Đề tài Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội để tìm hiểu ý thức pháp quyền của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Pháp luật là một hiện tượng khách quan, nhưng sự ra đời, hình thành và phát triển của nó lại phải thông qua nhân tố chủ quan là con người, nói cách khác là thông qua ý thức pháp luật của con người. Xã hội càng phát triển thì pháp luật càng có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, do đó, ý thức pháp quyền của con người càng phải cao.

Ý thức pháp quyền là biểu hiện khả năng nhận thức của con người trong lĩnh vực pháp luật. Nếu ý thức pháp quyền là tích cực, nó trở thành điều kiện trực tiếp quan trọng để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ví dụ những người có trách nhiệm soạn thảo, xây dựng và ban hành pháp luật có ý thức pháp luật tốt, có trình độ hiểu biết pháp luật cao cũng như các công dân khác khi tham gia thảo luận, đóng góp vào việc xây dựng và ban hành pháp luật có ý thức pháp luật tốt, thì họ là những người góp phần tạo ra những văn bản pháp luật có giá trị cao. Ngược lại, nếu ý thức pháp quyền ở họ còn ở trình độ thấp, không đầy đủ thì họ sẽ không thể xây dựng được những văn bản pháp luật tốt, phù hợp với yêu cầu khách quan của xã hội.

Chính vì tầm quan trọng của ý thức pháp luật nên em chọn đề tài: “Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội để tìm hiểu ý thức pháp quyền của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.

 

doc18 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1856 | Lượt tải: 3download
Nội dung tài liệu Đề tài Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội để tìm hiểu ý thức pháp quyền của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Pháp luật là một hiện tượng khách quan, nhưng sự ra đời, hình thành và phát triển của nó lại phải thông qua nhân tố chủ quan là con người, nói cách khác là thông qua ý thức pháp luật của con người. Xã hội càng phát triển thì pháp luật càng có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, do đó, ý thức pháp quyền của con người càng phải cao. Ý thức pháp quyền là biểu hiện khả năng nhận thức của con người trong lĩnh vực pháp luật. Nếu ý thức pháp quyền là tích cực, nó trở thành điều kiện trực tiếp quan trọng để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ví dụ những người có trách nhiệm soạn thảo, xây dựng và ban hành pháp luật có ý thức pháp luật tốt, có trình độ hiểu biết pháp luật cao cũng như các công dân khác khi tham gia thảo luận, đóng góp vào việc xây dựng và ban hành pháp luật có ý thức pháp luật tốt, thì họ là những người góp phần tạo ra những văn bản pháp luật có giá trị cao. Ngược lại, nếu ý thức pháp quyền ở họ còn ở trình độ thấp, không đầy đủ thì họ sẽ không thể xây dựng được những văn bản pháp luật tốt, phù hợp với yêu cầu khách quan của xã hội. Chính vì tầm quan trọng của ý thức pháp luật nên em chọn đề tài: “Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội để tìm hiểu ý thức pháp quyền của người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI I. TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI 1.1. Tồn tại xã hội Tồn tại xã hội là toàn bộ sinh hoạt vật chất và những điều kiện sinh hoạt vật chất xã hội. V.I.Lênin khi nghiên cứu tồn tại xã hội có tính cách vừa là đời sống vật chất vừa là những quan hệ vật chất giữa người và người đã cho rằng: vịêc anh sống, anh hoạt đông kinh tế, anh sinh con đẻ cái và anh chế tạo ra các sản phẩm, anh trao đổi sản phẩm, làm nảy sinh ra một chuỗi tất yếu khách quan gồm những biến cố, những sự phát triển, không phụ thuọc vào ý thức xã hội của anh và ý thức này không bao giờ bao quát được toàn vẹn cái chuỗi đó. Các yếu tố chính tạo thành tồn tại xã hội là phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên – hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số… trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. 1.2.Ý thức xã hội Ý thức xã hội là mặt tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm , tâm trạng,… của những cộng đồng xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã hội bao gồm các hình thái khác nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, triết học,… Theo trình độ phản ánh có thể phân biệt ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận Quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. Tâm lý xã hội bao gồm toàn bộ tình cảm, ước muốn, tâm trạng, tập quán… của con người, của một bộ phận xã hội hoặc của toàn bộ xã hội hình thành dưới ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hành ngày của họ và phản ánh đời sống đó Hệ tư tưởng là trình độ nhận thức lý luận về tòn tại xã hội, là hệ thống những quan điểm, tư tưởng (chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo), kết quả của khái quát hóa những kinh nghiệm xã hội. 1.3 Biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội 1.3.1. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội. C.MÁC và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng: đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở đời sống vật chất, rằng không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó, nghĩa là không phải tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất. Sự biến đổi một thời đại nào đó cũng sẽ không thể giải thích được nếu chỉ căn cứ và ý thức của thời đại ấy. Chủ nghĩa duy vật lịch sử chỉ rõ rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học,đạo đức, văn hóa, nghệ thuật,… sớm muộn sẽ biến đổi theo.Cho nên ở những thời kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng ta thấy có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau thì đó là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định. Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội còn chỉ ra rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách đơn giản trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian.Không phải bất cứ tư tưởng, quan niện, lý luận, hình thái, ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy. Như vậy triết học Mác – Lênin đòi hỏi phải có thái độ biện chứng khi xem xét sự phản ánh tồn tại xã hội. 1.3.2 Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Khi khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, và ý thức xã hội là sự phản ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử không xem ý thức xã hội như một yếu tố thụ động, trái lại còn nhấn mạnh tác dụng tích cực của ý thức xã hội đối với đời sống kinh tế - xã hội, nhấn mạnh tính độc lập tương đối của ý thức xã hội trong mối quan hệ với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối đó được thể hiện ở những điểm sau: - Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội là do những nguyên nhân sau đây: Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của những hoạt động thực tiễn của con người, thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không phản ánh kịp và có thể trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Hai là, do sức mạnh của thói quyen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái xã hội. Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích cuả những nhóm, những tập đoàn người những giai cấp nhất định trong xã hội. - ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Khi nói tư tưởng tiên tiến có thể đi trước tồn tại xã hội, dự kiến được quá trình khách quan của sự phát triển xã hội thì không có nghĩa nói rằng trong trường hợp này ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa. Tư tưởng tiên tiến không thoát ly tồn tại xã hội, mà chỉ phản ánh chính xác, sâu sắc tồn tại xã hội. - Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước. Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính giai cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. - Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội làm cho ở mỗi hình thái ý thức xã hội có những mặt, những tính chất không thể giải thúch được một cách trực tiếp bằng tồn tại xã hội hay bằng các điều kiện vật chất. Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái ý thức khác nhau. - Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội Ph.Ăngghen viết: “sự phát triển của chính trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuât, … đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Những tất cả chúng cũng ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”. Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội; vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quân chúng. Cũng do đó, ở đây cần phải phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã hội. Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội chỉ ra bức tranh phức tạp của lịch sử phát triển của ý thức xã hộivà của đời sống tinh thần xã hội nói chung; nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. II. Ý thức pháp quyền 2.1. Khái niệm và đặc điểm của ý thức pháp quyền Ý thức pháp quyền là toàn bộ các tư tưởng, quan điểm của một giai cấp về bản chất và vai trò của pháp luật, về quyền và nghĩa vụ của nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân, về tính hợp pháp và không hợp pháp của hành vi con người trong xã hội, cùng với nhận thức và tình cảm của con người trong việc thực thi pháp luật của Nhà nước. Ý thức pháp quyền có cấu trúc tương đối phức tạp, có thể được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau. Căn cứ vào nội dung và tính chất của các bộ phận hợp thành, ý thức pháp luật bao gồm hệ tư tưởng pháp luật và tâm lý pháp luật. Căn cứ vào cấp độ và giới hạn nhận thức, ý thức pháp quyền được chia thành hai bộ phận cơ bản: ý thức pháp luật thông thường và ý thức pháp luật lý luận. Còn căn cứ vào chủ thể của ý thức pháp luật, ý thức pháp luật được chia thành: ý thức pháp luật của cá nhân, ý thức pháp luật của nhóm xã hội và ý thức pháp luật xã hội nói chung. Cũng như ý thức chính trị, ý thức pháp quyền ra đời cùng với nhà nước. Giữa hai hình thái này có sự gần nhau về cả nội dung và hình thức. Ý thức pháp quyền phản ánh trực tiếp các quan hệ kinh tế của xã hội, trước hết là các quan hệ sản xuất được thể hiện trong hệ thống pháp luật. Pháp luật và ý chí của giai cấp chính trị được thể hiện thành luật lệ, do đó mỗi chế độ xã hội, mỗi nhà nước chỉ có một hệ thống pháp luật của giai cấp nắm chính quyền. Nhưng trong xã hội có giai cấp đối kháng, các giai cấp khác nhau lại có những ý thức khác nhau về pháp luật, phản ánh lợi ích của giai cấp mình. Do đó, hiệu lực của pháp luật không những phụ thuộc vào sức mạnh cưỡng chế của nhà nước mà còn phụ thuộc và trình độ hiểu biết và tâm lý pháp luật của xã hội. 2.2. Tác động của dư luận xã hội đến ý thức pháp luật Ý thức pháp luật là hiện tượng mang tính giai cấp, xuất hiện cùng với sự xuất hiện của pháp luật. Các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau có sự thể hiện ý thức pháp luật khác nhau, trong đó ý thức pháp luật giữ vai trò chủ đạo là ý thức pháp luật của giai cấp thống trị cầm quyền. Nhưng, trước khi có sự xuất hiện nhà nước, pháp luật và cùng với đó là ý thức pháp luật, những yếu tố tham gia định hướng và điều chỉnh ý thức, hành vi xã hội của con người lại chính là đạo đức, phong tục, tập quán, truyền thống, tôn giáo, tín ngưỡng... đặc biệt là dư luận xã hội. - Sự tác động của dư luận xã hội đến hệ tư tưởng pháp luật Dư luận xã hội tác động trực tiếp và gián tiếp đến sự hình thành và phát triển của hệ tư tưởng pháp luật. Với tư cách một hiện tượng xã hội, dư luận xã hội phản ánh tồn tại xã hội nói chung, đồng thời phản ánh các sự kiện, hiện tượng pháp lý xảy ra trong đời sống xã hội Khi đã hình thành, dư luận xã hội biểu thị thái độ, quan điểm, cảm xúc, ý chí tập thể của đại đa số người trong cộng đồng xã hội trước thực tiễn đời sống pháp luật của xã hội, thể hiện trình độ nhận thức cao, có tính hệ thống về các vấn đề mang tính bản chất của pháp luật và các hiện tượng pháp luật. Dư luận xã hội làm nảy sinh trong nhận thức của mọi người những khái niệm cơ sở, mang tính bề ngoài, ngẫu nhiên và sau đó là những tri thức phản ánh đúng đắn bản chất của các hiện tượng pháp lý. Từ đó, hình thành nên các quan điểm, quan niệm, tư tưởng phản ánh những vấn đề có liên quan đến pháp luật. Khi giai cấp thống trị là lực lượng tiến bộ trong xã hội, có lợi ích giai cấp phù hợp với lợi ích cơ bản của các lực lượng xã hội khác thì tính dân chủ, tính khoa học và tính xã hội của hệ tư tưởng pháp luật sẽ thể hiện nổi trội, rõ nét. Trong điều kiện như vậy, nội dung của các nhận định, đánh giá về những sự kiện, hiện tượng pháp lý mà dư luận xã hội đưa ra sẽ tương ứng và phù hợp với các giá trị, chuẩn mực pháp luật của hệ tư tưởng pháp luật chính thống, nghĩa là ý chí của giai cấp cầm quyền có nhiều nét tương đồng với dư luận xã hội của các tầng lớp nhân dân. Qua đó, dư luận xã hội có tác động mạnh mẽ và tích cực tới sự hình thành, phát triển và phổ biến hệ tư tưởng pháp luật trong xã hội. Khi giai cấp cầm quyền trong xã hội, vì những lý do nhất định, muốn duy trì một hệ tư tưởng pháp luật lạc hậu, bảo thủ, thì các quan niệm, tư tưởng pháp lý của nó chỉ nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị, đi ngược lại các giá trị dân chủ, nhân văn trong xã hội. - Sự tác động của dư luận xã hội đến tâm lý pháp luật Một là, dư luận xã hội có tác động mạnh mẽ tới tình cảm pháp luật. Tình cảm pháp luật là yếu tố cơ bản của tâm lý pháp luật, thường được hình thành một cách tự phát dưới ảnh hưởng của hoạt động giao tiếp hàng ngày của con người với môi trường pháp lý xung quanh. Và, do là yếu tố mang tính tự phát, chịu sự chi phối của phong tục, tập quán, kinh nghiệm sống và nếp sống của con người, nên tình cảm pháp luật có thể được bộc lộ dưới dạng các phản ứng tích cực, cũng như tiêu cực của mỗi người trước những sự kiện, hiện tượng pháp lý diễn ra trong thực tế. Hai là, dư luận xã hội tác động tới tâm trạng của con người trước luật pháp. Tâm trạng của con người trước luật pháp là sự thể hiện trạng thái tâm lý của các cá nhân trước các sự kiện, hiện tượng pháp lý diễn ra trong đời sống xã hội thường ngày. Ba là, thông qua dư luận xã hội, các cá nhân tự đánh giá về hành vi ứng xử của mình trong phạm vi điều chỉnh của các quy phạm pháp luật hiện hành. Tâm lý pháp luật không chỉ biểu hiện ở tình cảm pháp luật, tâm trạng của con người trước luật pháp, mà nó còn được biểu hiện ra ở việc các cá nhân tự đánh giá về hành vi ứng xử của mình trong môi trường điều chỉnh của pháp luật. á nhân tự đánh giá về hành vi ứng xử của mình có thể biểu hiện dưới dạngHành vi pháp luật của con người, trong chừng mực nhất định, chính là sự hiện thân của tình cảm pháp luật và tâm trạng trước luật pháp của họ. Cách thức mà mỗi c cảm xúc, như tự hào, phấn khởi hay e ngại, xấu hổ, lo lắng... Những phán xét, đánh giá (khen - chê, biểu dương - lên án...) của dư luận xã hội đối với hành vi của các cá nhân, ở một mức độ nào đó, đều tham gia vào việc điều chỉnh hành vi pháp luật của cá nhân. Như vậy, có thể nói, dư luận xã hội luôn có tác động mạnh mẽ đến tâm lý pháp luật. Tác động đó được thể hiện trên ba phương diện. Thứ nhất, tác động tới tình cảm pháp luật của con người, góp phần định hướng cho sự hình thành tình cảm pháp luật của mỗi công dân. Thứ hai, tác động tới tâm trạng của con người trước luật pháp cả theo hướng tích cực lẫn tiêu cực. Thứ ba, tác động đến sự tự đánh giá, tự điều chỉnh hành vi ứng xử của mỗi cá nhân trong phạm vi điều chỉnh của các quy phạm pháp luật hiện hành CHƯƠNG II: Ý THỨC PHÁP QUYỀN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY I. THỰC TRẠNG Ý THỨC PHÁP QUYỀN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM Thực trang ý thức pháp quyền của người việt nam. Đó là thiếu ý thức pháp luật. Tuy không phải trào lưu nhưng ý thức tuân thủ pháp luật của dân còn rất kém- có thể kể cả ngày không hết. Nhẹ thì vi phạm Luật Giao thông. Cao hơn tý nữa là lấn chiếm đất đai, rồi xây dựng trái phép… 1.1. Thiếu ý thức pháp luật trong việc chấp hành luật lệ giao thông Ý thức chấp hành Luật Giao thông đường bộ của người tham gia giao thông hiện nay rất kém, đây chính là nguyên nhân hàng đầu khiến tình hình tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông tăng đột biến. Đặc biệt tại TPHCM - một thành phố lớn của cả nước - vấn đề ý thức của người dân đang trở thành một thực trạng đáng báo động. Lâu nay, khi đề cập đến ý thức của người tham gia giao thông, các cơ quan chức năng thường đưa ra nhận định khá nhẹ nhàng: "Ý thức chấp hành Luật Giao thông đường bộ của người tham gia giao thông còn hạn chế". Song lần này, tại Nghị quyết 32 (ngày 29.6.2007), Chính phủ đã chỉ rõ: "Ý thức chấp hành pháp luật trật tự ATGT của người tham gia giao thông kém, nhiều người vi phạm trật tự ATGT rất ngang nhiên mà không bị xử lý hoặc xử lý không nghiêm...". Thống kê của Phòng CSGT đường bộ - Công an TP cho thấy, số người tham gia giao thông vi phạm ngày càng tăng, năm sau luôn cao hơn năm trước. Nếu năm 2005, CSGT xử phạt khoảng 991.000 trường hợp vi phạm, với số tiền trên 50 tỉ đồng, thì đến năm 2006, con số vi phạm bị xử phạt lên đến gần 1,3 triệu trường hợp, với số tiền xử phạt trên 100 tỉ đồng. Riêng 7 tháng đầu năm 2007, trên địa bàn thành phố đã có gần 700.000 lượt vi phạm (tăng 130.000 vụ so thời điểm 2006). 1.2. Lấn chiếm đất đai – người dân thiếu ý thức Mặc dù Luật Ðất đai và các Nghị định hướng dẫn thi hành đã có hiệu lực và được triển khai, nhưng từ năm 2004 đến nay, vấn đề tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai chưa hết tính thời sự. Theo thống kê của Bộ TN&MT, mỗi năm Bộ này tiếp nhận tới 8.000 lượt đơn, thư về lĩnh vực này. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên?  Bộ trưởng Bộ TN&MT Mai Ái Trực cho rằng, có 6 nguyên nhân dẫn đến tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai. Ðó là: sự biến động lớn về chủ sử dụng đất; Sự bất cập trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; Sự thiếu gương mẫu, sa sút về phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức; sự thiếu hiểu biết và thiếu ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận nhân dân... II. NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP CHO TÌNH TRẠNG THIẾU Ý THỨC PHÁP QUYỀN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM 2.1. Nguyên nhân của tình trạng thiếu ý thức pháp quyền của người Việt Nam 2.1.1. Yếu kém và hạn chế của pháp luật Lâu nay có lẽ cũng vì quá đề cao, nhấn mạnh, thậm chí tuyệt đối hoá pháp luật, đôi khi người ta quên mất rằng pháp luật tự thân nó cũng hàm chứa không ít những điểm yếu, và cần thiết phải được bổ khuyết, đây chính là góc khuất của pháp luật mà đôi khi chúng ta ít để ý tới, hoặc coi nhẹ chúng. Điểm yếu cố hữu của pháp luật là tính chủ quan, sự khái quát hoá quá cao, và tính dễ bị lạc hậu so với sự đổi thay nhanh chóng của cuộc sống. - Điểm yếu thứ nhất là tính chủ quan. Ở những đô thị lớn nơi có trình độ dân trí cao, nếu vi phạm, việc xử lí sẽ khác. Vùng sâu, vùng xa vi phạm, việc xử lí cũng sẽ khác. Cách thức xử lí sẽ không thể hoàn toàn giống nhau, và sự khác nhau đó cũng là do tính chủ quan chi phối. Như vậy từ việc ban hành đến việc thực hiện pháp luật đều do con người thực hiện. Bản thân con người là một thực thể đầy mâu thuẫn và không hoàn thiện, làm sao luật pháp - sản phẩm do con người làm ra, có thể tuyệt đối hoàn thiện được. Do vậy pháp luật không phải bao giờ cũng đúng, cũng là chân lí. Đó cũng chỉ là những gì người ta cho rằng đó là sự thật và mọi người phải tuân theo. Hơn nữa, nói chủ quan, điều đó cũng có nghĩa rằng pháp luật là thể hiện ý chí. Mang trong nó là những toan tính và lợi ích trước hết của chủ thể ban hành. Và đương nhiên ai cũng hiểu không phải lúc nào pháp luật cũng đáp ứng mong mỏi của tất cả các thành viên của toàn xã hội. - Điểm yếu thứ hai là tính khái quát hoá quá cao. Ai cũng biết pháp luật là những qui tắc xử sự phổ biến, do vậy, cần phải mang tính khái quát hoá cao. Sự khái quát hoá cao đó giữ cho luật pháp vừa ổn định lại vừa đảm bảo công bằng và thống nhất. Song chính ở tính khái quát hoá quá cao, pháp luật cũng dễ dàng bộc lộ điểm yếu nhất, khiến nó khó đi vào cuộc sống. Thực tế cho thấy mọi tình huống pháp luật xảy ra đời thường là ở những không gian, thời gian, địa điểm và hoàn cảnh sống cụ thể nhưng cũng rất khác nhau, không có tình huống nào giống hoàn toàn với tình huống nào.Bởi vậy khi áp dụng nếu chỉ chú ý đến qui định của điều luật mà không quan tâm đến hoàn cảnh kinh tế, trình độ nhận thức, khả năng giáo dục và nhiều yếu tố khác, áp dụng luật pháp không những có thể sai lầm mà còn dễ trở thành sự ám ảnh về tính trừng phạt hơn là tính giáo dục, hơn là "sự cần thiết" để vì trật tự chung. - Điểm yếu thứ ba là tính dễ bị lạc hậu so với cuộc sống. Pháp luật suy cho cùng chỉ là sự phản ứng của con người trước những đổi thay của tự nhiên và xã hội. Do vậy pháp luật luôn đi sau cuộc sống. Dù hoàn thiện đến đâu, pháp luật cũng không thể điều chỉnh hết được các quan hệ xã hội. Như vậy sự điều chỉnh của pháp luật thường là sự điều chỉnh sau. Sự trừng phạt của luật pháp đôi khi chỉ làm cho người ta sợ mà không vi phạm chứ chưa chắc là liệu pháp hoàn toàn hiệu năng trong mọi trường hợp. Trong hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật cần phải kết hợp và đặt pháp luật trong mối liên hệ với những qui phạm xã hội khác như đạo đức; phong tục, tập quán; điều lệ của các tổ chức xã hội, v.v… Những dạng qui phạm này đều ra đời trước pháp luật. Tuy không có tính minh bạch và rõ ràng như luật pháp, không có cơ quan công quyền là nhà nước đứng ra đảm bảo thực hiện, và thường là những chuẩn mực định tính khó đo đếm. Nhưng nó lại có nhiều ưu điểm và nhiều mặt tích cực mà luật pháp không thể có được. 2.1.2. Nhận thức truyền thống của người dân Việt Nam Trong nhận thức truyền thống của xã hội Việt Nam, pháp luật không phải là một cách giải quyết tranh chấp được ưa chuộng, người dân thích sự xử với nhau hơn là đưa nhau ra tòa, câu "nhất đảo tụng đình" thể hiện thái độ của người dân đối với toà án, người ta coi chuyện ra toà là một cái gì đó ghê gớm. Như vậy từ khâu đầu tiên các sản phẩm pháp luật đã không được ưa chuộng ngay trong nhận thức của xã hội và khó có thế nói về nhu cầu đối với pháp luật một khi trong xã hội người tiêu dùng của pháp luật vẫn phổ biến nhận thức như vậy. Người dân Việt Nam đã phải sống quá lâu trong chế độ đô hộ, phong kiến, thực dân. Do đó pháp luật theo người dân Việt là công cụ của kẻ thống trị, của ngoại bang chỉ để trấn áp, trừng trị và phục vụ thiểu số người. Bất tuân pháp luật là sự phản ứng của người Việt  trước kiểu pháp luật ấy. Chính vì vậy người dân không tìm thấy trong pháp luật trước đây những giá trị phản ánh lợi ích của mình nên đã hình thành nên một phản xạ luôn đặt pháp luật trong tư thế đối lập Pháp luật là của Nhà nước, Nhà nước không phải của dân. Còn người dân thì quay về cố thủ sau luỹ tre làng và bằng lòng với những lệ làng, hương ước tuy giản dị đơn sơ và có phần hoang dã nhưng lại phản ánh được ý chí của người dân Việt Nam. 2.2. GIẢI PHÁP CHO VIỆC NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP QUYỀN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để nâng cao ý thức chấp hành của các tầng lớp nhân dân. - Chú trọng tuyên truyền pháp luật về hội nhập kinh tế quốc tế; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; an toàn giao thông... Tập trung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho sáu nhóm đối tượng gồm: Cán bộ, công chức, viên chức; người dân thành phố, người dân nông thôn, đồng bào dân tộc thiểu số; cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang; thanh thiếu niên; người sử dụng lao động, người lao động trong các doanh nghiệp; người nước ngoài ở Việt Nam và người Việt Nam ở nước ngoài. Nội dung pháp luật được lựa chọn tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng, địa bàn. Tập trung tuyên truyền văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến đời sống cán bộ, nhân dân, trong đó, chú trọng tuyên truyền, phổ biến quy định pháp luật liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế; phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; phòng, chống các tệ nạn xã hội; an toàn giao thông; vệ sinh an toàn thực phẩm; thực hiện quy chế dân chủ cơ sở... - Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Để công tác giáo dục, phổ biến pháp luật đạt hiệu quả cao, cần củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp bằng cách định kỳ tổ chức các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị, tập huấn kiến thức, nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng về ngoại ngữ và tiếng dân tộc cho đội ngũ cán bộ làm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật tại những địa bàn liên quan. Bên cạnh đó, phát huy vai trò của các luật gia, cán bộ công đoàn, cán bộ Đoàn TNCSHCM, đội thanh niên tình nguyện,... để thực hiện tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. - Đổi mới các hình thức, biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật Đa dạng hóa các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, triển khai trên diện rộng những hình thức mới đang phát huy hiệu quả trên thực tế. Tăng cường giới thiệu các quy định pháp luật thông qua hình thức tuyên truyền miệng tới tận cơ sở như trao đổi, đối thoại, thảo luận, giải đáp những yêu cầu từ phía người dân nhằm nâng cao tính chủ động trong việc tiếp nhận kiến t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10268.doc
Tài liệu liên quan