- Nâng cao khả năng áp dụng những chương trình đã được thầy cô cung cấp trên ghế nhà trường vào thực tế.
- Giúp sinh viên làm quen với công việc trước khi ra trường.
- Biết thông tin về các điểm đến.
- Hình thành các kĩ năng cần thiết cho công việc thực hiện một chương trình du lịch, cũng như một số kĩ năng làm việc chung khác.
- Tìm hiểu thêm về văn hóa của Hà Nội với lịch sử ngàn năm dựng nước và giữ nước, bề dày của các thành tựu nghệ thuật từ xa xưa.
- Viết báo cáo chuyến đi.
46 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1143 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Văn Hoá Hà Nội City Tour, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Văn Hoá Hà Nội City Tour
Mục lục
I. Lý do, mục đích chọn đề tài…….……………………....................2
II. Chi tiết Tour………………………………………….....................2
1. Giá cả……………………………………………………………. .....................2
2. Thành phần……………………………………………………….....................2
3. Chuẩn bị trước chuyến đi………………………………………..................... 2
4. Đón tiếp khách…………………………………………………....................... 2
5. Lịch trình chi tiết chuyến tham quan…………………………...................... 3
III. KẾT LUẬN………………………………………………................. 46
Tài Liệu tham khảo:
Chương trình City Tour của công ty HaNoi Tourism.
Trang web : vi.wikipedia.org( tham khảo thêm về các địa danh).
Các tài liệu có liên quan khác.
Tuyến điểm : “Khách sạn Horizon - Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam - Văn Miếu-Quốc tử giám - Khách sạn Horizon”
I. Lý do, mục đích chọn đề tài
- Nâng cao khả năng áp dụng những chương trình đã được thầy cô cung cấp trên ghế nhà trường vào thực tế.
- Giúp sinh viên làm quen với công việc trước khi ra trường.
- Biết thông tin về các điểm đến.
- Hình thành các kĩ năng cần thiết cho công việc thực hiện một chương trình du lịch, cũng như một số kĩ năng làm việc chung khác.
- Tìm hiểu thêm về văn hóa của Hà Nội với lịch sử ngàn năm dựng nước và giữ nước, bề dày của các thành tựu nghệ thuật từ xa xưa.
- Viết báo cáo chuyến đi.
II. Chi tiết Tour
1. Giá cả
Giá trọn gói : 210USD/ khách
Bao gồm:
Khách sạn Hà Nội Horizon ( 180USD/ 1 người)
Xe đưa đón( từ sân bay về khách sạn và ra sân bay sau khi kết thúc tour), Hướng dẫn viên, Vé tham quan ( 30USD/1 người ).
( Thu toàn bộ số tiền của khách trước khi bắt đầu city tour ).
2. Thành phần
Đoàn khách gồm 7 người khách.
3. Chuẩn bị trước chuyến đi
- Gọi điện và fax số lượng khách tới khách sạn đặt phòng.
- Đặt vé trước tại các tuyến điểm tham quan.
4. Đón tiếp khách
Sau khi khách đặt chân xuống sân bay, tổ chức đón tiếp và đưa khách về khách sạn check-in khách sạn.
Hẹn khách sẽ bắt đầu chuyến tham quan vào sang ngày mai nên mọi người cần nghỉ ngơi sớm.
5. Lịch trình chi tiết chuyến tham quan :
“Khách sạn Horizon - Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam - Văn Miếu-Quốc tử giám - Khách sạn Horizon”
7h00: Quý khách dùng bữa sáng tại khách sạn Horizon
7h40: Xe đón quý khách tham gia chương trình city tour “ Văn Hoá Hà Nội ”
8h00: Đến Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, điểm dừng chân đầu tiên trong chuyến tham quan. Tại đây quý khách sẽ có dịp chiêm ngưỡng những tác phẩm nghệ thuật độc đáo và rất có giá trị, đồng thời quý khách sẽ có cái nhìn đầy đủ về sự phát triển và những thành tựu của nền mỹ thuật Việt Nam từ thời tiền sử cho đến nay…
10h: Xin mời quý khách tản bộ sang tham quan Văn Miếu – Quốc tử giám, điểm dừng chân tiếp theo của hành trình. Văn Miếu – Quốc tử giám không chỉ là ngôi miếu thờ đức Khổng Tử, mà nơi đây còn được coi là trường đại học đầu tiên của Việt Nam. Đến nơi đây, quý khách sẽ cảm nhận nét đẹp truyền thống văn hóa của nền giáo dục và khoa cử Việt Nam…
11h30: Xe đón quý khách trở về khách sạn trở về khách sạn, kết thúc chuyến tham quan.
Chúc Quý khách có một chuyến tham quan thú vị và ấn tượng
Sơ đồ tuyến:
Xin kính chào quý khách! Chào mừng quý khách đến với đất nước Việt Nam xinh đẹp, thân thiện và mến khách của chúng hướng dẫn viên.
Hướng dẫn viên xin tự giới thiệu, hướng dẫn viên tên là Nguyễn Tiến Thành, hiện đang công tác tại cty Hanoi Tourism, rất hân hạnh được đồng hành cùng quí khách trong chương trình city tour “ Văn Hoá Hà Nội”. Và xin giới thiệu người dẫn đường tận tụy của chúng ta, anh Đức lái xe. Chúc quý khách có một buổi sáng tốt lành, một chuyến đi ấn tượng và khám phá được nhiều điều thú vị.
Kính thưa quý khách, Thủ đô luôn là trái tim của một quốc gia, trải qua hàng ngàn năm lịch sử với bao thăng trầm và biến cố, bao sự đấu tranh, hi sinh và mất mát, bao giọt nước mắt tiếc thương cho những người con ra đi vì mảnh đất thiêng, vì nhiệm vụ thiêng liêng của tổ quốc và còn có cả những giọt nước mắt tràn trề hạnh phúc khi thủ đô hoàn toàn giải phóng.... Và rất rất nhiều những nụ cười, những niềm phấn khích khi cùng với cả nước, người dân Cổ Loa, Đại La, Đông Đô, Thăng Long, Hà Nội trong suốt quá trình lịch sử hình thành và phát triển đã đóng góp bao công sức dựng xây nên một Đất nước với bao áng thiên hùng ca bất hủ, một Đất nước anh hùng với trái tim luôn đỏ rực lồng ngực.
Và chúng ta hãy ngược thời gian trở về với quá khứ để hiểu rõ hơn về Thủ đô, việc mà trong cuộc sống hiện đại ngày nay hình như chúng ta đã không chăm chút nhiều lằm vốn kiến thức cho mình.
Trong thế kỷ thứ 3, vào khoảng năm 208 trước công nguyên An Dương Vương từ nước Thục cướp ngôi vua Hùng Vương thứ 18 lập nên nước Âu Lạc, đóng đô tại Cổ Loa , ngày nay thuộc ngoại thành Hà Nội. (thế kỷ thứ 5 thời Bắc thuộc đây là trung tâm quận Tống Bình).
Thành đắp theo hình trôn ốc nên mới gọi là thành Ốc hay Loa thành. Nhưng không lâu sau đó tướng nhà Tần là Triệu Đà đem quân sang xâm chiếm nước ta, chính thức bắt đầu 1000 năm Bắc thuộc.
Thế kỉ thứ 6, Lý Bí (Lý Nam Đế 544-548) nổi lên chống chế độ đô hộ phương Bắc, xây thành ở cửa sông Tô Lịch, dựng chùa Khai Quốc (ngôi chùa này về sau dời về Hồ Tây và đổi tên là Trấn Quốc) Đến đời Đường (Trung Quốc) thành Tống Bình được đổi tên là Đại La trung tâm An nam đô hội phủ.
Năm 983, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, dành lại độc lập, đặt kinh đô ở Cổ Loa, chấm dứt thời kỳ Bắc thuộc bằng trận đánh lịch sử trên sông Bạch Đằng. Dến thời nhà Đinh và nhà tiền Lê kinh đô được ròi về Hoa Lư, Ninh Bình.
Năm 1010, Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Thấy rồng vàng bay lên vua đặt tên thành là Thăng Long. Văn Miếu, chùa Một Cột, chùa Hòe Nhai được xây dựng từ đời Lý. Dưới thời nhà Lý, ngoài những đợt xây dựng quy mô lớn vào các năm 1011, 1029, 1203 Hoàng thành thường xuyên được tu sửa, xây mới hầu như đời vua nào cũng làm, năm nào cũng làm.
Đời Trần, Thăng Long bị quân Nguyên đánh 3 lần nhưng đều toàn thắng. Cuối thời Trần, Thăng Long đã được sử sách chép với cái tên “Kẻ chợ”. Điều đó cho thấy diện mạo của Thăng Long đương thời đã phần nào mang dáng dấp của một thành phố quốc tế: một thành phố nhân ái, là nơi giao lưu và hội tụ của nhiều yếu tố kinh tế, văn hoá và con người; một thành phố thủ công và buôn bán nhỏ của ngời Việt nhưng cũng có các cửa hàng buôn bán lớn của người Hoa, Hồi Hột, Chà Và...
Kinh thành Thăng Long thời Lê vẫn là kinh thành Thăng Long thời Lý, Trần… những công trình cũ đã hư hại thì được sửa chữa lại, công trình nào bị phá hủy thì được xây mới, tất cả đều mang đặc điểm, phong cách kiến trúc, mỹ thuật thời Lê.
Đời Hồ, Thăng Long đổi tên thành Đông Đô để phân biệt với một Tây Đô mới ở Thanh Hóa.
Quân Minh chiếm nước ta, đổi Đông Đô thành Đông Quan. Lê Lợi thắng quân Minh, Ngày 29 tháng 4 năm 1428 (ngày 16 tháng 4 năm Mậu Thân), Lê Lợi chính thức lên ngôi hoàng đế tại điện Kính Thiên, khôi phục quốc hiệu là Đại Việt, đóng đô ở Đông Đô (Thăng Long), mở đầu kỷ Lê Sơ. Năm 1430 đổi Đông Đô làm Đông Kinh với một Tây Kinh là Lam Sơn (Lam Kinh) cũng ở Thanh Hóa, năm 1446 đổi gọi là phủ Trung Đô.
Đời Lê Trung Hưng với vua Lê chúa Trịnh, kinh đô lại lấy tên là Thăng Long với 36 phố phường
Năm 1592, Trịnh Tùng con trai của Trịnh Kiểm đã kéo quân vây đánh Đông Đô, Mạc Mậu Hợp bị giết. Vua Lê Thế Tông được họ Trịnh phò tá trở lại Thăng Long mở đầu thời kỳ mới và duy nhất trong lịch sử Việt Nam vừa có Vua vừa có Chúa mà lịch sử gọi là thời Lê Trung Hưng.
Năm 1788 quân Thanh kéo vào Thăng Long. Mùng 5 tết Kỉ Dậu, vua Quang Trung đánh trận Đống Đa, Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy
Sang thế kỷ XVIII, Hoàng thành bị sụt lở nhiều, khi nhà Tây Sơn ra Thăng Long, các cửa thành đã đổ gần hết chỉ còn lại hai cửa Đại Hưng ở phía nam và Đông Hoa ở phía đông. Nhà Nguyễn lên ngôi, Năm 1802, Nguyễn ánh với sự trợ giúp của Pháp đã tiêu diệt nhà Tây Sơn lên ngôi Hoàng đế, hiệu Gia Long, đóng đô tại Phú Xuân (tức Huế ngày nay). Từ đấy kinh thành Thăng Long cũng như toàn miền Bắc phải chịu một sự chuyển đổi lớn: Từ kinh thành hơn 800 năm trở thành trấn thành rồi tỉnh thành.
Năm 1831, đời Minh Mạng, địa danh Hà Nội bắt đầu xuất hiện. Nhà Nguyễn phá tòa thành các triều trước để xây một tòa thành nhỏ hơn.
Năm 1805 Vua Gia Long cho xây dựng Kỳ Đài (Cột Cờ)
gần Đình bia. Để xứng tầm với một “tỉnh thành”, năm 1831 Vua Minh Mạng ra lệnh hạ thấp tường thành và đổi tên là thành Hà Nội.
Năm 1873, Francis Garnier dẫn quân Pháp chiếm Hà Nội, tổng đốc Nguyễn Tri Phương tử trận. Năm 1882, quân Pháp do Henry Riviere đánh chiếm Hà Nội, tổng đốc Hoàng Diệu thua trận tự vẫn. Người Pháp san bằng thành lũy Hà Nội, xây những khu phố tây, chọn Hà Nội làm thủ đô Đông Dương. rong 62 năm (từ 1892 đến 1954) đóng quân trong thành, người Pháp với tư tưởng thực dân đã biến Thành cổ Hà Nội thành một khu quân sự, một trại lính. Hầu như tất cả các công trình cổ còn lại đã bị biến thành nhà ở hoặc phá bỏ lấy đất, gạch xây các công trình quân sự, nhà ở cho các sĩ quan, binh lính, kho tàng…
Năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình - chính thức khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, sau đổi thành Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Năm 1946, Pháp tái chiếm trở lại đến năm 1954 thua trận phải rút về nước (chiến thắng Điện Biên Phủ) -
Từ 1966 đến 1973 Hà Nội bị giặc Mỹ ném bom nhiều lần. Chiến dịch Linebacker II là chiến dịch quân sự cuối cùng của Đế quốc Mỹ chống lại Việt Nam từ , 18 đến 30 tháng 12 năm 1972 sau khi Hội nghị Paris bế tắc và đổ vỡ. Hà Nội thiệt hại nặng nề sau những trận ném bom ấy nhất là khu phố Khâm Thiên... đêm ngày 26/12/1972 phố Khâm Thiên sau loạt bom chỉ còn lại một đống đổ nát. Một tượng đài được dựng lên ngay sau những ngày ấy đánh dấu một ngày kinh hoàng và không bao giờ có thể quên của người dân Hà Nội
Một tháng sau, ngày 27.1.1973, Hiệp định về hoà bình và chấm dứt chiến tranh Việt Nam được ký ở Paris.
Năm 1975 thống nhất đất nước và phát triển khá mạnh mẽ cho đến nay. Với những gì đã diễn ra trong suốt quá trình lịch sử nhất là từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta cho tới nay Hà Nội rất xứng đáng với danh hiệu “Thủ đô anh hùng” mà Nhà nước phong tặng, “Thành phố vì hoà bình” do UNESCO công nhận.
Hà Nội, mảnh đất ngàn năm văn hiến mang trong mình biết bao nét đẹp, bề dày văn hóa đang chờ quý khách khám phá và cảm nhận. Với niềm tự hào dân tộc hướng dẫn viên sẽ cùng quý khách cùng trải nghiệm “ Văn Hoá Hà Nội ”. Thưa quý khách, xe của chúng ta đang chầm chậm lăn bánh trên con phố mang tên Tôn Đức Thắng, là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau này là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam. Tuy không có nền tảng giáo dục hoàn hảo nhưng ông được coi là một trong những hình tượng của Cách mạng và Nhà nước Việt Nam. Tuy là Ủy viên Trung ương Đảng từ năm 1951 cho tới khi mất nhưng ông chưa bao giờ được bầu vào Bộ Chính trị. Phía bên phải của chúng ta là Văn Miếu- Quốc Tử Giám, chút nữa chúng ta sẽ có dịp ghé thăm, phía trước quý khách là đường Nguyễn Thái Học, con phố mang tên nhà yêu nước Việt Nam chống thực dân Pháp đầu thế kỷ XX, với cuộc khởi nghĩa Yên Bái, nổi tiếng với câu nói: "Không thành công cũng thành nhân". Ông là người sáng lập Việt Nam Quốc dân đảng và là người lãnh đạo cuộc Khởi nghĩa Yên Bái. Việc bất thành, ông bị người Pháp bắt và xử tử năm 1930 tại Yên Bái cùng các đồng chí.
Thưa quý khách, vậy là chúng ta đã có mặt tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, điểm dừng chân đầu tiên trong chuyến hành trình ngày hôm nay, xin mời quý khách xuống xe, gửi đồ dùng các nhân tại phòng bảo vệ, để chúng ta có thể nhanh chóng tham quan và tìm hiều về bảo tàng này.
Kính thưa quý khách Việt Nam là một nước nằm ở khu vực Đông Nam Á, có lịch sử hình thành và phát triển hàng nghìn năm, nằm giữa 2 trung tâm văn minh lớn của nhân loại là Trung Quốc và Ấn Độ, Việt Nam đã tiếp thu được những tinh hoa văn hóa và phát triển một nền mỹ thuật hết sức phong phú, độc đáo.
Khi đến Hà Nội, bạn không thể không ghé thăm Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, một trong những công trình kiến trúc đẹp, nằm giữa thủ đô Hà Nội là nơi lưu giữ và giới thiệu các tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu có giá trị, những bằng chứng sinh động về sự phát triển của nền mỹ thuật Việt Nam từ thời tiền sử đến nay.
Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
Cột đá chùa Dạm
Kính thưa quý khách ! Hiện nay chúng ta đang đứng trong khu vực sân của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, phía trước mặt quý khách là “ chân cột đá chùa Dạm” ở Gia Lâm - Hà Nội . Chân cột đá này có niên đại từ thế kỷ 11. Quý khách có thể nhìn thấy rất rõ ở đầu chân cột là một trụ tròn, trên trục có một cái bậc, trên có một lỗ khóa nông. Trên đầu trụ có 2 con rồng buộc đuôi vào nhau, chầu lá đề, thân cột khá dài có chạm hình trụ tròn; đế hình tròn có trạm hình sóng và sóng nước. Có thể coi đó như một biểu tượng của Linga và Yoni. Chân cột này gắn với câu chuyện trang quyền sáng tạo ra thế giới giữa Brama và Visinu. Quý khách có thể quan sát kỹ chân cột này để tìm hiểu về nghệ thuật tạo hình và điêu khắc thế kỷ 11-12.
Phía bên kia quý khách có thể nhìn thấy hình ảnh “Giếng ngọc” được kè đá. Đây là đối tượng tham qua bổ sung trên đường chúng ta vào than quan bảo tang. Giếng ngọc được trang trí hình hoa sen, kiểu kiến trúc trang trí thời Lý!
Và bây giờ xin mời quý khách cùng hướng dẫn viên vào thăm bảo tàng.
Tại tiền sảnh của nhà A.
Kính thưa quý khách! Bảo tàng hiện nay xưa kia trực thuộc dòng thánh Gia tô và mang tên một nữ anh hùng người Pháp. Sau đó công trình này được sử dụng là nơi học tập và là nơi sinh hoạt của các nữ sinh người Pháp. Họ là con gái của những viên quan người Pháp sang làm việc tại Đông Dương.
Toàn bộ công trình này được xây dựng từ năm 1935 đến năm 1937 do một kiến trúc sư người Pháp thiết kế theo kiến trúc Pháp hiện đại. Nhưng đến năm 1945 khi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản thủ đô thì khu nhà này được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau như: Viện nghiên cứu Mỹ thuật Đông Dương, trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, nơi triển lãm tranh ảnh các họa sỹ nổi tiếng, nơi trưng bày các bộ sưu tập tranh gốm quý. Mãi một thời kỳ dài cho đến năm 1962 thì có một sự kiện quan trọng là:
Năm 1962, họa sỹ Nguyễn Đỗ Cung lúc bấy giờ là viện trưởng Viện mỹ thuật – mỹ nghệ cùng một số họa sỹ là đồng nghiệp của ông đã cho cải tạo ngôi nhà cũ cho phù hợp với Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Quý khách có thể nhìn thấy cột cũng như hoa văn trang trí trên vòm sảnh mang đặc trưng của kiến trúc mỹ thuật thời Lý.
Bảo tàng mở cửa phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân vào ngày 24 tháng 6 năm 1966, khi đó bảo tàng có tên “ Bảo tàng Mỹ thuật”, sáu năm sau tức là năm 1972 bảo tàng mới mang tên như hiện nay “ Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam”.
Bây giờ xin mời quý khách cùng tham quan phòng trưng bày đầu tiên của bảo tàng.
Mỹ thuật thời Tiền sử - Sơ sử
+ Phòng 1: Mỹ thuật thời Tiền sử - Sơ sử
Thưa quý khách phòng đầu tiên này trưng bày “Mỹ thuật thời Tiền sử - Sơ sử”.
Chúng ta biết rằng Việt Nam là đất nước có nền văn hóa lâu đời. Những hình khắc mặt người và thú ở hang Đồng Nội tỉnh Hòa Bình, cách đây khoảng 10000 năm là dấu ấn đầu tiên của nền nghệ thuật tạo hình cổ đại Việt Nam. Cách đây 4000 năm Nghệ thuật tạo hình cổ đại Việt Nam đã phát triển liên tục, trải qua thời đại đồ đá và đặc biệt là sơ kỳ thời đại kim khí, suốt thời đại đồng thau và đầu thời đại đồ sắt. Ở miền Bắc Việt Nam từ Quảng Bình trở ra, văn hóa Đông Sơn ra đời và phát triển rực rỡ dựa trên nền tảng của một quá trình hội tụ lâu dài từ những nền văn hóa “ tiền Đông Sơn” trước đó với hai phổ hệ chính là
- Phùng Nguyên – Đồng Đậu – Gò Mun – Đông Sơn (khu vực sông Hồng)
- Cồn Chân Tiên- Đông Sơn (ngã ba sông Mã, sông Chu).
Từ thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên đến đầu Công nguyên, ở miền Trung và Nam Bộ Việt Nam cũng hình thành hai trung tâm văn minh lớn là Văn hóa Sa Huỳnh chạy dọc suốt miền Trung từ Quảng Nam trở vào đến TP. Hồ Chí Minh, Văn hóa Đồng Nai và Óc-eo ở Nam Bộ. Những trung tâm này tác động qua lại lẫn nhau và giao lưu với các nền văn minh khác ở Hoa Nam (như văn hóa Điền) và Đông Nam Á. Nghệ thuật tạo hình cổ đại Việt Nam là nền nghệ thuật của cư dân nông nghiệp lúa nước, phát triển liên tục qua hàng chục thế kỷ, tạo nên bản sắc độc đáo và đa dạng.
Phòng trưng bày này chủ yếu giới thiệu những di vật tiêu biểu về nghệ thuật cổ đại tại các tỉnh phía Bắc. Hy vọng rằng trong tương lai những di tích về nghệ thuật cổ đại thuộc các tỉnh miền Trung và miền Nam sẽ được bổ sung để trưng bày và giới thiệu một cách đầy đủ hơn về nghệ thuật cổ đại Việt Nam.
Quý khách có thể nhìn thấy hiện vật là hình khắc trên vách đá hang Đồng Nội, tỉnh Hòa Bình (cách ngày nay khoảng 10000 năm) mà bảo tàng đã sưu tập được. Khi mà con người ở thời tiền sử sống thành bầy đàn và ở trong các hang động. Họ chưa có chữ viết và đã dùng những ký hiệu vạch lên vách đá để ghi lại sự kiện hoặc cũng có thể để trang trí.
Bây giờ xin mời quý khách hướng sang phía bên trái, quý khách có thể nhìn thấy rất rõ trong phần trang trí trong phòng này trưng bày rất nhiều hiện vật trống đồng. Nói đến văn hóa Đông Sơn thì không thể không nhắc tới trống đồng, bởi “ trống đồng là cuốn sách bằng đồng” ghi lại đầy đủ nhất nền văn hóa Đông Sơn. Hoa văn trang trí trên trống đồng là hoa văn biểu trưng của nền nông nghiệp lúa nước.
- Nền trống đồng:
+ Chim lạc: Tổ tiên của người Việt có xuất xứ từ phương bắc khi mùa đông đến chim lạc bay xuống phương nam ấm áp để tránh rét và nó được coi là Totem giáo của người Việt thủa ban đầu.
+ Hình thuyền: Đây là hình ảnh quen thuộc của nền văn minh lúa nước
Ngoài ra chúng ta cũng có thể nhìn thấy các hình ảnh hoa văn như đường tròn tiếp tuyến, đường tròn chấm dải. Đây là những hoa văn có từ thời xa xưa nhưng cho đến nay chúng ta vẫn bắt gặp các hình ảnh này trên cạp váy của người Mường. Đó là sự nối tiếp di truyền của văn hóa bản địa.
Đến đây chúng ta cũng thấy một trống đồng nữa cũng thuộc loại trống H1: Ở giữa là biểu tượng mặt trời, xen kẽ là hoa văn lông công.
Ngoài ra chúng ta thấy một trống đồng nữa là trống đồng Hữu Chung, trống đồng này ra đời muộn hơn trống đồng Ngọc Lũ nên bố cục khác và cách trang trí cũng khác. Các hoa văn trang trí đơn giản, cách điệu, biến thể mà chúng ta rất dễ nhận thấy ở đây.
Ngoài các hiện vật trống đồng còn có các đồ đồng, kim khí, minh khí, các vật trang trí, các hiện vật này xưa kia có chức năng âm nhạc, trang trí thỏa mãn nghệ thuật thị giác, thính giác.
Mỹ thuật từ thế ký XI đến thế kỷ XIX
+ Phòng 2, 3, 4: Thế kỷ XI đến thế kỷ XIV (Lý – Trần)
Kính thưa quý khách! Việt Nam được khẳng định có một nền nghệ thuật bản địa phát triển liên tục từ đồ đá sang đồ đồng, đồ sắt và đỉnh cao là nghệ thuật Đông Sơn, đây là một nền nghệ thuật mở có sự giao lưu với các nền văn hóa khác cùng thời.
Mở đầu thời kỳ Phong kiến tự chủ trong suốt thế kỷ XI, XII với tinh thần độc lập dân tộc mạnh mẽ về phương diện mỹ thuật cũng đã hình thành phong cách đặc biệt (thời kỳ 1010 – 1225). Mỹ thuật dân gian và mỹ thuật cung đình cũng rất phát triển, trong sử cũ ghi lại nhiều chùa chiền, xây dựng quy mô đồ sộ, hoành tráng nhưng đáng tiếc do chiến tranh và thiên tai đã hủy hoại, đến nay chỉ còn lại những hiện vật, tác phẩm bằng chất liệu đá và đất nung.
Phong cách nghệ thuật thế kỷ XI – XII thiên về sự mềm mại uyển chuyển, đường nét tinh tế, họa tiết trang trí thường trải ra khắp bố cục. Đề tài phổ biến là hoa lá, sen, cúc, rồng, phượng, mây sóng nước, nhạc công, vũ nữ… Con rồng thời Lý là nghệ thuật độc đáo đẹp mà không giống ở thời kỳ nào, nơi nào khác. Rồng luôn được thể hiện trong dáng dấp hiền hòa, mềm mại đầu rồng nhỏ không có sừng, đỉnh trán có hình chữ S,một biểu tượng cầu mong mưa thuận gió hòa của cư dân nông nghiệp.
Kính thưa quý khách! Bên tay trái chúng ta là hình ảnh con chim phượng trên lan can chùa Bà Tấm (Gia Lâm – Hà Nội). Chim phượng đứng một chân trên hoa sen, một chân co thể hiện sự xuất hiện của Phật giáo với đời thường. Phượng có bờm, lông đuôi mềm mại giống như rồng thời Lý nhưng vẫn cho ta thấy sự phóng túng với hoa văn trang trí: hoa cúc mãn khai, hoa sen. Hoa cúc biểu trưng cho mặt trời mang yếu tố dương. Điều này cho thấy sự kết hợp âm dương mang yếu tố phồn sinh trên các họa tiết trang trí cho bức chạm.
Tảng kê chân cột vũ nữ múa trong vòng lửa ở đây có sự kết hợp của nghệ thuật Chăm và nghệ thuật chạm khắc Đại Việt. Phải chăng đây là sự giao thoa tiếp biến văn hóa ngay từ thời phong kiến độc lập tự chủ.
Với các hiện vật được trưng bày cho ta thấy rằng đặc điểm mỹ thuật thời Lý là: Nhỏ, tỉ mỷ, trang trí chau chuốt, bao phủ toàn bộ bề mặt hiện vật, đôi khi còn khiên cưỡng vì quá chau chuốt, các họa tiết trang trí ổn định, dàn đều không có sự phá cách cho chúng ta thấy kinh tế thời Lý phát triển thịnh vượng, chính trị ổn định.
Thưa quý khách! cùng lúc với nghệ thuật thời Lý ở phía bắc, nghệ thuật Chăm ở phía nam cũng phát triển sinh động và rất đặc sắc. Đây là nền nghệ thuật giàu chất hiện thực và đậm nét tôn giáo của cư dân Chăm, một bộ phận quan trọng trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Xin mời quý khách sang tham quan phòng tiếp theo, ở đây chúng ta sẽ bắt gặp nghệ thuật điêu khắc Chăm với thần Uma và vũ điệu Apsara ca ngợi vẻ đẹp của các vũ nữ múa trong vòng lửa thần mặt trời. Chúng ta có thể nhận thấy sự xuất hiện của thần Siva qua 2 hình tượng: Người đàn ông trẻ có cặp mắt thứ 3 trên trán (hủy diệt thế giới), hình tượng Linga (tái tạo, bảo tồn thế giới). Hình tượng Bò thần Nandi và chim thần Gadura luôn đi cùng thần Siva.
Thời kỳ nhà Trần vẫn tiếp thu nghệ thuật thời Lý nhưng đã mở mang hơn. Đặc biệt khác nhà Lý trong trang trí gốm nó bay bổng, phóng khoáng, hiện thực và đời hơn.
Rồng thời Trần mập hơn và thực hơn.
+ Điêu khắc:
Con Hổ đặt ở lăng Trần Thủ Độ: nét điêu khắc cho ta cảm thấy lưng Hổ mềm mại như sống lưng người thiếu nữ, bên cạnh đó tạo nên sống lưng vuông rắn chắc như gửi gắm sức mạnh vào bên trong các hoạ sĩ dân gian muốn nói lên rằng dân tộc Việt Nam tuy nhỏ, hiền nhưng sức mạnh tiềm ẩn, khi đã vùng dậy thành hào khí “Đông A”.
+ Phòng 4:
Kính thưa quý khách, trước mắt chúng ta là tượng A Di Đà. Đây là phiên bản được đúc lại từ pho tượng nguyên bản chùa phật tích (Bắc Ninh). Tượng phật mang vẻ đẹp lý tưởng của người phụ nữ đương thời: mũi dọc dừa, cổ cao ba ngấn. Bệ tượng được trang trí tỉ mỉ dàn đều mang phong cách thời Lý.
Trên tường có các bức chạm khắc với hình ảnh thiên thần, nhạc công với thủ pháp nghệ thuật thời kỳ Đông sơn mang tính biểu trưng ước lệ.
+ Phòng 5:
(Thế kỷ XV sau khi đánh bại quân xâm lược phương Bắc giành thắng lợi). Một triều đại mới được hình thành triều đại Lê Sơ. Với chủ trương tập trung tài Lực củng cố lại tài lực, củng cố lại đất nước sau chiến tranh. Triều đình có nhiều chính sách tiến bộ về kinh tế, chính trị, văn hoá. Thời kỳ này phật giáo cũng được chấn chỉnh, hạn chế việc dựng chùa, đúc chuông mới, người tu hành phải qua sát hạch phẩm hạnh, trình độ, Triều đình còn cấm Quý tộc, quan lại xây cất các công trình to lớn, đồ sộ. Ngay cả các lăng tẩm của Hoàng đế. Hoàng hậu Lê Sơ ở Lam Sơn – Thanh Hoá cũng rất khiêm tốn để tiết kiệm ngân khố. Các quy định đó có ý nghĩa tích cực về phương diện xã hội nhưng các mặt khác nó lại làm mất đi môi trường của Mỹ thuật vốn dĩ quen thuộc. Mặt khác từ giữa thể kỷ 15 – Vương triều Lê – Sơ coi trọng Nho giáo – Trung Hoa nên Mỹ thuật Việt Nam hồi này có bị ức chế và ảnh hưởng rõ rệt. Đây được coi là giai đoạn tạm lắng của mỹ thuật cổ dân tộc.
Thế kỷ 16 (nhà Mạc 1527-1595) thấy thế nhà Lê-Sơ mỹ thuật cũng bước sang giai đoạn phát triển mới trang trí ở các đình bắt đầu với sự bùng nổ của các Khuynh hướng dân gian nó tồn tại song song và đan xen hài hoà với khuynh hướng chính thống. Đây chính là điều khác lạ so với các thời trước đó và tạo nên một diện mạo mới mẻ, phong phú cho nền mỹ thuật cổ Việt Nam. Mỹ thuật thời Mạc mang tính trang hoàng và tính hoành tráng rất cao. Ở bất cứ bộ phận nào trong công trình kiến trúc cũng có thể trang trí được thì hầu như các nho sĩ dân gian đều tận dụng để đưa vào những bức chạm có ý nghĩa và vui mắt làm tăng thêm vẻ lộng lẫy của di tích.
Các tượng thờ bằng gỗ, đá được tạo tác thời này cũng nhiều nhưng nhiều nhất vẫn là tượng quan âm bồ tát với kích cơ tương đối lớn (tương quan âm ở các chùa Hội Hạ, Tam Sơn, Mễ Sở, Thượng Trưng, Đa Tốn…).
Mỹ thuật thế kỷ 16 được đánh giá như đoạn mở đầu của thời phục hưng cho thế kỷ tiếp theo.
Ở thời kỳ này, văn hoá Việt Nam bị áp đặt, ức chế, bởi văn hoá Trung Hoa, họ có nhiều chùa lớn, nho giáo được coi trọng đặc biệt đến thời vua Lê Thánh Tông, nho giáo phát triển cực thịnh và tiến quyền phật giáo. Nho giáo chiếm dần vị trí quan trọng vì vậy họ có những bức tượng to hoành tráng. Quý khách có thể nhìn thấy: Hình vẽ 2 pho tượng pháp giống người phương Bắc (mặt bạnh to, trán nhô cao). Đặc biệt là hình ảnh rồng. Rồng có râu, sừng, bờm, vây mỏ 5 móng mang ý nghĩa vương quyền: Rồng gắn với vua (5 móng), quan lại (4 móng), thường dân (3 móng). Rồng được trang trí giữa hình vuông biểu trưng cho thiên tử nằm ở giữa trời đất.
Quý khách có thể nhìn thấy pho tượng phật ở chùa Hạ Hội (Vĩnh Phúc) vào thời kỳ nhà Mạc, xuất hiện chất liệu gỗ sơn son thiếp vàng. Đây là
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 110888.doc