Đề tài Vận dụng quan điểm toàn diện với việc phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, vấn đề phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được đặt ra như một yêu cầu tất yếu đối với nền kinh tế Việt nam. Kinh tế tư nhân là một bộ phận trong cơ cấu ấy, đã có một thời kỳ bị coi là bộ phận đối lập với kinh tế XHCN, vì vậy nằm trong diện phải cải tạo, xoá bỏ.

Thực tiễn đã cho thấy quan niệm như vậy là cực đoan và sự xuất hiện trở lại của của kinh tế tư nhân đã góp phần không nhỏ vào sự thay đổi bộ mặt của nền kinh tế theo hướng tích cực. Cùng với chủ trương chuyển nền kinh tế Việt nam sang kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân.

Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về thành phần kinh tế tư nhân, tôi đã lựa chọn đề tài " Vận dụng quan điểm toàn diện với việc phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam".

Trong phạm vi của đề tài, tôi xin giới hạn nghiên cứu quá trình phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam từ sau đại hội VI đến nay dưới quan điểm toàn diện và đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của thành phần kinh tế này.

Nhiệm vụ của đề tài là nghiên cứu các thành phần kinh tế tư nhân ở Việt nam theo quan điểm toàn diện, xem xét thực trạng thành phần kinh tế này từ đó đưa ra một số giải pháp góp phần phát triển đất nước.

Về mặt lý luận việc nghiên đề tài phần nào giúp ta hiểu sâu sắc hơn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu thành phần kinh tế tư nhân theo quan điểm toàn diện có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế tư nhân, góp phần phát triển đất nước cũng như việc hoạch định những chính sách đối với các thành phần kinh tế này.

Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, thế giới quan duy vật biện chứng, căn cứ vào một số quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là những quan điểm đổi mới trong lĩnh vực kinh tế từ sau Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, so sánh, hệ thống hoá, thống kê

 

Nội dung đề tài, ngoài lời nói đầu và kết luận gồm hai chương

Chương I: Lý luận chung về quan điểm toàn diện

Chương II: Vận dụng quan điểm toàn diện trong phát triển kinh tế tư nhân ở Việt nam.

Do điều kiện thời gian cũng như trình độ am hiểu về vấn đề này còn hạn chế, nên không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả mong nhận được những ý kiến đánh giá của thầy cô giáo và các bạn để đề tài này được hoàn thiện hơn.

 

doc19 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1248 | Lượt tải: 1download
Nội dung tài liệu Đề tài Vận dụng quan điểm toàn diện với việc phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, vấn đề phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được đặt ra như một yêu cầu tất yếu đối với nền kinh tế Việt nam. Kinh tế tư nhân là một bộ phận trong cơ cấu ấy, đã có một thời kỳ bị coi là bộ phận đối lập với kinh tế XHCN, vì vậy nằm trong diện phải cải tạo, xoá bỏ. Thực tiễn đã cho thấy quan niệm như vậy là cực đoan và sự xuất hiện trở lại của của kinh tế tư nhân đã góp phần không nhỏ vào sự thay đổi bộ mặt của nền kinh tế theo hướng tích cực. Cùng với chủ trương chuyển nền kinh tế Việt nam sang kinh tế thị trường, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách để khuyến khích sự phát triển của các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư nhân. Nhằm góp phần nhận thức đúng đắn hơn về thành phần kinh tế tư nhân, tôi đã lựa chọn đề tài " Vận dụng quan điểm toàn diện với việc phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam". Trong phạm vi của đề tài, tôi xin giới hạn nghiên cứu quá trình phát triển của kinh tế tư nhân ở Việt Nam từ sau đại hội VI đến nay dưới quan điểm toàn diện và đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của thành phần kinh tế này. Nhiệm vụ của đề tài là nghiên cứu các thành phần kinh tế tư nhân ở Việt nam theo quan điểm toàn diện, xem xét thực trạng thành phần kinh tế này từ đó đưa ra một số giải pháp góp phần phát triển đất nước. Về mặt lý luận việc nghiên đề tài phần nào giúp ta hiểu sâu sắc hơn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, quan điểm toàn diện của chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng. Về mặt thực tiễn, nghiên cứu thành phần kinh tế tư nhân theo quan điểm toàn diện có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế tư nhân, góp phần phát triển đất nước cũng như việc hoạch định những chính sách đối với các thành phần kinh tế này. Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở những nguyên lý và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, thế giới quan duy vật biện chứng, căn cứ vào một số quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nhất là những quan điểm đổi mới trong lĩnh vực kinh tế từ sau Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, so sánh, hệ thống hoá, thống kê… Nội dung đề tài, ngoài lời nói đầu và kết luận gồm hai chương Chương I: Lý luận chung về quan điểm toàn diện Chương II: Vận dụng quan điểm toàn diện trong phát triển kinh tế tư nhân ở Việt nam. Do điều kiện thời gian cũng như trình độ am hiểu về vấn đề này còn hạn chế, nên không tránh khỏi những thiếu sót, tác giả mong nhận được những ý kiến đánh giá của thầy cô giáo và các bạn để đề tài này được hoàn thiện hơn. Chương1: Lý luận chung về quan điểm toàn diện 1.1- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Theo quan điểm siêu hình, các sự vật hiện tượng tồn tại một cách tách rời nhau, cái này bên cạnh cái kia, giữa chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc lẫn nhau, những mối liên hệ có chăng chỉ là những liên hệ hời hợt, bề ngoài mang tính ngẫu nhiên. Một số người theo quan điểm siêu hình cũng thừa nhận sự liên hệ và tính đa dạng của nó nhưng laị phủ nhận khả năng chuyển hoá lẫn nhau giữa các hình thức liên hệ khác nhau. Ngược lại, quan điểm biện chứng cho rằng thế giới tồn tại như một chỉnh thể thống nhất. Các sự vật hiện tượng và các quá trình cấu thành thế giới đó vừa tách biệt nhau, vừa có sự liên hệ qua lại, thâm nhập và chuyển hoá lẫn nhau. Về nhân tố quy định sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng trong thế giới, chủ nghĩa duy tâm cho rằng cơ sở của sự liên hệ , sự tác động qua lại giữa các sự vật và hiện tượng là các lực lượng siêu tự nhiên hay ở ý thức, ở cảm giác của con người. Xuất phát từ quan điểm duy tâm chủ quan, Béccơli coi cơ sở của sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là cảm giác. Đứng trên quan điểm duy tâm khách quan, Hêghen lại cho rằng cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật, hiện tượng là ở ý niệm tuyệt đối. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định cơ sở của sự liên hệ qua lại giữa các sự vật hiện tượng là tính thống nhất vật chất của thế giới. Theo quan điểm này, các sự vật hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, khác nhau như thế nào đi chăng nữa thì chúng cũng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của một thế giới duy nhất là thế giới vật chất. Ngay cả ý thức, tư tưởng của con người vốn là những cái phi vật chất cũng chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao nhất là bộ óc con người, nội dung của chúng cũng chỉ là kết quả phản ánh của các quá trình vật chất khách quan. Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng định tính khách quan, tính phổ biến của sự liên hệ giữa các sự vật hiện tượng, các quá trình, mà nó còn nêu rõ tính đa dạng của sự liên hệ qua lại: có mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, có mối liên hệ chung bao quát toàn bộ thế giới và mối liên hệ bao quát một số lĩnh vực hoặc một số lĩnh vực riêng biệt của thế giới, có mối liên hệ trực tiếp, có mối liên hệ gián tiếp mà trong đó sự tác động qua lại được thể hiện thông qua một hay một số khâu trung gian, có mối liên hệ bản chất, có mối liên hệ tất nhiên và liên hệ ngẫu nhiên, có mối liên hệ giữa các sự vật khác nhau và mối liên hệ giữa các mặt khác nhau của sự vật. Sự vật, hiện tượng nào cũng vận động, phát triển qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, giữa các giai đoạn đó cũng có mối liên hệ với nhau, tạo thành lịch sử phát triển hiện thực của các sự vật và các quá trình tương ứng. Tính đa dạng của sự liên hệ do tính đa dạng trong sự tồn tại, sự vận động và phát triển của chính các sự vận động và phát triển của các sự vật hiện tượng. Mối liên hệ bên trong là mối liên hệ qua lại, là sự tác động lẫn nhaugiữa các bộ phận, giưac các yếu tố, các thuộc tính, các mặt khác nhau của một sự vật, nó giữ vai trò quyết định đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Mối liên hệ bên ngoài là mối liên hệ giữa các sự vật, các hiện tượng khác nhau, nói chung nó không có ý nghĩa quyết định, Hơn nữa, nó thường phải thông qua mối liên hệ bên trong mà phát huy tác dụng đối với sự vận động và phát triển của sự vật. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là phủ nhận hoàn toàn vai trò của mối liên hệ bên ngoài đối với sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ bên ngoài cũng hết sức quan trọng, đôi khi có thể giữa vai trò quyết định. Mối liên hệ bản chất và không bản chất, mối liên hệ tất yếu và ngẫu nhiên cũng có tính chất tương tự như đã nói ở trên. Ngoài ra chúng còn có những nét đặc thù. Chẳng hạn như, cái là ngẫu nhiên khi xem xét trong quan hệ này lại là cái tất nhiên khi xem xét trong mối liên hệ khác, ngẫu nhiên lại là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của cái tất yếu, hiện tượng là hình thức biểu hiện ít nhiều đầy đủ của bản chất. Đó là những hình thức đặc thù của sự biểu hiện những mối liên hệ tương ứng. Như vậy, quan điểm duy vật biện chứng về sự liên hệ đòi hỏi phải thừa nhận tính tương đối trong sự phân loại các mối liên hệ. Các loại liên hệ khác nhau có thể chuyển hoá lẫn nhau. Sự chuyển hoá như vậy có thể diễn ra hoặc do thay đổi phạm vi bao quát khi xem xét, hoặc do kết quả vận động khách quan của chính sự vật và hiện tượng. Trong tính đa dạng của các hình thức và các loại liên hệ tồn tại trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy con người, phép biện chứng duy vật, tập trung nghiên cứu những loại liên hệ chung, mang tính chất phỏ biến. Những hình thức và những kiểu liên hệ riêng biệt trong các bộ phận khác nhau của thế giới là đôí tượng nghiên cứu của các ngành khoa học khác. 1.2 - Quan điểm toàn diện trong triết học Mác- Lênin Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của sự vật hiện tượng, triết học Mác - Lênin rút ra quan điểm toàn diện trong nhận thức Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong việc nhận thức các sự vật hiện tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng đắn về sự vật hiện tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi để có được nhận thức đúng đắn về sự vật, hiện tượng. Một mặt, chúng ta phải xem xét nó trong m,ối liên hệ qua lại giữa các bộ phậm, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của chính sự vật, hiện tượng đó, mặt khác chúng ta phải xem xét trong mối liên hệ giữa nó với với các sự vật khác (kể cả trực tiếp và gián tiếp). đề cập đến hai nội dung này, V.I. Lênin viết "muốn thực sự hiểu được sự vật, cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, các mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp của sự vật đó". Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện đòi hỏi, để nhận thức được sự vật, cần phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. ứng với mỗi con người, mỗi thời đại và trong một hoàn cảnh lịch sử nhất định, con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được một số lượng hữu hạn những mối liên hệ. Bởi vậy, tri thức đạt được về sự vật cũng chỉ là tương đối, không đầy đủ không trọn vẹn. Có ý thức được điều này chúng ta mới tránh được việc tuyệt đối hoá những tri thức đã có về sự vật và tránh xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối không thể bổ sung, không thể phát triển. Để nhận thức được sự vật , cần phải nghiên cứu tất cả các mối liên hệ, "cần thiết phải xem xét tất cả mọi mặt để đè phòng cho chúng ta khỏi phạm sai lầm và sự cứng nhắc." Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện không chỉ ở chỗ nó chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ vẫn có thể là phiến diện nếu chúng ta đánh giá ngang nhaunhững thuộc tính, những quy định khác nhau của của sự vật được thể hiện trong những mối liên hệ khác nhau đó. Quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay hiện tượng đó. Như vậy, quan điểm toàn diện cũng không đồng nhất với cách xem xét dàn trải, liệt kê những tính quy định khác nhau của sự vật, hiện tượng. Nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật hiện tượng đó. Có thể kết luận, quá trình hình thành quan điểm toàn diện đúng đắn với tư cách là nguyên tắc phương pháp luận để nhận thức sự vật sẽ phải trải qua các giai đoạn cơ bản là đi từ ý niệm ban đầu về cái toàn thể để để nhận thức một mặt, một mối liên hệ nào đó của sự vật rồi đến nhận thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đó và cuối cùng, khái quát những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức về bản chất của sự vật. Quan điểm toàn diện vừa khác chủ nghĩa chiết trung vừa khác thuật nguỵ biện. Chủ nghĩa chiết trung tuy cũng tỏ ra chú ý tới nhiều mặt khác nhau nhưng lại kết hợp một cách vô nguyên tắc những cái hết sức khác nhau thành một hình ảnh không đúng về sự vật. Chủ nghĩa chiết trung không biết rút ra mặt bản chất, mối liên hệ căn bản nên rơi vào chỗ cào bằng các mặt, kết hợp một cách vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau, do đó hoàn toàn bất lực khi cần phải có quyết sách đúng đắn. Thuật nguỵ biện cũng chỉ chú ý đến những mặt , những mối liên hệ khác nhau của sự vật nhưng lại đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất thành cái bản chất. Cả chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ biện đều là những biểu hiện khác nhau của phương pháp luận sai lầm trong việc xem xét các sự vật, hiện tượng. Chương 2: Quan điểm toàn diện trong việc phát triển kinh tế tư nhân ở Việt nam 2.1 Kinh tế tư nhân và vai trò của nó trong kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam 2.1.1 Tính tất yếu khách quan tồn tại nhiều thành phần kinh tế ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH Nước ta quá độ lên CNXH từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất còn rất thấp. Bản thân đặc điểm quá độ lên CNXH của nước ta là bỏ qua chế độ tư bản đã nói lên rằng, đất nước ta chưa có tiền đề về cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra. Đối với các nước đã qua chế độ tư bản hoặc chủ nghĩa tư bản đã phát triển ở mức trung bình cũng không thể thiết lập ngay lập tức chế độ công hữu trong toàn bộ đời sống kinh tế. Nước ta, với nền kinh tế lạc hậu, điểm xuất phát thấp, lại càng không thể xây dựng nhanh chóng chế độ công hữu mà phải trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài, qua nhiều nấc trung gian quá độ. Nếu như ở Đại hội III của Đảng cộng sản việt nam, chúng ta đã nôn nóng xoá bỏ mọi hình thức sở hữu, mọi thành phần kinh tế, trong đó có khu vực kinh tế tư nhân. Lúc đó, nền kinh tế nước ta chỉ có một thành phần là thành phần kinh tế XHCN, thì từ sau Đại VI kinh tế tư nhân mới được khôi phục và phát triển. Đại hội IX của Đảng đã khẳng định nước ta tồn tại sáu thành phần kinh tế; kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể tiểu chủ, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế tư bản tư nhân, và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (Đại hội VIII coi đây là kinh tế tư bản Nhà nước). Kinh tế Nhà nước; Vốn và tư liệu sản xuất thuộc sở hữu Nhà nước, kinh tế Nhà nước là thành phần kinh tế bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước; các tài nguyên quốc gia và tài sản thuộc sở hữu Nhà nước như; đất đai, hầm mỏ , rừng , biển, ngân sách, các quỹ dự trữ ngân hàng Nhà nước, hệ thống bảo hiểm, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; phần vốn nhà nước góp vào các doanh nghiệp thuộc những thành phần kinh tế khác, (Cần phân biệt phạm trù kinh tế Nhà nước với doanh nghiệp Nhà nước. Kinh tế Nhà nước rộng và mạnh hơn bộ phận doanh nghiệp Nhà nước). Kinh tế tập thể; Vốn và tư liệu sản xuất thuộc sở hữu tập thể, do những người lao động tư nguyện góp vốn và lao động, phân phối theo nguồn vốn và lao động đã đóng góp. Thành phần kinh tế này tồn tại trong nông nghiệp, thủ công nghiệp và dịch vụ nhỏ, dưới các loại hình hợp tác xã với quy mô và trình độ khác nhau. Đại hội Đảng VIII gọi là thành phần kinh tế hợp tác, nay gọi là thành phần kinh tế tập thể. Kinh tế tập thể giống kinh tế Nhà nước ở chỗ đều là những thành phần kinh tế trong đó người lao động làm chủ (mặc dù ở mức độ khác nhau) và sản xuất được tiến hành vì lợi ích của người lao động và toàn thể xã hội Kinh tế tư bản Nhà nước; Là loại hình sở hữu hỗn hợp, vốn và tư liệu sản xuất thuộc sở hữu Nhà nước và các nhà tư bản ở trong và ngoài nước dưới hình thức các xí nghiệp liên doanh, công ty hợp doanh. Thành phần này được khôi phục từ sau năm 1986. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ; Vốn và tư liệu sản xuất thuộc sở hữu cá thể. Bao gồm những hộ sản xuất độc lập ở thành thị và nông thôn, dựa trên sở hữu riêng về tư liệu sản xuất của hộ gia đình, lao động của hộ gia đình và do chủ cơ sở quyết định phương án sản xuất kinh doanh. Sau năm 1986, thành phần này được khôi phục và phát triển trong cả nước. Kinh tế tư bản tư nhân; Là đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số Nhà tư bản góp lại để sản xuất, kinh doanh và thuê mướn nhân công. Kinh tế tư bản tư nhân có nhiều hình thức là xí nghiệp tư doanh hay công ty trách nhiệm hữu hạn. Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài; Vốn và tư liệu sản xuất thuộc sở hữu nhà tư bản nước ngoài, đầu tư vào Việt nam. Đại hội Đảng VIII coi đây là một bộ phận nằm trong thành phần kinh tế tư bản Nhà nước. Đến đại hội IX đã xác định nó là một thành phần kinh tế riêng. Thành phần kinh tế này ra đời là kết quả của công cuộc đổi mới và mở cửa của nước ta. 2.1.2 Vai trò của kinh tế tư nhân ở Viêt nam hiện nay Để phát triển kinh tế, bất kỳ một quốc gia nào cũng cần phải phát huy các nguồn lực. Các nguồn lực ở đây bao gồm cả các nguồn lực bên trong (nội lực) và các nguồn lực bên ngoài (ngoại lực), trong đó nội lực giữ vai trò chủ đạo. Nội lực có thể hiểu là toàn bộ vốn, lao động, chất xám,…được huy động từ trong nước. Các nguồn lực này thuộc sở hữu của một trong bốn thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh té tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước. Kinh tế cá thể có đặc diểm là sản xuất manh mún, phân tán, trình độ kỹ thuạt thấp, công nghệ lạc hậu… Vì vậy, đóng góp của thành phần kinh tế này vào thu nhập quốc dân chiếm một tỷ trọng rất nhỏ. Xuất phát từ điều kiện cụ thể ở nước ta, kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể là bộ phận giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nhưng do một thời gian dài tồn tại cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, hai thành phần kinh tế này cũng bộc lộ nhiều mặt hạn chế như hoạt động kém hiệu quả, lãi giả, lỗ thật, độc quyền…. Trong tình hình đó, việc phát triển kinh tê tư nhân là cần thiết nhằm một mặt phát huy nội lực, huy động một lượng vốn lớn, chất xám trong dân chúng để đầu tư vàn sản xuất kinh doanh, đồng thời tạo công ăn việc làm cho người laođộng, phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, việc phát triển kinh tế tư nhân còn tạo ra môi trường cạnh tranh với kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời phát triển khoa học công nghệ. Nếu như trước đại hội VI, kinh tế tư nhân ở Việt nam gần như đã bị xoá bỏ thì từ sau Đại hội VI, kinh tế tư nhân dần dần được khôi phục và xuất hiện trở lại, nhưng nhanh nhất và rõ rệt nhất là từ năm 1990 trở đi, năm 1990 Việt nam có gần 500 xí nghiệp tư nhân khoảng 36 vạn hộ cá thể, tiểu chủ thì đến năm 1996 các con số này đã nên tới 21.360 doanh nghiệp và công ty tư nhân, 2.210.000 hộ cá thể, tiểu chủ. Hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 40% trong tổng GNP. Với nhiều ưu thế, kinh tế tư nhân ở Việt nam đang cạnh tranh gay gắt với các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế và ngày càng chiếm linhx thị trường. Tỷ trọng hàng hoá bán lẻ và hàng hoá dịch vụ của khu vực này trong tổng mức bán lẻ hàng oá, dịch vụ trên thị trường xã hội tăng từ 60% năm 1990 lên 73,1% năm 1998 và đến năm 2000 con số này là 75%. Điều này có nghĩa là việc phát triển thành phần kinh tế tư nhân đã góp phần tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Chính vì vậy, Nhà nước cần phải đánh giá đúng, từ đó có chính sách quản lý, giám sát và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân như là một lực lượng kinh tế quan trọng trong quá trình xây dung và phát triển đất nước. 2.2- Vận dụng quan điểm toàn diện vào phát triển kinh tế tư nhân ở Việt nam Để đảm bảo có được nhận thức đúng đắn về một vấn đề, chúng ta phải xem xét vấn đề đó theo quan điểm toàn diện. Điều này có nghĩa là phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ tác động qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính khác nhau của sự vật, hiện tượng cũng như trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật đối với các sự vật khác và trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Với mục đích có được nhận thức đúng đắn, từ đó đề ra những chủ trương, chính sách đúng nhằm xây dựng và phát triển kinh tế tư nhân, chúng ta cần xem xét thành phần kinh tế này trong các mối liên hệ giữa các bộ phận, yếu tố thuộc tính của nó và giữa nó với các thành phần kinh tế khác, với các bộ phận khác trong nền kinh tế… Như đã trình bày ở trên, kinh tế tư nhân tồn tại như một bộ phân không thể thiếu của nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở Việt nam với vo số mối quan hệ. Có thể phân chia các mối quan hệ này thành hai loại: các mối quan hệ giữa các mặt, các bộ phận của kinh tế tư nhân với nhau (Các mối quan hệ giữa các mặt, các bộ phận của kinh tế tư nhân với nhau (các mối quan hệ bên trong) và các mối quan hệ giữa kinh tế tư nhân với các bộ phận khác của nền kinh tế (các mối quan hệ bên ngoài). Mối quan hệ giữa các mặt, các bộ phận của kinh tế tư nhân: Đây là mối quan hệ cơ bản, giữa vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế này. Xét trên phạm vi một doanh nghiệp tư nhân (đơn vị kinh tế cơ sở của thành phần kinh tế nay), các mối quan hệ bao gồm 3 quan hệ cơ bản là quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức, quản lý sản xuát và quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Ba mối quan hệ này là ba bộ phận của sản xuất. Với tính cách là những mối quan hệ kinh tế khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của con người, các quan hệ này mang tính vật chất thuộc đời sống xã hội, là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất và là cơ sở của đời sống tinh thần xã hội. Ba mặt quan hệ này trong quá trình sản xuất luôn gắn bó với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động không ngừng của lực lượng sản xuất. Theo lý luận về hình thái kinh tế xã hội, tính chất của quan hệ sản xuất nói chung, trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất - biểu hiện thành chế độ sở hữu - là đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất. Trong hệ thống các quan hệ sản xuất của mỗi nền kinh tế xã hội xác định, quan hệ sở hữu luôn đóng vai trò quyết định, chi phối các quan hệ khác. Thành phần kinh tế tư nhân cũng không nằm ngoài quy luật đó. Quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, cơ bản, trung tâm của quan hệ sản xuất. Chính quan hệ sản xuất của chủ doanh nghiệp tư nhân đối với tư liệu sản xuất đã quy định quan hệ tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp và quan hệ phân phối sản phẩm. Chủ doanh nghiệp tư nhân là người sở hữu tất cả các tài sản của doanh nghiệp và họ là người quyết định đến việc tổ chức sản xuất kinh doanh. Các ông chủ doanh nghiệp tư nhân có thể tự mình tổ chức hoạt động của doanh nghiệp hoặc thuê ngưới quản lý. ở Việt nam hiện nay, thông thường các chủ doanh nghiệp tư nhân là người giữ vị trí tổng giám đốc hay giám đốc, trực tiếp điều hành hoạt động của doanh nghiệp. Toàn bộ kết quả sản xuất kinh doanh sau khi thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách nhà nước thuộc quyền quyết định của họ. Trong hệ thống các quan hệ sản xuất, các quan hệ về mặt tổ chức, quản lý sản xuất và các quan hệ có khả năng quyết định một cách trực tiếp đến quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng phát triển của bản thân doanh nghiệp nói riêng và của cả thành phần kinh tế tư nhân nói chung. Thông qua cách thức, phương pháp điều khiển, tổ chức quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, chủ doanh nghiệp có khả năng đẩy nhanh hay kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp. Ngày nay, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, quan hệ tổ chức, quản lý trong các doanh nghiệp ngày càng chịu sự tác động của các phương tiện hiện đại. Điều này chứng tỏ cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuât, các quan hệ sản xuất nói chung, quan hệ sản xuất trong doanh nghiệp tư nhân nói riêng cũng đang biến đổi theo một cách tương ứng. Bên cạnh quan hệ về tổ chức, quản lý, quan hệ về phân phối sản phẩm lao động cũng là một nhân tố có tác động như "chất xúc tác" cho quá trình phát triển của từng doanh nghiệp cũng như của toàn bộ thành phần kinh tế tư nhân. Việc giải quyết tốt mối quan hệ này sẽ tạo động lực thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Ngược lại, quan hệ này được giải quyết không tốt sẽ khiến người lao động cảm thấy chán nản, từ đó làm kìm hãm sản xuất. Thực tế cho thấy, ở những doanh nghiệp tư nhân mà chủ doanh nghiệp giải quyết tốt quan hệ này , hiệu quả sản xuất kinh doanh rất cao. Mối quan hệ giữa thành phần kinh tế tư nhân với các thành phần kinh tế khác. Trong kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như ở Việt nam hiện nay, bên cạnh kinh tế tư nhân còn có các thành phần kinh tế khác như, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Mối quan hệ giữa thành phần kinh tế tư nhân với các thành phần kinh tế khác là mối quan hệ bên ngoài, không cơ bản, nó không giữ vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, các mối quan hệ này cũng có tác động thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của từng doanh nghiệp tư nhân nói riêng cũng như toàn bộ thành phần kinh tế này nói chung. Thực tế ở Việt nam cho thấy, trước năm 1986 kinh tế tư nhân hầu như không thể phát triển được do những quan niệm, chính sách sai lầm đối với thành phần này. Từ sau Đại hội VI đến nay, kinh tế tư nhân đang dần dần được khôi phục và phát triển. Mối quan hệ giữa các thành phần kinh tế trong kinh vừa thống nhất lại vừa mâu thuẫn với nhau, biểu hiện : Một mặt + Chúng có mối quan hệ thống nhất với nhau vì: chúng có mối liên hệ với nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển (về vốn, công nghệ, thị trường) chúng đều nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội. + Các thành phần kinh tế trên đều hoạt động theo kế hoạch định hướng của Nhà nước, chịu sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước bằng các chính sách; tài chính, tiền tệ, phân phối thu nhập … Thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo chi phối các thành phần kinh tế khác hoạt động. Mặt khác Các thành phần kinh tế trên cũng có quan hệ mâu thuẫn với nhau Do hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Một bên là công hữu, một bên là tư hữu. Bởi vậy, về lợi ích lâu dài chúng mâu thuẫn với nhau ( lợi ích xã hội, lợi ích cá nhân). Đồng thời các xí nghiệp trong các thành phần kinh tế này luôn cạnh tranh với nhau trong cơ chế thị trường để tồn tại. Việc phân chia các mối quan hệ thành các quan hệ bên trongvà quan hệ bên ngoài chỉ mang tính tương đối. Có những mối quan hệ, xét từ góc độ này là quan hệ bên trong, là cơ bản nhưng xét từ góc độ khác lại là quan hệ bên ngoài, là không cơ bản. Như đã phân tích ở trên, thành phần kinh tế tư nhân có vai trò rất quan trọng trong việc góp phần đạt được mục tiêu phát triển kinh tế nước ta. Qua mười lăm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60051.DOC