện tăng nhanh tốc độ phát triển khoa học – công nghệ, ứng dụng vào các thành tựu khoa học công nghệ đó vào sản xuất, có khả năng và tạo điều kiện sản xuất hoàn thiện hơn. Nhờ đó, lực lượng sản xuất trong công nghiệp phát triển nhanh hơn các ngành kinh tế khác. Do quy luật “Quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ và tính chất phát triển của lực lượng sản xuất”, trong công nghiệp có được hình thức quan hệ sản xuất tiên tiến. Tính tiên tiến về các hình thức quan hệ sản xuất, sự hoàn thiện nhanh về các mô hình tổ chức sản xuất làm cho công nghiệp có khả năng định hướng các ngành kinh tế khác tổ chức sản xuất theo mô hình tổ chức sản xuất công nghiệp.
- Công nghiệp là ngành duy nhất có sản phẩm làm chức năng tư liệu lao động trong các ngành kinh tế khác và là cơ sở tái mở rộng cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thông qua công nghiệp tạo ra và trang bị cơ sở vật chất
kỹ thuật cho tất cả các ngành. Mặt khác, công nghiệp là cơ sở củng cố quốc phòng của đất nước, sản xuất ra các loại phương tiện kỹ thuật quân sự hiện đại.
Cũng do đặc điểm của sản xuất công nghiệp, đặc biệt là đặc điểm về công nghiệp sản xuất, đặc điểm về công dụng sản phẩm công nghiệp. Nên công nghiệp có vai trò quyết định trong việc cung cấp yếu tố đầu vào cho các ngành kinh tế khác, để xây dựng cơ sở vật chất, quốc phòng cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
- Công nghiệp có vai trò quan trọng góp phần vào việc giải quyết những nhiệm vụ có tính chiến lược của nền kinh tế xã hội.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ hoàn thiện về tổ chức sản xuất, hình thành một đội ngũ lao động có tính tổ chức. Tính kỷ luật và trình độ trí tuệ cao, cộng với tính đa dạng của hoạt động sản xuất, công nghiệp là một trong những ngành góp phần quan trọng tạo ra thu nhập quốc dân, tích lũy vốn để phát triển kinh tế, tăng xuất nhập khẩu, thúc đẩy hợp tác kinh tế với các nước trên thế giới và là cơ sở cho sự phân công lao động quốc tế… Từ đó, công nghiệp có vai trò quan trọng trong việc giải quyết những nhiệm vụ có tính chiến lược của nền kinh tế - xã hội: như phân công hợp lý hơn lực lượng sản xuất, phát triển các vùng kinh tế của đất nước, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn tài nguyên, lao động và truyền thống nghề nghiệp của các địa phương, vùng lãnh thổ, xoá bỏ dần sự cách biệt giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi…
Đặc biệt, trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay Đảng có chủ trương: “Coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, giải quyết cơ bản những vấn đề về lương thực, thực phẩm, cung cấp nguồn nguyên liệu động thực vật để phát triển công nghiệp và đẩy mạnh xuất khẩu nông sản hàng hóa nhằm tạo ra những điều kiện tiên tiến để thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa”. Để thực hiện những nhiệm vụ cơ bản đó, vai trò của công nghiệp còn thể hiện ở những mặt sau:
Có sự liên doanh, liên kết giữa các xí nghiệp công nghiệp đảm bảo việc xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật, nghiên cứu phổ biến tiến bộ khoa học kỹ thuật, chế biến sản phẩm … cho các đơn vị sản xuất nông nghịêp.
Hình thức liên doanh liên kết giữa các ngành công nghiệp với địa phương về hợp đồng trực tiếp phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Hình thức kết hợp gián tiếp phổ biến nhất là thông qua trao đổi hàng hoá, dịch vụ phục vụ nông nghiệp và thu mua chế biến nông sản thực phẩm để thúc đẩy phát triển nông sản hàng hóa và xây dựng nông thôn mới ở nước ta do các ngành lưu thông phân phối thực hiện.
Với đặc điểm nước ta hiện nay có 80% dân số sống ở nông thôn và tham gia sản xuất nông nghịêp, việc phát triển công nghiệp đặc biệt là công nghiệp sản xuất ra tư liệu lao động phục vụ cho sản xuất nông nghịêp và công nghiệp chế biến có ý nghĩa rất lớn đối với phát triển nông nghịêp nông thôn, biểu hiện ở việc công nghiệp góp phần tăng năng suất cây trồng – vật nuôi đồng thời tăng giá trị của sản phẩm nông nghịêp.
Qua sự trình bầy ở những phần trên, ta thấy ngành công nghiệp chế biến có vai trò đặc biệt quan trọng đối với phát triển ngành công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung. Nên hiện nay, cơ cấu ngành công nghiệp có xu hướng chuyển dịch là tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến.
Thực tiễn phát triển kinh tế xã hội ở nước ta chỉ rõ vai trò chủ đạo của công nghiệp bắt nguồn từ bản chất và đặc điểm ưu việt của nó. Tuy nhiên đối với các ngành kinh tế khác phải tổ chức lại sản xuất, nâng cao khả năng tiếp thu vai trò chủ đạo của công nghiệp. Về phía Nhà nước, phải điều hoà phối hợp hoạt động của các ngành, các lĩnh vực kinh tế xã hội theo hướng hỗ trợ sản xuất cho công nghiệp phát huy vai trò chủ đạo.
b. Công nghiệp với tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội
Công nghiệp được coi là chìa khoá để phát triển kinh tế xã hội. Vì trình độ phát triển công nghiệp là một tiêu chuẩn đánh giá trình độ phát triển của một quốc gia, một vùng. Mặt khác năng xuất lao động cao trong công nghiệp là chìa khoá dẫn đến sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng sức mua, mở rộng thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ, đặc biệt là sự phát triển của công nghiệp chế biến, vì đây là ngành tạo ra khả năng thay thế nhập khẩu có hiệu qủa và cũng là ngành có khả năng tăng xuất khẩu, giải quyết đầu ra cho sản xuất nông nghịêp, làm tăng giá trị nông sản.
Công nghiệp càng đóng góp nhiều trong tổng sản phẩm quốc dân là điều kiện để thu nhập theo đầu người tăng cao.
c. Phát triển công nghiệp là điều kiện cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Có nhiều định nghĩa về công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH - HĐH) do các cách tiếp cận khác nhau. Nếu xét về mục tiêu, CNH - HĐH là quá trình cải tiến lao động thủ công lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để đạt được năng suất lao động xã hội cao.
Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã nêu: “CNH-HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động
sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động, công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Như vậy ở nước ta CNH là quá trình chuyển từ một nước sản xuất nhỏ, kĩ thuật lạc hậu và năng suất lao động thấp thành một nước có cơ cấu công – nông nghiệp và dịch vụ hiện đại, khoa học và công nghệ tiên tiến, năng suất lao động cao trong các ngành kinh tế quốc dân.
CNH-HĐH là quát trình mang tính tất yếu lịch sử. Tất cả các quốc gia công nghiệp phát triển hiện nay đều trải qua quá trình CNH ở những thời điểm khác nhau với những điều kiện lịch sử kinh tế xã hội khác nhau. Với hầu hết các nước đang phát triển hiện nay, CNH là một chính sách chủ yếu và thách thức lớn.
Đối với Việt Nam thực hiện CNH – HĐH là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực, thoát khỏi cảnh một nước kém phát triển, nghèo và đói, đồng thời giữ vững và ổn định chính trị, bảo vệ được độc lập chủ quyền và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chỉ có CNH-HĐH mới đưa nước ta thoát ra khỏi nghèo nàn, lạc hậu. Các Mác cho rằng, những thời đại kinh tế khác nhau không phải chúng sản xuất ra cái gì mà ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào. Đẩy mạnh CNH – HĐH sẽ giúp chúng ta có lực mới đẩy nhanh tốc độ phát triển, đưa Việt Nam lên ngang tầm với các nước trong khu vực và thế giới.
Để thực hiện CNH – HĐH đất nước, trước hết phải có nền công nghiệp hiên đại và việc phát triển công nghiệp phải nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất xã hội và cho xây dựng cơ cấu kinh tế mới. Do đó, Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra:
“Công nghịêp hoá không chỉ đơn giản là tăng tốc độ và tỷ trọng của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân mà là chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững của toàn bộ nền kinh tế quốc dân”.
Điều này được thể hiện: sản xuất công nghiệp phát triển không ngừng thúc đẩy việc hiện đại hoá bản thân nó mà còn góp phần tăng thêm yếu tố vật chất kỹ thuật để thúc đẩy việc cải tạo và phát triển các ngành kinh tế khác theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Theo sự trình bày ở những phần trên cho thấy: Phát triển các ngành công nghiệp là nền tảng, là nội dung, là điều kiện cơ bản của CNH – HĐH. Cho nên các biện pháp công nghiệp hoá, hiện đại hóa các ngành công nghiệp phải quán triệt các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phải thực hiện theo yêu cầu của cơ chế thị trường, có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phải đảm bảo tính đồng bộ, tính đồng bộ nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đề ra.
Phát triển công nghiệp phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa vào hai mục tiêu:
- Đổi mới công nghệ của phần lớn doanh nghiệp, phát triển nhanh một số nành có lợi thế, hình thành một số ngành mũi nhọn trong các lĩnh vực chế biến lương thực, thực phẩm, khai thác và chế biến dầu khí, công nghiệp điện tự và công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo sản xuất vật liệu.
- Hình thành các khu công nghiệp tập trung (bao gồm cả khu chế xuất và khu công nghệ cao), tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới phát triển mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô thị.
2. ý nghĩa của kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp
Nếu xét hệ thống kế hoạch hóa trên góc độ của bộ phận cấu thành thì hệ thống kế hoạch hóa gồm có: Kế hoạch nông nghiệp, kế hoạch công nghiệp, kế hoạch giao thông vận tải, kế hoạch thương mại – dịch vụ, kế hoạch thu chi ngân sách… Trong đó kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng đối với phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp vừa là bộ phận kế họach biện pháp, vừa là bộ phận kế hoạch mục tiêu trong hệ thống kế hoạch phát triển. Vì nó phục vụ cho một số kế hoạch mang tính chất mục tiêu như: Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, kế hoạch tăng trưởng, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kế hoạch phát triển vùng kinh tế …có giá trị hiện hành trên 5 năm. Mặt khác, trong nội dung của kế họach 5 năm phát triển công nghiệp có bao hàm tính định hướng phát triển của ngành công nghiệp.
Trong 5 năm là khoảng thời gian đủ cho quá trình đầu tư phát huy hiệu quả, đó là:
- Việc thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp nói riêng, cần phải có một khoảng thời gian đủ dài là 5 năm mới cho thấy được hướng hiệu quả của việc chuyển dịch cơ cấu ngành.
- Việc đầu tư phát triển công nghiệp về cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ, phát triển năng lực sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm công nghiệp không thể là trong một sớm một chiều mà đòi hỏi phải có một khoảng thời gian nhất định mới thấy được hiệu quả của việc đầu tư, những thuận lợi, khó khăn, những kết quả đạt được và những tồn tại.
- Việc đầu tư cho các công trình, dự án phát triển công nghiệp phát huy được hiệu quả như: Dự án phát triển ngành công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm cần có thời gian để tổ chức, sắp xếp lại các cơ sở hiện có; đầu tư mới về công nghệ sản xuất, cơ sở hạ tầng; các giải pháp nhằm giúp đỡ, tạo điều kiện cho các cơ sở chế biến dân doanh phát triển nhanh, mạnh; tổ chức tiêu thủ sản phẩm chế biến, nguyên liệu cho chế biến, tổ chức ngành công nghiệp này … cũng như để đảm bảo được sự phối hợp đồng bộ giữa các chương trình dự án.
- Ngày nay trong quá trình hội nhập các tổ chức quốc tế thì vấn đề công nghệ, vốn, năng lực sản xuất, trình độ nhân lực, khoa học kỹ thuật là một đòi hỏi và thách thức lớn đối với các ngành kinh tế nói chung. Ngành công nghiệp là ngành giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nên ngành công nghiệp Việt Nam muốn phát huy tốt vai trò của mình thì bên cạnh việc phát huy nội lực như: nghiên cứu, phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ truyền thống, đầu tư đào tạo nguồn nhân lực, huy động nguồn vốn trong nước vào sản xuất công nghiệp thì cũng cần phải có chuyển giao khoa học công nghệ từ nước ngoài áp dụng vào sản xuất công nghiệp trong nước. Tuy nhiên, việc chuyển giao công nghệ cũng phải theo hướng có chọn lọc và sáng tạo. Nghĩa là, khoa học công nghệ được chuyển giao phải vận dụng phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, địa lý, thời tiết, khí hậu, truyền thống dân tộc… của đất nước ta. Nên thời gian trong kế hoạch 5 năm là cần thiết cho việc phát huy những khoa học công nghệ chuyển giao và khắc phục được những hạn chế để đưa lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất.
Như vậy, việc xây dựng kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng đối với mục tiêu phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững của ngành công nghiệp nói riêng và kinh tế xã hội của đất nước ta nói chung.
3. Nội dung của kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp (trên địa bàn một tỉnh)
a. Khái niệm
- Xét trên góc độ toàn nền kinh tế quốc dân.
Kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp là kế hoạch cụ thể hóa kế hoạch 5 năm cấp quốc gia đối với các phần có liên quan đến ngành công nghiệp.
- Xét trên góc độ ngành:
Kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp là kế hoạch cụ thể hóa chiến lược phát triển và quy hoạch phát triển công nghiệp trong lộ trình dài hạn của đất nước.
Vậy, kế hoạch 5 năm phát triển công nghiệp là kế hoạch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- fgfbtjyn.doc