Nước cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cùng với sự thay đổi mạnh mẽ các ngành nghề thì việc đổi mới giáo dục là công tác được quan tõm hàng đầu. Sự phát triển của nền kinh tế tri thức đòi hỏi người lao động phải có trình độ khoa học kĩ thuật tương xứng với yêu cầu của công việc và thích ứng nhanh chóng đối với sự chuyển đổi ngành nghề. Để đáp ứng theo yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhiệm vụ của ngành Giỏo dục hiện nay là phải nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn lực con người, đào tạo ra lớp người năng động, sáng tạo, có khả năng lĩnh hội và vận dụng cái mới, đủ sức giải quyết vấn đề trong cuộc sống. Nền giáo dục không chỉ dừng lại ở chỗ trang bị cho học sinh những kiến thức, công nghệ mà nhân loại đó tớch luỹ được, còn phải bồi dưỡng cho họ tính năng động của cá nhân, có tư duy sáng tạo và năng lực thực hành giỏi.
Giáo dục – Đào tạo (GD-ĐT) có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và bền vững. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, giáo dục cần phải có sự đổi mới toàn diện; Do đó phương pháp dạy học (PPDH) cũng cần phải được thay đổi căn bản. PPDH trước đây không phù hợp với trình độ tri thức hiện nay, cho nờn PPDH phải đổi mới theo hướng nâng cao tính tích cực, tự lực, sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên hiện nay PPDH các bộ môn khoa học xã hội nói chung và bộ môn Địa lý nói riêng ở trường THPT của Lào vẫn mang tính chất thông bỏo, tỏi hiện Học sinh không được tạo điều kiện để bồi dưỡng các phương pháp nhận thức, rèn luyện tư duy khoa học, phát triển năng lực và giải quyết vấn đề.
Nghị quyết lần thứ IV của Ban chấp hành Trung ương (BCHTW) Đảng Nhõn Dân cách mạng Lào (khoá VII năm 2002) đã nhấn mạnh và coi trọng sự nghiệp giáo dục, làm cho giáo dục đi trước những sự nghiệp khác một bước và đã định hướng chiến lược phát triển GD - ĐT trong thời kỳ tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2010 và hướng tới năm 2020 để làm thế nào cho đất nước Lào thoát khỏi danh sách nhúm các nước nghèo và lạc hậu trên thế giới.
Nghị quyết đã đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng GD – ĐT, trong đó nhấn mạnh việc đổi mới PPDH ở tất cả các cấp học. Hội nghị đã khẳng định “Cựng với khoa học, công nghệ, GD - ĐT là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao, dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Nghị quyết của Đảng còn ghi rõ: “Nguồn lực con người là quan trọng nhất. Trong thực hiện, GD-ĐT có trách nhiệm đào tạo nguồn lực con người có đủ trình độ để đáp ứng theo nhu cầu của sự phát triển đất nước đi cùng các nước trong khu vực và trên thế giới”.
Đề thực hiện được yêu cầu nói trên, mỗi môn học trong nhà trường phải xác định được các kiến thức cơ bản nhất của bộ môn, đồng thời tìm ra được những phương pháp giảng dạy có tác dụng tích cực trong việc phát triển năng lực tư duy, trong việc rèn luyện năng hành động cho học sinh. Môn học Địa Lý cũng không nằm ngoài yêu cầu đó.
121 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1350 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Xác định hệ thống khái niệm trong nội dung sách giáo khoa Địa lý 11 (Chương trình Địa lý THPT nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nước cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cùng với sự thay đổi mạnh mẽ các ngành nghề thì việc đổi mới giáo dục là công tác được quan tõm hàng đầu. Sự phát triển của nền kinh tế tri thức đòi hỏi người lao động phải có trình độ khoa học kĩ thuật tương xứng với yêu cầu của công việc và thích ứng nhanh chóng đối với sự chuyển đổi ngành nghề. Để đáp ứng theo yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhiệm vụ của ngành Giỏo dục hiện nay là phải nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn lực con người, đào tạo ra lớp người năng động, sáng tạo, có khả năng lĩnh hội và vận dụng cái mới, đủ sức giải quyết vấn đề trong cuộc sống. Nền giáo dục không chỉ dừng lại ở chỗ trang bị cho học sinh những kiến thức, công nghệ mà nhân loại đó tớch luỹ được, còn phải bồi dưỡng cho họ tính năng động của cá nhân, có tư duy sáng tạo và năng lực thực hành giỏi.
Giáo dục – Đào tạo (GD-ĐT) có vai trò quan trọng trong việc bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế nhanh chóng và bền vững. Để thực hiện được nhiệm vụ đó, giáo dục cần phải có sự đổi mới toàn diện; Do đó phương pháp dạy học (PPDH) cũng cần phải được thay đổi căn bản. PPDH trước đây không phù hợp với trình độ tri thức hiện nay, cho nờn PPDH phải đổi mới theo hướng nâng cao tính tích cực, tự lực, sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên hiện nay PPDH các bộ môn khoa học xã hội nói chung và bộ môn Địa lý nói riêng ở trường THPT của Lào vẫn mang tính chất thông bỏo, tỏi hiện…Học sinh không được tạo điều kiện để bồi dưỡng các phương pháp nhận thức, rèn luyện tư duy khoa học, phát triển năng lực và giải quyết vấn đề.
Nghị quyết lần thứ IV của Ban chấp hành Trung ương (BCHTW) Đảng Nhõn Dân cách mạng Lào (khoá VII năm 2002) đã nhấn mạnh và coi trọng sự nghiệp giáo dục, làm cho giáo dục đi trước những sự nghiệp khác một bước và đã định hướng chiến lược phát triển GD - ĐT trong thời kỳ tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2010 và hướng tới năm 2020 để làm thế nào cho đất nước Lào thoát khỏi danh sách nhúm các nước nghèo và lạc hậu trên thế giới.
Nghị quyết đã đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng GD – ĐT, trong đó nhấn mạnh việc đổi mới PPDH ở tất cả các cấp học. Hội nghị đã khẳng định “Cựng với khoa học, công nghệ, GD - ĐT là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao, dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Nghị quyết của Đảng còn ghi rõ: “Nguồn lực con người là quan trọng nhất. Trong thực hiện, GD-ĐT có trách nhiệm đào tạo nguồn lực con người có đủ trình độ để đáp ứng theo nhu cầu của sự phát triển đất nước đi cùng các nước trong khu vực và trên thế giới”.
Đề thực hiện được yêu cầu nói trên, mỗi môn học trong nhà trường phải xác định được các kiến thức cơ bản nhất của bộ môn, đồng thời tìm ra được những phương pháp giảng dạy có tác dụng tích cực trong việc phát triển năng lực tư duy, trong việc rèn luyện năng hành động cho học sinh. Môn học Địa Lý cũng không nằm ngoài yêu cầu đó.
Chương trình Địa lý kinh tế - xã hội Lào – lớp l1 THPT với nhiều kiến thức mới, có tác dụng rất lớn trong việc phát triển năng lực tư duy và hành động tích cực, sáng tạo cho người học. Tuy nhiên, lượng kiến thức và kỹ năng trong mỗi bài học và cả chương trình rất lớn, đa dạng và không ngừng được bổ sung thêm những hiện tượng và sự kiện mới, nhưng thời gian danh cho môn học lại có hạn.Thông qua đú giỳp cho học sinh có thể vận dụng các kiến thức và kỹ năng cơ bản ngay sau khi rời ghế nhà trường.
Để góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc giảng dạy môn Địa lý kinh tế - xã hội Lào - lớp 11 THPT (Những vấn đề Địa lý kinh tế - xã hội Lào) và góp phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu là “Xác định hệ thống khái niệm trong nội dung sách giáo khoa Địa lý 11 (Chương trình Địa lý THPT nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào).
Các khái niệm là hạt nhân của kiến thức (ở đây là kiến thức Địa lý và đi kèm theo nó là các kỹ năng tương ứng), chúng tạo thành hệ thống khái niệm Địa lý kinh tế và có mối liên quan với nhau. Đặc điểm của phương pháp hình thành hệ thống khái niệm trong nội dung sách giáo khoa là giáo viên phải biết tổ chức và hướng dẫn học sinh hoạt động tích cực để tự mình chiếm lĩnh lấy các khái niệm.
Hoạt động này dựa trên nhiều nguồn thông tin khắc nhau (như sách giáo khoa, các bản đồ, các lược đồ các bảng số liệu thống kê, các biểu đồ, tranh ảnh...). Từ đó giáo viên xác định được các kiến thức và kỹ năng cơ bản trong bài giảng, xác định được các phương pháp và hình thức dạy học trong một thời gia cho phép.
II. MỤC ĐÍCH - NHIỆM VỤ - GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
1. Mục đích của đề tài.
Trên cơ sở xác địch được các khái niệm và hệ thống khái niệm, của từng bài của toàn bộ chương trình Địa lý lớp 11 THPT, vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong việc dạy học các khái niệm, nhằm giúp cho giáo viên giảng dạy và giúp cho học sinh tự học có hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Địa lý ở trong các trường THPT hiện nay.
2. Nhiệm vụ của đề tài
` - Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xác định khái niệm, hệ thống khái niệm và quá trình hình thành khái niệm nói chung và khái niệm địa lý nói riêng.
- Xác định được các khái niệm và hệ thống khái niệm ở từng bài học và toàn bộ chương trình Địa lý lớp 11 THPT.
- Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học để hình thành các khái niệm trong chương trình Địa lý lớp 11 THPT.
- Tiến hành thực nghiệm để kiểm chứng tính khả thi đề tài nghiên cứu.
3. Giới hạn của đề tài
Do mục đích, nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi chỉ đi sâu và giải quyết một vấn đề:
- Xác định khái niệm, hệ thống khái niệm trong nội dung chương trình Địa ký kinh tế - xã hội của Lào lớp 11 THPT (Những vấn đề Địa lý kinh tế - xã hội của Lào)
- Phạm vi nghiên cứu thực nghiệm: các trường THPT của tỉnh Xê Kong - nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào
III. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Vấn đề xác định khái niệm và hệ thống khái niệm đó cú lịch sử nghiên cứu từ khỏ lõu; Song cho đến nay việc xác định khái niệm, hệ thống khái niệm và nội dung khái niệm ở trong các sách giáo khoa địa lý ở các trường phổ thông cũn ớt được quan tâm; đặc biệt việc xác định khái niệm, hệ thống khái niệm và nội dung khái niệm trong chương trình Địa lý kinh tế - xã hội Lào chưa được đề cập một cách thoả đáng.
Thực tế trên thế giới và trong nước cũng đã có nhiều sỏch, bỏo, tài liệu, công trình đã viết về vấn đề khái niệm Địa lý và nội dung khái niệm Địa lý.
Trước tiên phải kể đến công trình về cơ sở phương pháp luận Mác – Lênin đó có đóng góp rất quan trọng vào việc hình thành khái niệm Địa lý. Lênin đã định nghĩa về khái niệm và chỉ ra con đường nhận thức thế giới khách quan của xã hội loài người.
Các nhà tâm lý học trên thế giới cũng như trong nước đều thừa nhận nhiệm vụ học tập của học sinh là quá trình lĩnh hội những khái niệm khoa học. Nhiệm vụ giảng dạy chủ yếu của giáo viên ở các trường phổ thông là dạy cho học sinh các khái niệm khoa học. Trong những năm gần đây, tâm lý học hiện đại cho rằng khái niệm mà học sinh tiếp thu được là khái niệm gắn liền với hoạt động. GS – TS Hồ Ngọc Đại cho rằng: Bài học là đơn vị cơ sở của quá trình giáo dục. Nội dung của bài học là khái niệm (tương ứng với nó là các kỹ năng, kỹ xảo). Vì vậy, ông định nghĩa về bài học: “là quá trình thầy tổ chức cho học trò hoạt động để lĩnh hội một khái niệm (có thể là một số khái niệm) và kỹ năng, kỹ xảo tương ứng với nó trong một thời gian nhất định”. [2]
Các nhà Địa lý trên thế giới cũng nói đến các khái niệm về Địa lý như N.N.Baranxki, I.U.R. Saouchkin…ở Việt Nam, nhiều nhà khoa học cũng thấy được tầm quan trọng của hệ thống khái niệm và việc hình thành khái niệm như: Nguyễn Dược, Mai Xuõn San, Nguyễn Ngọc Quang, Giang Tiến, Nguyễn Trọng Phúc, Lê Đức Hải, Nguyễn Đức Vũ… và đã có nhiều công trình, sách báo đề cập đến vấn đề khái niệm Địa lý cũng như việc hình thành khái niệm Địa lý.
GS nguyễn Dược, PGS – TS Nguyễn Trọng Phúc với giáo trình “Lý luận dạy học Địa lý kinh tế - xã hội” coi như khái niệm là kiến thức lý thuyết quan trọng và cơ bản của các tri thức Địa lý trong trường phổ thông.
GS Nguyễn Dược còn chỉ rõ: ở trong một số bài giáo viên cần dạy cho học sinh một số khái niệm chính và khái niệm phụ.
TS Nguyễn Giang Tiến với công trình nghiên cứu “xõy dựng hệ thống khái niệm và phương pháp hình thành khái niệm trong giáo trình Địa lý kinh tế các nước lớp 10, lớp 11 PTTH” (1985)
Qua việc tìm hiểu trên, chúng ta thấy việc xác định khái niệm, hệ thống khái niệm trong nội dung sách giáo khoa cũng như trong dạy học Địa lý ở các trường Trung học phổ thông được các nhà khoa học các giáo viên đặc biệt quan tâm. Nhưng việc hình thành khái niệm và hệ thống khái niệm cho học sinh theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy học (theo hướng dạy học tích cực) trong chương trình Địa lý kinh tế - xã hội Lào - lớp 11THPT (Những vấn đề Địa lý kinh tế - xã hội Lào) vẫn còn là một đề tài cần được nghiên cứu nhiều hơn nữa.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIấN CỨU
Phương pháp lý thuyết
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tụi đã nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài, bao gồm tài liệu về Triết học, Lụgớc học, Tâm lý học, Giáo dục học, Lý luận dạy học (nói chung) và lý luận dạy học Địa lý (nói riêng), cỏc sỏch viết về sử dụng các phương tiện và thiết bị dạy học, các luận văn, luận án có liên quan đến đề tài nghiên cứu, cỏc sỏch giỏo khoa, sách giáo viên Địa lý, các văn bản và nghị quiết của Đảng và Nhà nước về vấn đề giáo dục, các tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học của Bộ Giáo dục và Đào tạo Lào. Đặc biệt trong đó chúng tụi đó vận dụng phương pháp tiếp cận hệ thống, phương pháp phân loại để giải quyết những nội dung mà đề tài đề cập đến.
Phương pháp thực tiễn
Phương pháp điều tra khảo sát:
Đây là phương pháp quan trọng nhằm tìm hiểu thực tế về việc nắm các khái niệm địa lý của học sinh, của giáo viên khi dạy học địa lý:
- Thông qua các đợt kiểm tra và thi của học sinh tỉnh Xê Kong và một số tỉnh khác.
- Thông qua các giờ dạy của giáo viên ở các trường THPT trong tỉnh XE KONG và một số tỉnh khác.
- Tham khảo số liệu của giáo viên dạy Địa lý trong tỉnh XE KONG và một số tỉnh khỏc…
b. Phương pháp thực nghiệm
Thực nghiệm sư phạm được tiến hành trờn cỏc địa bàn khác nhau của tỉnh XE KONG (thị xã, thị trấn và cỏc vựng nụng thụn). Ngoài việc giảng dạy trực tiếp của tác giả đề tài, còn một số giáo viên dạy học Địa lý trong tỉnh, bao gồm cả các giáo viên dạy giỏi, các giáo viên đã có nhiều kinh nghiệm trong việc giảng dạy và cả một số giáo viên còn mới dạy được một số năm.
c.Phương pháp chuyên gia
Đề tài đó cú sự góp ý, tư vấn và cho ý kiến của nhiều chuyên gia, các Thầy, Cô giáo của khoa Địa lý – trương Đại học Sư phạm Hà Nội, những giáo viên giỏi nhiều kinh nghiệm ở các trường THPT trong tỉnh Xê KONG
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC
XÁC ĐỊNH KHÁI NIỆM
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Nhận thức về khái niệm và khái niệm địa lý
1- Nhận thức về khái niệm
a- Theo quan điểm triết học
Như chúng ta đều biết tri thức của tất cả cỏc môn khoa học đều cú cỏc khái niệm. Vậy khái niệm là gì? Theo nhận thức lý tính hoặc lụgớc - trừu tượng thì khái niệm là ý nghĩa phản ánh những thuộc tính cơ bản chung nhất của các sự vật, hiện tượng và quỏ trình trong thế giới hiện thực. Muốn biết được bản chất của các đối tượng và hiện tượng, các quy luật của tự nhiên và xã hội con người phải tiến hành hoạt động tư duy phức tạp như: so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoỏ, khỏi quỏt hoỏ. Chớnh trờn cơ sở của những thao tác lụgớc ấy mà khái niệm được hình thành.
Như Lờnin đã nói: “khỏi niệm là sản phẩm cao nhất của bộ bão, là sản phẩm cao nhất của vật chất”
(Lờnin toàn lập. Tập 29 NXBST trang 149 – [9])
“Khỏi niệm là hình thức của tư duy trong đó phản ánh các dấu hiệu cơ bản khác biệt của một sự vật đơn nhật hay lớp các sự vật đồng nhất. trong khái niệm, thứ nhất, bản chất của sự vật được phản ánh; thứ hai, sư vật hay lớp sự vật nổi bật trên cơ sở của các dấu hiệu cơ bản khác biệt” [7- trang 25, 26]
Như vậy tầm quan trọng của khái niệm thể hiện trước hết nó được hình thành thông qua tư duy của con người, hình thức tư duy này không chỉ là cơ bản mà còn là hình thức tư duy cao nhất. Cũng cần thấy rằng tư duy được thực hiện thông qua phán đoán, nhờ đó mà có quy luật được phát hiện thì rõ ràng các quan hệ cơ bản, các đặc tính bản chất của các hiện tượng và các sự vật của thế giới khách quan cũng được thể hiện trong đó. Vì vậy Lờnin cho rằng: Các khái niệm là “sự tổng kết cuối cùng của sự phát triển khoa học”. (M. M. Rozentan. Lụgớc biện chứng. NXBST, 1969, trang 239, 294 – [9]).
Nhà triết học nội tiếng, M. M. Rozentan đã định nghĩa về khái niệm như sau:
“Khỏi niệm là tổng kết, là khai quát những hiện tượng, những thuộc tính, những đặc điểm, những mối liên hệ có tính qui luật của chúng. Đó là những kết tinh đạt được trong quá trình phát triển của tri thức loài người trong sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn lớn lao mà loài người đó tớnh luỹ được. Nếu như có thể so sánh nhận thức với cơ thể sống thì khái niệm là những tế bào cấu tạo” cơ thể “của nhận thức. Không có sinh vật nào ở ngoài tế bào cấu tạo ra nó, nờn cũng không có nhận thức nếu không có khái niệm”.[25 – trang 148]
Như vậy có thể nói, hệ thống kiến thức là những khái niệm, muốn nắm kiến thức của môn khoa học nào đó ta phải nắm vững những khái niệm.
Tóm lại, khái niệm là cơ sở của hoạt động tư duy, là nguyên liệu cơ bản đề xây dựng quá trình nhận thức. Loài người luôn luôn khao khát nhận thứ không những các dấu hiệu bề ngoài của các sự vật, hiện tượng có thể trực tiếp tri giác mà còn muốn thõm nhập vào bản chất các sự vật, hiện tượng, muốn nắm được qui luật vận động phát triển của chúng để có thể hành động hợp lý. Quá trình nhận thức khoa học là sự phản ánh một cỏnh tớch cự, có mục đích thế giới khách quan vào ý thức con người mà kết quả là các khái niệm khoa học, các qui luật, các địch luật được hình thành. Lụgớc biện chứng xem khái niệm là hình thức tư duy phản ánh sự vận động phát triển của thực tại khách quan, khái niệm là sự kết tinh sự phát triển nhận thức của loài người. Khái niệm khoa học là sự tổng kết các tri thức của loài người về những dấu hiệu và thuộc tính chung và bản chất của sự vật, hiện tượng trong thực tại khách quan. Khái niệm có 3 thuộc tính:
- Tớnh chúng: Khái niệm là kết quả của quá trình nhận thức đi từ cái đơn nhất đến cái bổ biến, từ cỏi riờng đến cái chung bằng con đường khái quát hoá. Đơn nhất là nói tới những dấu hiệu, tuộc tính chỉ có ở một sự vật, hiện tượng xác định. phổ biến là nói tới những dấu hiệu, thuộc tính có ở nhiều sự vật, hiện tượng.
Sự tổng hoà các dấu hiệu, thuộc tính chúng của một nhóm sự vật, hiện tượng cùng loài tạo thành nội dung của khái niệm.
- Tính bản chất: Trong các dấu hiệu và thuộc tính chung người ta phân biệt một cách rõ ràng loại sự vật, hiện tượng khác. Cần lưu ý rằng cái bản chất bao giời cũng là cái chung, nhưng không phải cái chung nào cũng là cái bản chất.
- Tính phát triển: Khái niệm không chỉ là công cụ tư duy mà còn là kết quả của quá trình tư duy. khái niệm không chỉ là điểm xuất phát trong sự vận động của nhận thức mà còn là sự tổng kết của quá trình vận động đó. Nhận thức khoa học càng phát triển thỡ cỏc khái niệm khoa học có nội dung ngày càng đổi mới, càng tiếp cận với bản chất của sự vật, hiện tượng, do đó khái niệm được chỉ lý và đến mức nào đó thì phải sinh ra khái niệm mới.
b- Theo lụgớc học
Trong lụgớc hình thức thuật ngữ “khỏi niệm” có ý nghĩa:
- Một là, khái niệm là một hình thức tư duy. Giống như phán đoán, suy luận hay chứng minh … khái niệm tham gia vào quá trình nhận thức thế gới gọi là tư duy khái niệm.
- Hai là, khái niệm là tri thức về đối tượng, là kết quả nhận thức của con người về các sự vật, hiện tượng của thế giới. Nhờ có hệ thống khái niệm mà con người có thể ngày càng đi sâu nghiên cứu tìm hiểu thế giới.
Trong nghiên cứu khoa học mỗi khái niệm luôn gắn liền với một sự vật, hiện tượng cụ thể nào đó. Để tình hình khái niệm, người ta phải nghiên cứu phân tích đối tượng, tìm ra những dấu hiệu bản chất, đặc thù của đối tượng đề phân biệt được các đối tượng với nhau. Khi nắm vững bản chất của đối tượng cũng có nghĩa là ta đó cú khái niệm về đối tượng. Lúc này khái niệm trở thành sản phẩm của tư duy.
Khái niệm với tư cách là sản phẩm của tư duy, là kết quả của việc nắm vững những dấu hiệu cơ bản, đặc thù của đối tượng, khái niệm là hình ảnh khách quan về đối tượng. Với tư cách này khái niệm có cấu trúc lụgớc bao gồm hai bộ phận đó là: Nội hàm và ngoại diên.
- Nội hàm của khái niệm là tập hợp những dấu hiệu cơ bản đặc trưng của đối tượng, nói lên đối tượng đó là cái gì ?
- Ngoại diên của khái niệm là tập hợp các đối tượng chứa những dấu hiệu có trong nội hàm của khái niệm.
Nội hàm và ngoại diên có quan hệ ngược. Nội hàm rộng thì ngoại diên hẹp và ngược lại nội hàm hẹp thì ngoài diên rộng. Vì vậy mà ta có thể mở rộng hoặc thu hẹp khái niệm. Việc mở rộng hay thu hẹp khái niệm thực chất là mở rộng hay thu hẹp ngoại diên của khái niệm, được thực hiện bằng cách tước bỏ hay thêm vào nội hàm của khái niệm những dấu hiệu mới.
Khái niệm được mở rộng đến giới hạn cuối cùng trở thành các phạm trù. Phạm trù là khái niệm rộng nhất và khái quát nhất. Còn khái niệm hẹp nhất chính là khái niệm đơn.
Khái niệm có nhiều loại:
- Xét theo ngoại diên như trên ta có: Khái niệm đơn nhất, khái niệm chung.
- Xét theo nội hàm ta có: Khái niệm cụ thể và khái niệm trừu tượng. Khái niệm cụ thể là khái niệm nói về đối tượng hiện diện, cụ thể. Khái niệm trừu tượng là khái niệm khái quát, khái niệm nói về các phẩm chất, thuộc tính của đối tượng, cũn chớnh đối tượng bị lãng quên.
c- Khái niệm theo tâm lý học hiện đại
Mỗi môn học, tập trung trong nó một hệ thống các khái niệm khoa học, bao gồm khái niệm về sự vật, khái niệm về quan hệ (qui luật). Song theo quan điểm hiện đại thì cho rằng khái niệm có bản chất hoạt động, theo GS.TS. Hồ Ngọc Đại: P. Ja. Ganperin vào cuối những năm 40 đã được đầu nghiên cứu “cỏc bước hình thành hoạt động trí óc và khái niệm”, nhưng năm 1953 mới công bố lần đầu ở một hội nghị các nhà tâm lý học.[2]
Theo Lê Văn Hồng – Lê Ngọc La - Nguyễn Văn Thàng đã mô tả khái niệm theo thuyết hoạt động là:
Khái niệm là một năng lực thực tiễn kết tinh lại và “gửi” vào đối tượng. Như vậy, nguồn gốc xuất phát của khái niệm là ở sự vật, hiện tượng. Từ khi phát hiện ra nó thỡ khái niệm cú thờm một chỗ ở thứ hai là trong tâm lý, tinh thần của con người. Để tiện lưu trữ và trao đổi, người ta dùng ngôn ngữ “gọi gộm” nội dung khái niệm lại. Sự “goi gộm” này có thể bằng một từ để đặt tên cho nó (gọi là thuật ngữ), hoặc một câu (hay vai câu) (gọi là địch nghĩa). Khái niệm không phải là cái có thể nhìn thấy, đọc lên được. bất kỳ ai nguốn có một khái niệm nào thì phải thâm nhập vào đối tượng (bằng cách thực hiện một hành động với nó) để làm lộ ra lụgớc tồn tại của nó là “lấy lại” khái niệm là loài người đã “gữi gắm” vào đối tượng. Cách “lấy lại” đó không có cách nào khác là phải lập lại đúng chuỗi thao tác mà trước đấy loài người đã phải hiện ra. Với cách hiểu khái niệm dưới ánh sáng của lý thiết hoạt động như trên, quan niệm về khái niệm như trước đõylà “toàn bộ tri thức của loài người đã khái quát hoỏ cỏc dấu hiệu chung và bản chất một loại sự vật và hiện tượng nào đú” không hoàn toàn phù hợp. [16 – trang 120, 121,122]
2- Khái niệm địa lý
Khái niệm địa lý là sự phản ánh trong tư duy nhưng sự vật và hiện tượng địa lý bđó được trừu tượng hoá và khỏi quỏthoỏ, dựa vào các dấu hiệu bản chất sau khi đã tiến hành các thao tác tư duy (so sánh, phân tích, tổng hợp vv…).
Khái niệm địa lý cũng giống như tất cả các khái niệm khoa học khác, trước hết chính là kết quả của tư duy trừu tượng. Nó là đơn vị cơ sở của tri thức địa lý. Khái niệm địa lý có tính chất không gian hoặc có liên quan đến sự phân bố không gian. Đú chính là dấu hiệu phân biệt chúng với các khái niệm khoa học khác. Ví dụ: khái niệm “mựa hạ” chỉ là một hiệu tượng địa lý trừu tượng. Mùa hạ không thể nhìn thấy được, mà chỉ có thể cảm nhận được. Nó cũng không phải là mùa hạ của bất cứ một năm nào, nhưng lại có thuộc tính (dấu hiệu) giống tất cả các mùa hạ đã biết (thời điểm nhất định của vị trí Trái Đất trên quĩ đạo, thời tiết, khí hậu, độ cao của mặt trời…).
Hiện nay, các khái niệm địa lý được xếp vào 3 nhóm: Khái niệm địa lý chung, khái niệm địa lý riêng, khái niệm địa tập hợp.
- Các khái niệm địa lý chung là những khái niệm được hình thành để chỉ không phải những sự vật và hiện tượng địa lý đơn nhất mà toàn bộ một loại các sự vật và hiện tượng địa lý cùng loại có những thuộc tính giống nhau như: Sụng, nỳi, biển v v… Các khái niệm địa lý chung thường có nhiều trong các khoa học bộ phận của các hệ thống Khoa học địa lý như: Địa mạo, Địa chất, Thuỷ văn hcọ, Khí hậu học v v…
Trong môn địa lý, các khái niệm địa lý chung được đề cập đến nhiều nhất trong phần Địa lý đại cương.
- Các khái niệm địa lý riêng là những khái niệm chỉ những sự vật, hiện tượng Địa lý riêng biệt, cụ thể. Mỗi khái niệm địa lý riêng chỉ liên quan đến một đối tượng và phản ánh tính độc đáo của nó. Thí dụ như: Sông Hồng, thành phố Hà Nội v v…
Mỗi khái niệm địa lý riêng thường tương ứng với một địa danh nhất định. Ở một số trường hợp, ngay chính ý nghĩa của địa danh cũng đã phản ánh một tính chất riêng biệt nào đó của sự vật hay hiện tượng địa lý. Thí dụ: Khu Tây Bắc, miền Nam Bộ, Biển Chết, Hồ Thượng vv…
Các khái niệm địa lý riêng đều có quan hệ chặt chẽ với các khái niệm địa lý chung, bởi vì những khái niệm địa lý riêng, ngoài tính chất độc đáo của chúng, cũng có những thuộc tính chung của các đối tượng cùng loại. Thí dụ: khái niệm “thành phố Hồ Chí Minh” vừa có tính chất riêng là ngang tên Bắc Hồ, vừa có tính chất chung của các thành phố khác nhau: Có dân số tập trung, có nhiều cơ sở công nghiệp lớn vv… Ngược lại nhưng khái niệm địa lý chung, khi cụ thể hoỏ thờm với cỏc tớnh độc đáo của đối tượng, sẽ trợ thành các khái niệm riêng như: sông Đà, sông Hậu v v…
Trong môn địa lý, các khái niệm riêng được nói đến nhiều nhất trong các phần về Địa lý thế giới, Địa lý khu vực.
- Các khái niệm địa lý tập hợp là khái niệm địa lý trung gian giữa các khái niệm địa lý chung và khái niệm địa lý riêng. Thí dụ: “Sụng” là khái niệm địa lý chung, “sụng Hồng” là khái niệm địa lý riờng, cũn “sụng Châu Á, sụng Chõu Âu” .v.v…là những khái niệm địa lý tập hợp. Loại khái niệm địa lý này dùng nhiều trong các phần Địa lý khu vực. Ví dụ khỏc: Cỏc nước đang phát triển.
Chúng ta cũng cần phải thấy rằng cách phân loại như trên cũng chỉ có tính chất tương đối, Thí dụ: Như trên đã phân tích “sụng” là khái niệm chung “sụng Chõu Á” là khái niệm tập hợp, “sụng Việt Nam” là khái niệm riêng. Có thể thấy khi học về sông ngòi Việt Nam, thỡ “sụng ngũi Việt Nam” là khỏi niờm chung, “hệ thống sông Hồng, sụng Thỏi Bỡnh” là khái niệm tập hợp, “sụng Hồng” là khái niệm riêng.
Ngoài các phân loại trên, người ta có phân biệt ra: Khái niệm địa lý cụ thể và các khái niệm trừu tượng. Các khái niệm địa lý cụ thể bao gồm những khái niệm về các sự vật và hiện tượng địa lý có thể tri giác được bằng các giác quan như: Núi đá vôi, bờ sông, v.v…Cũn những khái niệm địa lý trừu tượng là những khái niệm về các sự vật và hiện tượng địa lý mà chúng ta không thể trực tiếp tri giác được bằng giác quan. Thí dụ: Sự phân bố dân cư, cơ cấu công nghiệp, đường đằng nhiệt v v…
1.1.2. Quan niệm về dạy học tích cực
Khái niệm về tích cực hoá
Tích cực hoá là một tập hợp các hoạt động nhằm làm chuyển biến vị trí của người học từ thụ động sang chủ động tiếp nhận tri thức sang chủ thể tìm kiếm tri thức để nâng cao hiệu quả học tập
Đặc trưng cơ bản của quy trình dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực cú cỏc đặc trưng cơ bản như sau:
- Người học, chủ thể của hoạt động, tự mình tìm ra kiến thức cùng với cách tìm ra kiến thức bằng hình động của chính mình.
- Người học tự thể hiện mình và hợp tác với bạn, học bạn.
- Nhà giáo – chuyên gia về việc học – là người tổ chức và hướng dẫn quá trình kết hợp cá nhân với xã hội hoá việc học của người học.
- Người học tự kiểm tra, tự đánh giá, tự điều chỉnh.
Những biểu hiện của tớnh tớch cực
Để giúp giáo viên phát hiện được các em có tích cực hay không, cần dựa vào một số dấu hiệu sau đây:
- Có hứng thú học tập không ?
- Có hăng hái tham gia vào một hình thức của hoạt động học tập không?
- Có hoàn thành nhiệm cụ được giao không?
- Có hiểu bài không?
- Có vận dụng được những kiến thức đã học vào thực tiễn không?
- Có quyết tâm, có ý chí vượt khó khăn trong học tập không?
- Có sáng tạo trong học tập không?
1.1.3. Phân cấp khái niệm (cơ sở để xây dựng hệ thống khái niệm)
Như chúng ta đã biết, trong chương trình Địa lý ở các trường phổ thông các tri thức địa lý được thể hiện ở hệ thống các khái niệm khá phức tạp. Mỗi bài học có một hay một số khái niệm. Vậy làm thế nào để xác định được hệ thống khái niệm này ? Vì rằng: “Việc giảng dảy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Xacdinhhethongkhainiemtr.doc