Đề tài Vận dụng lý thuyết về hình thái kinh tế, xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Như chúng ta đã biết học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của Mác ra đời trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về xã hội. Học thuyết của mac về hình thái kinh tế - xã hội lần đầu tiên cung cấp những tiêu chuẩn thực sự duy vật, khoa học cho việc phân kỳ lịch sử, giúp con người hiểu được logic khách quan của quá trình tiến hoá xã hội hay nói cách khác học thuyết chính là cơ sở để phân chia sự khác nhau giữa các thời kỳ lịch sử, tìm ra những nguyên nhân của sự xuất hiện và biến đổi của các hiện tượng xã hội, giúp chúng ta có phương pháp khoa học để nghiên cứu sự phát triển của lịch sử. Vận dụng đúng luật sẽ giúp chúng ta nghiên cứu được một hình thái kinh tế - xã hội cụ thể trên cơ sở đó tìm ra được mô hình kinh tế - xã hội của xã hội đó.

Tuy nhiên trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, kẻ thù tư tưởng của chủ nghĩa Mác lại mở đợt tấn công mới vào học thuyết Mác nói chung và lý luận hình thái kinh tế - xã hội nói riêng. Mặt khác, trong bối cảnh tình hình quốc tế diễn biến nhanh chóng, phức tạp như hiện nay, ở nước ta lại thỉnh thoảng bùng lên ý kiến đòi xem lại con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn. Hay lại có ý kiến cho rằng cụ Hồ "nhập" chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam quá sớm vì thế chủ nghĩa xã hội bị "đẻ non" dẫn tới tình trạng yếu ớt, còi cọc. Đó chính là lý do làm cho Việt Nam chậm tiến, lạc hậu, ì ạch mãi mà không "cất cánh lên được". Sở dĩ có sự phát sinh những tư tưởng chống đối đó là do sau khi dành được được độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, xác định đó là mục tiêu cần đạt được trong quá trình xây dựng đất nước. Tuy nhiên trong quá trình cải tạo do chủ quan duy ý chí, nóng vội nên chúng ta đã mắc phải nhiều sai lầm làm cho kẻ thù có điều kiện đả kích, chống phá. Nước ta đang trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do đó việc nghiên cứu không chỉ dừng lại ở mức độ bình thường mà cần phải nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện để có hiểu hết được ý nghĩa của lý luận, có như thế thì mới vận dụng được một cách sáng tạo vào tình hình cụ thể của đất nước.

doc17 trang | Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1228 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đề tài Vận dụng lý thuyết về hình thái kinh tế, xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Như chúng ta đã biết học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của Mác ra đời trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng về xã hội. Học thuyết của mac về hình thái kinh tế - xã hội lần đầu tiên cung cấp những tiêu chuẩn thực sự duy vật, khoa học cho việc phân kỳ lịch sử, giúp con người hiểu được logic khách quan của quá trình tiến hoá xã hội hay nói cách khác học thuyết chính là cơ sở để phân chia sự khác nhau giữa các thời kỳ lịch sử, tìm ra những nguyên nhân của sự xuất hiện và biến đổi của các hiện tượng xã hội, giúp chúng ta có phương pháp khoa học để nghiên cứu sự phát triển của lịch sử. Vận dụng đúng luật sẽ giúp chúng ta nghiên cứu được một hình thái kinh tế - xã hội cụ thể trên cơ sở đó tìm ra được mô hình kinh tế - xã hội của xã hội đó. Tuy nhiên trước sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, kẻ thù tư tưởng của chủ nghĩa Mác lại mở đợt tấn công mới vào học thuyết Mác nói chung và lý luận hình thái kinh tế - xã hội nói riêng. Mặt khác, trong bối cảnh tình hình quốc tế diễn biến nhanh chóng, phức tạp như hiện nay, ở nước ta lại thỉnh thoảng bùng lên ý kiến đòi xem lại con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lựa chọn. Hay lại có ý kiến cho rằng cụ Hồ "nhập" chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam quá sớm vì thế chủ nghĩa xã hội bị "đẻ non" dẫn tới tình trạng yếu ớt, còi cọc. Đó chính là lý do làm cho Việt Nam chậm tiến, lạc hậu, ì ạch mãi mà không "cất cánh lên được". Sở dĩ có sự phát sinh những tư tưởng chống đối đó là do sau khi dành được được độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, xác định đó là mục tiêu cần đạt được trong quá trình xây dựng đất nước. Tuy nhiên trong quá trình cải tạo do chủ quan duy ý chí, nóng vội nên chúng ta đã mắc phải nhiều sai lầm làm cho kẻ thù có điều kiện đả kích, chống phá. Nước ta đang trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do đó việc nghiên cứu không chỉ dừng lại ở mức độ bình thường mà cần phải nghiên cứu một cách sâu sắc, toàn diện để có hiểu hết được ý nghĩa của lý luận, có như thế thì mới vận dụng được một cách sáng tạo vào tình hình cụ thể của đất nước. Nghiên cứu lý luận sẽ giúp chúng ta nhận thức một cách khách quan hơn về sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Bác Hồ và Đảng ta - sự lựa chọn đó là một tất yếu lịch sử bởi vì lịch sử đòi hỏi phải như thế chứ không thể khác được. Trong khuôn khổ của một bài tiểu luận, tôi chỉ xin đề cập một cách khái quát nhất, tổng quan nhất về lý luận hình thái kinh tế - xã hội của Mác với việc vận dụng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay. A. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của Mác 1. Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. 2. Kết cấu hình thái kinh tế - xã hội Mỗi một hình thái kinh tế - xã hội bao giờ cũng gồm ba bộ phận cấu thành: Lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi bộ phận có một vị trí, vai trò nhất định và có quan hệ biện chứng với các bộ phận khác trong hình thái kinh tế xã hội. 2.1 Lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất là sự biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. Nó là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tác động vào tự nhiên. Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất trong đó người lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất. Người lao động với tư cách là một bộ phận của lực lượng sản xuất phải là người có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có kinh nghiệm, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen ở một trình độ nhất định do mức độ và tính chất của từng công việc quy định. Bên cạnh người lao động thì tư liệu sản xuất cũng là một bộ phận không thể thiếu được cấu thành nên lực lượng sản xuất. Cùng với đối tượng lao động thì công cụ lao động cũng là một thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Trong mọi thời đại thì công cụ sản xuất luôn là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất, biểu hiện năng lực thực tiễn của con người ngày một tăng thêm, trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất - kỹ thuật của một hình thái kinh tế - xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xét đến cùng là nguồn gốc xâu xa của sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội. Lực lượng sản xuất luôn đóng vai trò quan trọng nhất, là nền tảng vật chất - kỹ thuật trong mọi hình thái kinh tế - xã hội. Mặt khác, sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng thể hiện tính liên tục trong sự phát triển của xã hội loài người, tính liên tục có sự kế thừa truyền thống. 2.2 Quan hệ sản xuất Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, là quan hệ cơ bản chi phối và quyết định mọi quan hệ xã hội. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý, quan hệ về phân phối sản phẩm. Ba mặt nói trên thống nhất hữu cơ tạo thành quan hệ sản xuất trong đó thì quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng nhất nhưng không phải là duy nhất. Quan hệ về tổ chức quản lý và quan hệ về phân phối sản phẩm cũng có sự tác động trở lại đối với quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Quan hệ sản xuất được hiểu là những quan hệ vật chất, quan hệ kinh tế của đời sống xã hội hay nói cách khác quan hệ sản xuất chính là nền tảng vật chất - xã hội của một hình thái kinh tế - xã hội. Quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều hình thành dựa trên những quan hệ sản xuất xác định, trong đó quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất của quan hệ sản xuất quy định bản chất của quan hệ xã hội. Tính vật chất của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ nó tồn tại khách quan độc lập hoàn toàn với ý thức của con người. Chính vì điều này mà con người không thể tuỳ ý lựa chọn quan hệ sản xuất cho riêng mình bởi vì chúng luôn luôn là kết quả tồn tại tất yếu khách quan của một lực lượng sản xuất hiện có tương ứng với nó, quan hệ sản xuất chính là bộ xương của hình thái kinh tế - xã hội, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt hình thái kinh tế - xã hội này với hình thái kinh tế- xã hội khác. 2.3 Kiến trúc thượng tầng Bộ phận cơ bản thái thứ ba trong hình thái kinh tế - xã hội là kiến trúc thượng tầng tương ứng nghĩa là một kiểu kiến trúc thượng tầng do cơ sở hạ tầng sinh ra trong đó cơ sở hạ tầng là sự tổng hợp của quan hệ sản xuất. Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định. 2.4 Mối quan hệ biện chứng giữa các bộ phận của hình thái kinh tế - xã hội 2.4.1 Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất của trình độ phát triển của lực lượng sản xuất Tất cả chúng ta đều biết lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt hợp thành phương thức sản xuất, giữa chúng có sự tác động qua lại biện chứng với nhau hình thành quy luật xã hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người. Quy luật về sự phù hợp quan hệ sản xuất với tính chất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vạch rõ tính chất phù hợp khách quan của quan hệ sản xuất và sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất cũng là một cách khách quan. Như đã nói ở trên mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Để tìm hiểu quy luật này thì trước hết chúng ta cần phải hiểu thế nào là tính chất lực lượng sản xuất, thế nào là trình độ của lực lượng sản xuất. Nói một cách khái quát thì tính chất của lực lượng sản xuất chính là tính cá nhân hay tính xã hội của lực lượng sản xuất, còn trình độ của lực lượng sản xuất chính là trình độ cao hay thấp tinh xảo hiện đại hay lạc hậu của lực lượng sản xuất, của phân công lao động xã hội trong mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ xã hội mà trước hết là quyết định sự hình thành quan hệ sản xuất. Ta phải khẳng định một điều rằng chính từ việc con người tác động vào tự nhiên (lực lượng sản xuất) đã làm nảy sinh mối quan hệ giữa con người với nhau trong quan hệ sản xuất mà quan hệ sản xuất lại biểu hiện mối quan hệ giữa con người trong quá trình sản xuất. Do đó, quan hệ sản xuất nảy sinh trực tiếp từ lực lượng sản xuất, không những thế lực lượng sản xuất còn quyết sự phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất. Như chúng ta đã biết xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển, sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Trong quá trình sản xuất để cho lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả cao hơn thì con người không ngừng cải tiến, hoàn thiện và tạo ra những công cụ sản xuất tinh xảo hơn. Đồng thời với sự tiến bộ của công cụ, tri thức khoa học, trình độ chuyên môn kỹ thuật và mọi kỹ năng của người lao động ngày càng phát triển. Yếu tố năng động này của lực lượng sản xuất đòi hỏi quan hệ sản xuất thích ứng với nó, khi lực lượng sản xuất biến đổi, phát triển thì sớm hay muộn nó cũng sẽ làm cho quan hệ sản xuất biến đổi theo. Lực lượng sản xuất như thế nào thì quan hệ sản xuất như thế ấy, lực lượng sản xuất biến đổi thì quan hệ sản xuất biến đổi theo. Tương ứng với một lực lượng sản xuất nhất định thì có quan hệ sản xuất nhất định phù hợp với nó về tính chất và trình độ. Tuy nhiên thì khi phù hợp cũng như lúc không phù hợp với lực lượng sản xuất thì quan hệ sản xuất luôn có tính độc lập tương đối đối với lực lượng sản xuất, điều đó được thể hiện trong nội dung sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Như chúng ta đã biết, quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát triển. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của nền sản xuất nên nó quy định thái độ của con người đối với lực lượng sản xuất. Mặt khác, quan hệ sản xuất cũng là hình thức xã hội của quá trình sản xuất còn lực lượng sản xuất là nội dung của quá trình đó mà theo biện chứng duy vật thì hình thức tác động trở lại nội dung, do đó quan hệ sản xuất luôn có sự tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất và luôn tác động thông qua các quy luật kinh tế - xã hội đặc biệt là quy luật kinh tế cơ bản. Nhưng cần chú ý là ở đây có sự tác động hai chiều: chiều phù hợp và chiều không phù hợp. Khi quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ trở thành động lực chính để phát triển lực lượng sản xuất. Nhưng khi quan hệ sản xuất không còn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất thậm chí còn phá hoại lực lượng sản xuất. Từ sự phù hợp đến không phù hợp là xu thế khách quan của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Thực tế thì không phải lúc nào quan hệ sản xuất cũng phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, hơn nữa ngay cả khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất đã bao hàm trong nó cả sự không phù hợp rồi nghĩa là giữa chúng có mâu thuẫn. Giải quyết những mâu thuẫn này phải xuất phát từ tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất mà đặt ra những yêu cầu cho việc điều chỉnh quan hệ sản xuất cho phù hợp. 2.4.2 Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng Như đã nói ở trên, cơ sở hạ tầng là sự tổng hợp tất cả những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi một hình thái kinh tế - xã hội có một cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng xác định, nó hình thành một cách khách quan và gắn liền với những điều kiện xã hội cụ thể. Trong đó cơ sở hạ tầng, toàn bộ những quan hệ kinh tế của xã hội bao giờ cũng giữ vai trò quyết định mà trước hết là quyết định sự hình thành, quyết định nội dung và tính chất của kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng nào thì kiến trúc thượng tầng ấy hay giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế thì đồng thời cũng là giai cấp thống trị xã hội về tất cả các mặt khác. Cơ sở hạ tầng thay đổi thì nhất định sớm hay muộn sẽ dẫn đến sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng, quá trình này diễn ra ngay trong từng hình thái kinh tế - xã hội cũng như chuyển tiếp từ hình thái này sang hình thái kinh tế - xã hội khác. Trong các xã hội có đối kháng giai cấp, mâu thuẫn của cơ sở hạ tầng được biểu hiện là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Khi cơ sở hạ tầng cũ bị xoá bỏ thì kiến trúc thượng tầng cũ cũng mất đi thay vào đó là kiến trúc thượng tầng mới được hình thành từng bước thích nghi với cơ sở hạ tầng mới. Tuy nhiên sự biến đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi của kiến trúc thượng tầng là một quá trình diễn ra phức tạp. Đó là quá trình đấu tranh lâu dài trên tất cả các lĩnh vực của đời sống và xã hội. Các bộ phận của kiến trúc thượng tầng không phải phụ thuộc một chiều vào cơ sở hạ tầng mà trong quá trình phát triển chúng có tác động qua lại với nhau và quan hệ lớn đến cơ sở hạ tầng cũng như các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Điều này có nghĩa là kiến trúc thượng tầng luôn có tính độc lập tương đối, sự phụ thuộc của nó vào cơ sở hạ tầng thường không trực tiếp và không đơn giản, kiến trúc thượng tầng không phải là sản phẩm thụ động của cơ sở hạ tầng mà chúng có khả năng tác động trở lại mạnh mẽ đối với cơ cấu kinh tế của xã hội. Kiến trúc thượng tầng thực hiện nhiệm vụ củng cố, bảo vệ, duy trì sự phát triển của cơ sở hạ tầng sinh ra nó và đấu tranh chống lại cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng đối lập với nó. Trong các bộ phận của kiến trúc thượng tầng thì nhà nước là bộ phận quan trọng nhất và tác động mạnh mẽ nhất xuống cơ sở hạ tầng vì Nhà nước là công cụ bạo lực, tập trung trong tay sức mạnh kinh tế và chính trị của giai cấp thống trị. Khi đề cập đến việc tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng chúng ta phải hiểu ở đây có sự tác động hai chiều: chiều tích cực và chiều tiêu cực. Nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng và phù hợp với kinh tế tiến bộ thì nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng do đó sẽ thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội. Ngược lại, nếu kiến trúc thượng tầng tác động ngược chiều với sự vận động cảu cơ sở hạ tầng, khi nó là sản phẩm của những kinh tế lỗi thời thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của cơ sở hạ tầng và do đó kìm hãm sự phát triển của kinh tế - xã hội. Nhưng tác động kìm hãm đó chỉ là tạm thời, sớm muộn sẽ bị cách mạng khắc phục về cơ bản. 3. Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên Là bởi vì một điều đơn giản là con người muốn sống trước hết phải ăn, mặc, ở rồi mới có thể nói đến chính trị khoa học . Mà muốn nói được điều đó thì con người phải tiến hành sản xuất vật chất . Chính sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển xã hội, lịch sử của xã hội loài người thực chất là sự phát triển của sản xuất vật chất . Sự phát triển và biến đổi không ngừng của lực lượng sản xuất kéo theo sự thay thế lẫn nhau của các quan hệ sản xuất , phương thức sản xuất.Phương thức sản xuất thay đổi kéo theo toàn bộ trật tự xã hội thay đổi là sự thay đổi của các hình thái kinh tế xã hội theo quy luật hình thái kinh tế xã hội sau cao hơn , tiến bộ hơn thay thế hình thái kinh tế xã hội trước. Quá trình phát triển này là một quá trình chịu sự tác động của những quy luật khách quan không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người bởi ngay yếu tố đầu tiên , yếu tố quan trọng nhất là lực lượng sản xuất đã thể hiện sự khách quan . Lực lượng sản xuất tuy được tạo ra bằng năng lực thực tiễn của con người xong không phải con người làm ra theo ý muốn chủ quan , người ta làm ra lực lượng sản xuất của mình dựa trên những lực lượng sản xuất đã đạt được trước đó, lực lượng sản xuất phát triển do tính tất yếu của những nhu cầu và ham muốn của con người. Mặt khác thì sự phát triển của xã hội, sự thay thế lẫn nhau của các hình tháI\i kinh tế xã hội cũng tuân theo quy luật khách quan vốn có của nó, động lực phát triển của xã hội nằm ngay trong lòng của xã hội đó là sự vận động của các mâu thuẫn xã hội mà trước hết là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mâu thuẫn giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Khi đề cập đến sự phát triển của các hình tháI kinh tế xã hội ta không thể phủ nhận tính phong phú nhiều vẻ của nó bởi lẽ sự phát triển của xã hội không những phụ thuộc vào những quy luật chung , quy luật đặc thù của tong hình thái trong những điều kiện cụ thể mà còn bị phụ thuộc, chi phối bởi những điều kiện địa lý , tính độc đáo của nền văn hoá dân tộc, hệ tư tưởng tâm lý xã hội…Sự phụ thuộc và tác động qua lại giữa chúng là điều kiện để náy sinh sự phong phú và đa dạng của đời sống xã hội. B. Vận dụng lý thuyết về hình tháI kinh tế xã hội vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đảng ta sau khi nghiên cứu lý luận về hình thái kinh tế xã hội và nhận thấy được bản chất tốt đẹp của hình thái xã hội chủ nghĩa đã quyết tâm đưa đất nước ta tiến lên theo định hướng đó. Để xem xét sự lựa trọn đó của đảng ta là đúng hay sai, có phù hợp với quy luật phát triển chung hay không ?. Chúng ta hãy cùng phân tích một cách khái quát nhất một số vấn đề sau đây : 1. Đi lên chủ nghĩa xã hội con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam Trước hết phải nói rằng khuynh hướng phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa không phải là kết quả của chủ quan duy ý trí mà là một khuynh hướng phát triển khách quan, có thực trong đời sống xã hội. Chúng ta lựa trọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ nghĩa tư bản là do tính tất yếu của thời đại, do những điều kiện khách quan cũng như chủ quan quy định. 2. Nguyên lý về hình thái kinh tế xã hội chi phối định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 2.1.Sự nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa xã hội trong tình hình mới Xây dựng xã hội chủ nghĩa là mục tiên của đảng và nhân dân ta. Đổi mới là không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm sao chu mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, bằng hình thức , bước đi và biện pháp thích hợp . Chủ nghĩa Mác- Lênin sẽ là nền tảng tư tưởng và là kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta.Loại bỏ những quan niệm sai lầm khắc phục những quan niệm lạc hậu lỗi thời về chủ nghĩa Mác- Lênin, về chủ nghĩa Xã Hội, vận dụng sáng tạo và phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng, hiệu lực quản lý nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân , nghĩa là tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chuyên chính vô sản làm cho các tổ chức chính trị hoạt động năng động có hiệu quả hơn. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định sự thắng lợi của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ thành quả xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Xây dựng nền dân chủ xã hộ chủ nghĩa phát huy quyền lảm chủ của nhân dân ta trên mọi lĩnh vực vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dân chủ phải đi đôi với tập chung, kỷ luật, pháp luật với ý thức trách nhiệm công dân. Dân chủ phải có lãnh đạo để phát huy dân chủ đúng hướng. 2.2 Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở cho lí luận của sự nghiệp của CNH- HĐH đất nước- điều kiện xây dựng lực lượng sản xuất cần thiết. Trước hết ta cần phải hiểu công nghiệp hoá hiện đại hoá là tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội mới. Chúng ta đề biết rằng từ tướng đó đến nay công nghiệp hoá hiện đại hoá khuynh hướng phát triển tất yếu của mọi đất nước. Đối với nước ta, từ một nền kinh tế kiểu nông muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu nhanh chóng đạt tới trình độ một nước phát triển tất yếu phải đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá như là một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc. Đại hội đại biểu lần thứ 8 của Đảng đã khẳng định " Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của một lực lượng sản xuất", có thể nói những lí luận tương tự cơ bản trong học thuyết của Mác về hình thái kinh tế-xã hội chính là cơ sỏ lí luận cho phép chúng ta khảng định sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá ở nước ta hiện nay là phù hợp với quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc, của thời đại. Đối với vấn đề nước ta để phù hợp với lực lượng sản xuất Đản ta đã nêu công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp với bước tiến tuần tự về công nghệ với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đi đầu, hình thành những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học công nghệ chung. 2.3 Tính tất yếu phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng đúng đắn về mặt quan hệ sản xuất trong thời kì mới. Như đã phân tích ,bất kì một xã hội nào muốn phát triển thì cũng đều phải tuân theo quy luật khách quan đó là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Công nghiệp hoá - hiện đai hoá đất nước tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ mới thì đương nhiên ta cũng phả chú trọng xây dựng một quan hệ sản xuất mới cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Muốn vậy ta phải chú trọng xây dựng và phát nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cớ chế thị trượng có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hộ chủ nghĩa vừa bảo đảm để mọi thành phần kinh tế phát triển và cạnh tranh lành mạnh, vừa tạo điều kiện để thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa từng bước trẻ thành thành phần kinh tế chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Đúng như lời tổng bí thu Đỗ Mười đã khảng định "nếu công nghiệp hoá hiện đại tạo nên lực lượng sản xuất mới cho chế độ mới thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống mới thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp" Đại hội 6 Đảng chủ trương phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần là đúng bởi nó biểu hiện sự lựa chọn những hình thứ, những bước đi, giải pháp thích hợp vơí trạng thái kinh tế hiện nay. Đường lới đó xuất phát từ trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất của nước ta hiện nay vừa thấp vừa không đều nên không thể nóng vội nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất nhiều thành phần trên sơ sở công hữu về tư liệu sản xuất như trước đại hội 5. Thực tiễn cho thất chính sách kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã gáp phần giải phóng và phát triển sản xuất đưa đến những thành phần đã góp phần giải phóng và phát triển sản xuất đưa đến những thành tựu lớp có ý nghĩa quan trọng. Do đó chúng ta cần phải tiếp tục đổi muốn và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo, làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết vấn đề xã hội, mở đường, hỗ trợ cho các ngành khác cũng phát triển trong khi đó thì kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã là hình thức liên kết tự nguyên của những người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể để giải quyết có hiệu quả hơn nhũng vấn đề của sản xuất, xây dựng và đời sông. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần cũng có nghĩa là chúng ta không bỏ qua thành phần kinh tế tư bản nước ngoài , kinh tế nhà nước vai trò quan trọng trong việc động viên tiềm năn to lớn về công nghệ, khả năng tổ chức quản lí. Cùng với các loại hình trên thì Đảng ta cũng coi kinh tế cá thê, tiểu chủ có vai trò quan trọng lâu dài, kinh tế tư bản trong nước có khả năng gáp phần xây dựng đất nước và câng phải khuyến khích thành phần kinh tế này. Đi liền với quan hệ sản xuất là sự xác lập một cơ chế quản lý thích hợp sự tìm tòi cơ chế quản lý có hiện quả là rất quan trọng và khó khăn, phức tạp và phải trải qua thử nghiệm. Tại hội nghị lần thứ 8 ban chấp hành trung ương khoá 6 (tháng 6 - 1985) Đảng ta đã quyết định phải dứt khoát xoá bỏ chế độ tập trung quan liêu, bao cấp, thực hiện đúng chế độ tập trung dân chủ, hoạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa thì mới đẩy mạnh được sản xuất. Tại đại hội 6 (tháng 12-1986) quan điểm này đã được chỉ rõ "Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với cơ chế quản lý mới" Đảng ta chủ trương đi đôi với xoá bỏ cơ chế cũ chúng ta cần phải xây dựng cơ chế quản lý mới trong đó nhà nước nắm các mạch máu kinh tế, do đó có điều kiện và nhất thiết phải quản lý nền kinh tế quốc dân theo một thể thống nhất. Với cơ chế này, các đơn vị kinh tế có thể tự chủ sản xuất, quan hệ bình đẳng, cạnh tranh hợp pháp, Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng , dẫn dắt các thành phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuật lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường. 2.4 Một số yếu tố đặt ra đối với Đản ta trong tình hìn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60425.DOC
Tài liệu liên quan