Đề tài Xác định danh mục đầu tư tại Công ty tài chính Bưu Điện

Thị trường chứng khoán là thị trường của lợi nhuận và rủi ro. Muốn tham gia vào cuộc chơi chứng khoán, bạn phải là người biết chấp nhận rủi ro. Khi tham gia vào thị trường, bạn luôn kì vọng đạt được lợi nhuận cao. Tuy nhiên, lợi nhuận luôn đi kèm với rủi ro. Đó là một nguyên lý không thể thay đổi được. Vì vậy, mỗi nhà đầu tư cần phải chuần bị mọi thông tin, kiến thức, vốn tư bản và khả năng chấp nhận rủi ro trong đầu tư.

Các nhà đầu tư tham gia vào thị trường đều mong muốn đạt được mức lợi nhuận kỳ vọng với một mức rủi ro nhất định. Để xác suất rủi ro xảy ra thấp nhất, nhà đầu tư phải áp dụng nguyên tắc đa dạng hóa. Đa dạng hoá được thể hiện thông qua danh mục đầu tư. Đa dạng hóa sẽ làm cho nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất. Khi nhà đầu tư thực hiện đa dạng hóa danh mục đầu tư, họ sẽ lập được một danh mục có mức lợi nhuận kỳ vọng mong muốn ở mức rủi ro mà nhà đầu tư có thể chấp nhận.

Trong quá trình tìm hiểu và thực tập tại Công ty Tài chính Bưu Điện, Em đã tìm hiểu các thông tin, kiến thức cũng như kinh nghiệm đầu tư của Phòng Đầu tư & Kinh doanh vốn, tìm hiểu quá trình đầu tư của Phòng đặc biệt là đầu tư chứng khoán. Sau khi tìm hiểu các thông tin vê đầu tư chứng khoán, em nhận thấy rằng danh mục đầu tư tại Công ty Tài chính Bưu điện chưa phải là danh mục tối ưu. Đó là lý do em chọn đề tài

“Xác định danh mục đầu tư tại Công ty tài chính Bưu điện”

Với các kiến thức về lý thuyết cũng như thực tiễn, em đã thực hiện bằng cách sử dụng các công cụ toán tài chính kết hợp các phân tích chỉ số tài chính của chứng khoán. Em tiến hành xây dựng lên hai danh mục tối ưu cho Công ty tài chính Bưu Điện. Danh mục thứ nhất được xây dựng trên cơ sở phân tích tài chính đối với các chứng khoán, lựa chọn các chứng khoán đáp ứng được yêu cầu tài chính của Công ty tài chính Bưu Điện. Danh mục thứ hai được xây dựng trên nguyên tắc lựa chọn các cổ phiếu có tỷ suất thu nhập trên thị giá E/P là phục hồi trung bình. Tuy nhiên do giới hạn về thời gian hoạt động của thị trường Việt Nam nên em tiến hành kiểm định tính phục hồi chuỗi thu nhập của của các công ty phát hành chứng khoán theo thời gian (theo quý). Khi các công ty này không có phát hành thêm cổ phiếu, thu nhập vẫn thể hiện được chính xác xu hướng của E/P. Vì vậy, danh mục thứ hai vẫn đáp ứng được mục tiêu đề ra.

 

doc112 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Xác định danh mục đầu tư tại Công ty tài chính Bưu Điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Thị trường chứng khoán là thị trường của lợi nhuận và rủi ro. Muốn tham gia vào cuộc chơi chứng khoán, bạn phải là người biết chấp nhận rủi ro. Khi tham gia vào thị trường, bạn luôn kì vọng đạt được lợi nhuận cao. Tuy nhiên, lợi nhuận luôn đi kèm với rủi ro. Đó là một nguyên lý không thể thay đổi được. Vì vậy, mỗi nhà đầu tư cần phải chuần bị mọi thông tin, kiến thức, vốn tư bản và khả năng chấp nhận rủi ro trong đầu tư. Các nhà đầu tư tham gia vào thị trường đều mong muốn đạt được mức lợi nhuận kỳ vọng với một mức rủi ro nhất định. Để xác suất rủi ro xảy ra thấp nhất, nhà đầu tư phải áp dụng nguyên tắc đa dạng hóa. Đa dạng hoá được thể hiện thông qua danh mục đầu tư. Đa dạng hóa sẽ làm cho nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất. Khi nhà đầu tư thực hiện đa dạng hóa danh mục đầu tư, họ sẽ lập được một danh mục có mức lợi nhuận kỳ vọng mong muốn ở mức rủi ro mà nhà đầu tư có thể chấp nhận. Trong quá trình tìm hiểu và thực tập tại Công ty Tài chính Bưu Điện, Em đã tìm hiểu các thông tin, kiến thức cũng như kinh nghiệm đầu tư của Phòng Đầu tư & Kinh doanh vốn, tìm hiểu quá trình đầu tư của Phòng đặc biệt là đầu tư chứng khoán. Sau khi tìm hiểu các thông tin vê đầu tư chứng khoán, em nhận thấy rằng danh mục đầu tư tại Công ty Tài chính Bưu điện chưa phải là danh mục tối ưu. Đó là lý do em chọn đề tài “Xác định danh mục đầu tư tại Công ty tài chính Bưu điện” Với các kiến thức về lý thuyết cũng như thực tiễn, em đã thực hiện bằng cách sử dụng các công cụ toán tài chính kết hợp các phân tích chỉ số tài chính của chứng khoán. Em tiến hành xây dựng lên hai danh mục tối ưu cho Công ty tài chính Bưu Điện. Danh mục thứ nhất được xây dựng trên cơ sở phân tích tài chính đối với các chứng khoán, lựa chọn các chứng khoán đáp ứng được yêu cầu tài chính của Công ty tài chính Bưu Điện. Danh mục thứ hai được xây dựng trên nguyên tắc lựa chọn các cổ phiếu có tỷ suất thu nhập trên thị giá E/P là phục hồi trung bình. Tuy nhiên do giới hạn về thời gian hoạt động của thị trường Việt Nam nên em tiến hành kiểm định tính phục hồi chuỗi thu nhập của của các công ty phát hành chứng khoán theo thời gian (theo quý). Khi các công ty này không có phát hành thêm cổ phiếu, thu nhập vẫn thể hiện được chính xác xu hướng của E/P. Vì vậy, danh mục thứ hai vẫn đáp ứng được mục tiêu đề ra. Trên cơ sở đó, luận văn được xây dựng gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về đầu tư chứng khoán và danh mục đầu tư chứng khoán. Chương này bao gồm các kiến thức tổng quan về chứng khoán, thị trường chứng khoán cũng như các kiến thức về đầu tư chứng khoán. Chương 2: Hoạt động đầu tư chứng khoán tại Công ty tài chính Bưu điện. Chương này bao gồm các quy định về đầu tư nói chung, đầu tư chứng khoán nói riêng, cũng như thực trạng đầu tư chứng khoán tại Công ty. Chương 3: Xây dựng danh mục đầu tư chứng khoán tại Công ty tài chính Bưu Điện. Chương này thể hiện những kiến thức phân tích và xây dựng một danh mục đầu tư. Tiếp đó, em thực hiện xây dựng hai danh mục đầu tư với hai mục tiêu khác nhau. Kết quả tạo một danh mục tối ưu cho công ty tài chính Bưu Điện. Trong quá trình thực tập tại Công ty Tài chính Bưu điện. Nhờ sự giúp đỡ của các anh chị cô chú trong Công ty, đặc biệt là sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị trong Phòng Đầu tư & Kinh doanh vốn, em đã tìm hiểu được nhiều kiến thức ngoài thực tế cũng như các kinh nghiệm đầu tư của Công ty. Vì vậy, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị, cô chú trong Công ty đã giúp đỡ em trong thời gian thực tập vừa qua. Qua quá trình thực tập, em đã tiếp thu được các kiến thức thực tế để làm cơ sở hoàn thành luận văn này. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN VÀ DANH MỤC ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN I . TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1. Thị trường chứng khoán 1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán TTCK trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở thị trường sơ cấp. Hiện nay, tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về TTCK, tuy nhiên quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp nhất hiện nay là: TTCK là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán. Chứng khoán được hiểu là giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, cho phép chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành hoặc quyền sở hữu. Các quan hệ mua bán trao đổi trên thị trường làm thay đổi chủ sở hữu của chứng khoán. Vì vậy, thực chất đây là quá trình vận động của tư bản từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. TTCK không giống với thị trường hàng hoá, hàng hoá trên TTCK là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị sử dụng. Do đó, TTCK thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư, cung và cầu xác định giá mà ở đó giá chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn vay hay giá cả của vốn đầu tư. Do đó, TTCK là hình thức phát triển cao của nền sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của TTCK là tất yếu khách quan. Hoạt động trên TTCK có tác động, hiệu ứng trực tiếp tới hiệu quả đầu tư của các cá nhân, của các doanh nghiệp và hành vi của người tiêu dùng, và tới động thái chung của toàn bộ nền kinh tế. Đứng trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình TTCK trên thế giới, Việt Nam đã quyết định thành lập thị trường chứng khoán với đặc thù riêng. Sự ra đời của TTCK Việt Nam được đánh dấu bằng sự thành lập của Trung tâm Giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chính Minh (HoSTC) ngày 20/07/2000. Đến ngày 08/03/2005 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội ra đời (HaSTC) đánh dấu sự phát triển nhanh chóng của TTCK Việt Nam. Đến nay, sau gần 7 năm thành lập, TTCK Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn đầu phát triển, quy mô và chất lượng còn nhiều hạn chế. Do đó thị trường vẫn chịu sự quản lý chặt chẽ của Chính phủ. Quy mô của thị trường đang lớn dần, tính đến ngày 30/3/2007 trên thị trường đã có 108 cổ phiếu được niêm yết trên HoSTC và 87 cổ phiếu được đăng ký giao dịch trên sàn HaSTC. Hình thức giao dịch trên sàn HoSTC là hình thức khớp lệnh định kỳ. Chỉ có một giá thực hiện trên thị trường. Trong khi hình thức khớp lệnh trên sàn HaSTC là hình thức khớp lệnh liên tục, có nhiều mức giá thực hiện. Biên độ giao động giá trên hai trung tâm dao dịch cũng khác nhau, tại HoSTC là 5% và trên HaSTC là 10%. Tính đến thời điểm 30/03/2007, chỉ số VNINDEX đang giảm. Đây cũng là xu thế chung của thị trường khi các công ty niêm yết đang tiến hành công bố các báo cáo tài chính. Giá cổ phiếu phục hồi lại giá trị thực của nó. Như vậy, xét về mặt hình thức, TTCK là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. 1.2. Chức năng cơ bản của TTCK - Huy động vốn và dẫn vốn từ nơi thừa vốn tới nơi thiếu vốn. - Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng. - Xác định giá cả của các tài sản tài chính. - Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán. - Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp khuyến khích cạnh tranh và tăng tính hiệu quả kinh doanh. - Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô. 1.3. Các chủ thể tham gia TTCK Các tổ chức và cá nhân tham gia TTCK có thể được chia thành các nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán. Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán - hàng hoá của TTCK. - Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu Chính phủ và trái phiếu địa phương. - Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty. - Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái phiếu, chứng chỉ thụ hưởng... phục vụ cho hoạt động của họ. Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức. - Các nhà đầu tư cá nhân. - Các nhà đầu tư có tổ chức. Các tổ chức kinh doanh trên TTCK bao gồm - Công ty chứng khoán. - Quỹ đầu tư chứng khoán. -  Các trung gian tài chính. Các tổ chức có liên quan đến TTCK bao gồm - Cơ quan quản lý Nhà nước. - Sở giao dịch chứng khoán. - Hiệp hội các nhà TTCK. - Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán. - Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán. - Các tổ chức tài trợ chứng khoán. - Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm... 1.4. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của TTCK TTCK hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản sau: - Tôn trọng quyền tự do mua, bán, kinh doanh và dịch vụ chứng khoán của các tổ chức cá nhân. - Công bằng, công khai, minh bạch. - Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. - Tự chịu trách nhiệm về rủi ro. - Tuân thủ quy định của pháp luật. 1.5. Cấu trúc và phân loại cơ bản của TTCK Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm tài chính (cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay ngân hàng... có kỳ hạn trên 1 năm). Sau đây là một số cách phân loại TTCK cơ bản: Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn, TTCK được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường, TTCK được phân thành thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) và phi tập trung (thị trường OTC). Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường, TTCK cũng có thể được phân thành các thị trường: thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh. Thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi. Thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ. Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn... 2. Các tài sản tài chính trên TTCK Là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây: - Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ. - Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán. Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành.Việc nắm giữ cổ phần hay sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông. Cổ phiếu là giấy chứng nhận về việc sở hữu cổ phần và được cấp cho cổ đông. - Cổ phiếu là tài sản có tác dụng giảm biến động lợi tức của danh mục cao nhất do độ dao động của tài sản này không trùng khớp với chu kỳ hay thời gian với các loại tài sản khác. - Cổ phiếu là loại tài sản được đầu tư phổ biến trên thị trường nhưng thu nhập có độ biến động cao. Đây là loại tài sản có rủi ro cao. - Lợi ích của đầu tư cổ phiếu thông thường bao gồm: tính thanh khoản cao của cổ phiếu, nguồn tăng trưởng dài hạn, lợi ích về thuế. Rủi ro của nhà đầu tư trong đầu tư cổ phiếu bao gồm: cổ tức không ổn định, rủi ro phá sản công ty phát hành, rủi ro về ngoại hối … Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành. -Trái phiếu là tài sản quan trọng thứ hai sau cổ phiếu trong việc xác định danh mục đầu tư. Đầu tư trong trái phiếu là loại đầu tư có tỷ lệ rủi ro thấp. Rủi ro trong đầu tư trái phiếu bao gồm rủi ro về lãi suất, kỳ hạn của trái phiếu, rủi ro ngoại hối, rủi ro tín dụng… Trái phiếu bao gồm: trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty, trái phiếu đảm bảo và trái phiếu không đảm bảo. Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng. Quyền mua cổ phần là loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành kèm theo đợt phát hành cổ phiếu bổ sung nhằm bảo đảm cho cổ đông hiện hữu quyền mua cổ phiếu mới theo những điều kiện đã được xác định. Chứng quyền là loại chứng khoán được phát hành cùng với việc phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người sở hữu chứng khoán được quyền mua một số cổ phiếu phổ thông nhất định theo mức giá đã được xác định trước trong thời kỳ nhất định. Quyền chọn mua, quyền chọn bán là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người mua lựa chọn quyền mua hoặc quyền bán một số lượng chứng khoán được xác định trước trong khoảng thời gian nhất định với mức giá được xác định trước. Hợp đồng tương lai là cam kết mua hoặc bán các loại chứng khoán, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán nhất định với một số lượng và mức giá nhất định vào ngày xác định trước trong tương lai. 3. Đầu tư chứng khoán với danh mục đầu tư 3.1. Khái niệm danh mục đầu tư Danh mục đầu tư chứng khoán là các khoản đầu tư của một cá nhân hoặc tổ chức vào việc nắm giữ một hoặc nhiều loại cổ phiếu, trái phiếu, hàng hóa, đầu tư bất động sản, tài sản tương đương tiền hoặc các tài sản khác. Mục đích của việc đầu tư là giảm thiểu rủi ro bằng việc đa dạng hóa danh mục đầu tư. Trên cơ sở các tài sản đầu tư, nhà đầu tư lập một danh mục đầu tư bao gồm các tài sản khác nhau. Nguyên tắc là “không bỏ trứng vào một giỏ”, các nhà đầu tư tạo ra một danh mục có rủi ro thấp nhất - rủi ro của thị trường (rủi ro hệ thống). Khi đó, nhà đầu tư vẫn đạt được ở tại mức lợi nhuận kỳ vọng. 3.2. Đặc điểm của danh mục đầu tư chứng khoán Thực chất, danh mục đầu tư là một tổ hợp các tài sản khác nhau trong hoạt động đầu tư của nhà đầu tư. Trong danh mục đầu tư, các tài sản đầu tư biểu hiện sự phân bổ các tài sản đầu tư có trong danh mục. Việc phân bổ tài sản là việc lựa chọn các tài sản đầu tư nhằm đạt được mức lợi nhuận dài hạn cao nhất với một mức rủi ro thấp nhất. Trong quá trình đầu tư, nhà đầu tư có thể thay đổi các tỷ lệ nhằm tận dụng cơ hội xuất hiện tại thời điểm đó nhằm đạt được mức lợi nhuận cao hơn. Khi nhà đầu tư nhận thấy triển vọng về một tài sản tốt, họ có thể điều chỉnh danh mục đầu tư bằng cách giảm tỷ trọng vào các tài sản không có triển vọng và tăng đầu tư vào các tài sản có triển vọng tốt hơn. Danh mục đầu tư phụ thuộc vào các yếu tố như trình độ của các nhà đầu tư, tâm lý của từng nhà đầu tư, mức thuế suất của từng đối tượng nhà đầu tư, tính chất của từng nhà đầu tư, lứa tuổi của nhà đầu tư… Trên thực tế, các nhà đầu tư có trình độ khác nhau, có mức chấp nhận thua lỗ khác nhau và tâm lý khác nhau. Vì vậy, các danh mục đầu tư của các nhà đầu tư khác nhau là khác nhau. Các nhà đầu tư xác định đầu tư phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như: tình hình tài chính của nhà đầu tư, thông tin của các tài sản đầu tư, xu thế chung của thị trường, mức chấp nhận rủi ro của chính nhà đầu tư đó… Rủi ro của các danh mục đầu tư phụ thuộc vào từng nhà đầu tư. Tương ứng với mức chấp nhận rủi ro khác nhau, lợi suất kỳ vọng danh mục của từng nhà đầu tư cũng khác nhau. Các nhà đầu tư ưa thích rủi ro chấp nhận một mức rủi ro cao nhưng lợi nhuận kỳ vọng cao. Ngược lại, các nhà đầu tư e ngại rủi ro có mức chấp rủi ro thấp tương ứng với lợi nhuận kỳ vọng thấp hơn. Các nhà đầu tư ưa thích rủi ro thường đầu tư vào các tài sản có rủi ro cao như cổ phiếu. Các nhà đầu tư e ngại rủi ro thường danh mục sẽ có tỷ trọng các tài sản ít rủi ro cao hơn. Các nhà đầu tư khác nhau có mức thuế cũng khác nhau. Các nhà đầu tư có mức thuế cao thường không mong muốn trong danh mục của mình có những chứng khoán giống với các nhà đầu tư có mức thuế thấp. Tính chất của các nhà đầu tư khác nhau nên danh mục đầu tư khác nhau. Đó là danh mục đầu tư cá nhân hay nhà đầu tư có tổ chức. Ví dụ, các nhà đầu trên thị trường thường tính đến đầu tư với lợi nhuận là hưởng chênh chênh lệch giá (lãi vốn), ít để ý tới mức cổ tức nhận được từ tổ chức phát hành. Với tư cách là một nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư có tổ chức rất quan tâm tới mức cổ tức được trả, chiến lược phát triển của các tổ chức phát hành trong dài hạn... Mặt khác, các nhà đầu tư ở các lứa tuổi khác nhau, danh mục đầu tư cũng khác nhau. Các nhà đầu tư trẻ tuổi thường hay đầu tư vào các tài sản có thời gian đáo hạn dài. Các nhà đầu tư lớn tuổi thường hay đầu tư vào các tài sản có thời gian đáo hạn ngắn. 3.3. Hoạt động đầu tư chứng khoán bằng cách xác định danh mục đầu tư 3.3.1. Xác định tài sản đầu tư Để nhà đầu tư tìm ra được các loại chứng khoán một các có hiệu quả nhất (tức là mang lại lợi nhuận và sự an toàn về vốn cho nhà đầu tư), họ xác định các thông tin khi đưa ra quyết định đầu tư như: mục đích đầu tư, lựa chọn chứng khoán đầu tư, thời điểm thuận lợi đầu tư, thời điểm rút khỏi thị trường... Tuy nhiên trong lĩnh vực đầu tư hấp dẫn này, dường như không có chỗ cho những quyết định cảm tính. Muốn thành công, nhà đầu tư phải có kỹ năng phán đoán, xem xét và phân tích về chứng khoán. Tuỳ thuộc vào quan điểm của nhà đầu tư, việc lựa chọn chứng khoán và phân tích chứng khoán cũng có khác nhau. Thông qua tình hình chung của toàn bộ thị trường, nhà đầu tư chuyên nghiệp có thể tìm ra được những cổ phiếu “tốt” trên thị trường. Tuy nhiên việc lựa chọn được cổ phiếu tốt không phải nhà đầu tư nào cũng làm được. Do đó, một nhà đầu tư chuyên nghiệp phải thực hiện quá trình phân tích các chứng khoán để có thể thực hiện đầu tư một cách tốt nhất. Điều quan trọng đầu tiên, nhà đầu tư phải xác định được lượng vốn đầu tư vào chứng khoán. Câu trả lời phụ thuộc vào khả năng tài chính của nhà đầu tư, họ cần xác định được lượng vốn có thể đầu tư vào tài sản ngắn hạn, lượng vốn để đầu tư vào tài sản dài hạn. Đối với tổ chức đầu tư, việc xác định được khả năng tài chính lại càng quan trọng. Cùng với đó, nhà đầu tư cần xác định mục đích đầu tư và mức độ rủi ro của đầu tư có thể chấp nhận. Cũng như trong các lĩnh vực đầu tư khác, đầu tư chứng khoán luôn tồn tại mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa lợi nhuận và rủi ro. Thu nhập càng cao, mức rủi ro tiềm ẩn càng cao. Các nhà đầu tư thường kì vọng vào hai loại thu nhập là thu nhập từ cổ tức và thu nhập từ lãi vốn. Thu nhập từ cổ tức phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của doanh nghiệp của công ty và quyết định của hội đồng quản trị. Khi nhà đầu tư kỳ vọng về tình hình phát triển của công ty, họ sẽ mua cổ phiếu với hy vọng giá của cổ phiếu sẽ tăng trong tương lai. Khác với nhà đầu tư cá nhân trên thị trường, nhà đầu tư tổ chức đầu tư với tư cách là một nhà đầu tư chiến lược. Họ quan tâm tới tình hình kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ và tương lai thông qua các dự án dự định thực hiện trong tương lai của công ty. Từ đó, thu nhập từ cổ tức sẽ cao. Khi này các nhà đầu tư có tổ chức quan tâm tới các công ty kinh doanh trong các lĩnh vực như điện lực, viễn thông, dầu khí… hoặc các cổ phiếu thượng hạng. Để lựa chọn được cổ phiếu thích hợp, nhà đầu tư cần quan tâm tới tất cả các thông tin liên quan tới cổ phiếu đầu tư. Các thông tin này bao gồm các thông tin quá khứ và đặc điểm của công ty, tình hình tài chính, các chi tiết của đợt phát hành và tổ chức bảo lãnh phát hành. Nhà đầu tư có thể tìm được các thông tin này trong bản cáo bạch, thông cáo phát hành của tổ chức phát hành. Các quyết định về lựa chọn đầu tư khi các nhà đầu tư có đủ cơ sở thông tin về khoản đầu tư của mình. 3.3.2. Phân tích tài sản đầu tư 3.3.2.1. Phân tích vĩ mô chứng khoán Phân tích tình hình kinh tế chính trị xã hội quốc tế có ảnh hưởng mạnh mẽ tới sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của quốc gia, ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của TTCK. Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, yếu tố quốc tế cần được xem xét trong quá trình đầu tư chứng khoán. Các yếu tố có thể tác động tới quá trình phân tích chứng khoán là mức tăng trưởng kinh tế, các vấn đề chính trị nhạy cảm, chính sách bảo hộ, chính sách tự do hoá tài chính tiền tệ… Môi trường chính trị xã hội trong nước có ảnh hưởng rất lớn tới TTCK. Các yếu tố chính trị bao gồm những thay đổi về về chính phủ, các hoạt động chính trị kinh tế nhiều nước. Thay đổi chính trị làm cho nhiều quy định và sự kiểm soát của chính phủ trong một số ngành được thắt chặt trong khi một số ngành lại được nới lỏng, tác động tới kết quả kinh doanh của mỗi ngành, mỗi công ty, rất khó có thể khẳng định việc thắt chặt hay nới lỏng này có tác động tích cực hay tiêu cực tới nền kinh tế. Môi trường pháp luật cũng là yếu tố cơ bản gây tác động tới thị trường chứng khoán. Các cơ quan chính phủ tác động tới luật và các văn bản duới luật. Thí dụ luật chống độc quyền thường tác động làm giảm giá chứng khoán của các công ty bị thuộc đối tượng bị luật điều chỉnh. Chính sách tài chính tiền tệ trực tiếp gây ra tác động lớn tới thị trường… Do vậy, việc xem xét môi trường pháp lý cần được xem xét theo các góc độ như: tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính khả thi của hệ thống pháp luật, tính hiệu quả của hệ thống pháp luật, tính quốc tế của hệ thống pháp luật… Trong phân tích chứng khoán các điều kiện kinh tế vĩ mô sẽ quyết định rủi ro chung của thị trường tức là rủi ro hệ thống của chứng khoán. Rủi ro này tác động tới toàn bộ thị trường, đến tất cả các chứng khoán. Đối với nhà đầu tư hay tổ chức phát hành, đây là điều kiện khách quan. Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cần quan tâm tới trong phân tích chứng khoán là các chỉ tiêu như: tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát, lãi suất, tỷ giá, mức thâm hụt ngân sách quốc gia, chính sách của chính phủ trong các lĩnh vực tài chính tiền tệ… Môi trường kinh tế vĩ mô có tác động tới toàn bộ xu thế chung của toàn bộ TTCK. Thông thường, khi nền kinh tế đang ở trong giai đoạn tăng trưởng và thịnh vượng, TTCK phát triển. Ngược lại, khi nền kinh tế trong giai đoạn suy thoái, TTCK sẽ đi xuống. Như vậy, nếu dự đoán được xu thế phát triển của nền kinh tế, ta có thể dự báo được xu thế phát triển chung của TTCK. Tuy nhiên, qua khảo sát thực tế cho thấy, quan hệ giữa tình hình kinh tế với diễn biến chung của TTCK không phải lúc nào cũng diễn ra cùng chiều. Nếu có, chúng có thể xảy ra theo chiều hướng và trật tự khác nhau. Thực tế, TTCK thế giới cho thấy có những giai đoạn nền kinh tế phát triển rất mạnh nhưng TTCK lại đi xuống và ngược lại. Biến động của nền kinh tế xảy ra sau đôi khi xảy ra trước. Vì vậy, các nhà đầu tư luôn cố gắng dự đoán tình hình kinh tế để tìm ra những đỉnh điểm của chu kỳ kinh tế và chọn thời cơ tham gia hoặc rút lui khỏi thị trường. 3.3.2.2. Phân tích ngành Trong quá trình phân tích chứng khoán, phân tích ngành đóng vai trò quan trọng như phân tích vĩ mô. Phân tích ngành gồm các yếu tố như: phân tích chu kỳ sống của ngành, chu kỳ kinh doanh của ngành, hệ số rủi ro của ngành, mức sinh lời kì vọng, các hệ số tài chính của ngành… Trong phân tích ngành, cần xác định hệ số rủi ro β của ngành, từ đó tính toán mức sinh lời yêu cầu theo mô hình CAPM. Đồng thời, phân tích chỉ số P/E của toàn ngành: Xem xét mối quan hệ của P/E ngành với P/E của toàn bộ thị trường. Xem xét các nhân tố của cơ bản của ngành gây tác động trực tiếp tới P/E ngành như hệ số trả cổ tức, mức sinh lời yêu cầu và tỷ lệ tăng trưởng cổ tức. Ước tính thu nhập trên cổ phiếu EPS hay E (thu nhập) được thực hiện theo một phương pháp tính như phân tích chu kỳ kinh doanh, phân tích đầu vào, đầu ra, phân tích mối quan hệ giữa ngành và nền kinh tế tổng thể. Tính giá trị cuối kỳ của chỉ số ngành bằng các hệ số P/E cuối kỳ tính toán được với ước tính thu nhập đầu cổ phiếu. Sau đó so sánh giá trị chỉ số cuối kỳ với giá trị đầu kỳ để tính lợi suất. Từ đó, nhà đầu tư tiến hành so sánh lợi suất đạt được với lợi suất yêu cầu để quyết định đầu tư. 3.3.2.3. Phân tích giá trị công ty Phân tích công ty bao gồm việc phân tích báo cáo tài chính của công ty và phân tích rủi ro của công ty. Trong phân tích báo cáo tài chính của công ty, nhân tố quan trọng đối với nhà đầu tư là phân tích khả năng sinh lợi của tổ chức phát hành, khả năng thanh toán dài hạn, khả năng thanh khoản và tiềm năng phát triển trong tương lai. Việc phân tích báo cáo tài chính cần tiến hành đồng bộ theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân tích báo cáo tài chính theo chiều dọc nghĩa là tính toán các tỷ lệ của doanh nghiệp và so sánh trong từng thời kỳ để thấy được thực chất của việc tăng giảm. Phân tích theo chiều ngang là phân tích cần có sự so sánh giữa doanh nghiệp phân tích với các doanh nghiệp ngang bằng trong cùng một ngành. Phương tiện dùng để phân tích báo cáo tài chính của công ty bao gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, báo cáo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc453.doc
Tài liệu liên quan