Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao, ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế - xã hội phù hợp với nó. Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống chịu sự tác động của qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác. C.Mác đã viết :”sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.
Trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, để phát triển nền kinh tế Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường đã tác động đến mọi mặt đời sống xã hội. Điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý, suy nghĩ, lối sống của người dân. Con người năng động nhiều hơn là ỷ lại, chủ động nhiều hơn chờ đợi, trách nhiệm cá thể lớn hơn trách nhiệm làm chủ tập thể, thách thức, cạnh tranh, đòi hỏi hơn là yên phận, chờ đợi sự ban phát. Từ đó nảy sinh nhiều vấn đề, đó là con người kinh tế và con người đạo đức, lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể Trong cơ chế thị trường con người cũng bị tha hóa, đây là nguy cơ, nguồn gốc sản sinh ra tụt hậu kinh tế, tệ nạn xã hội, diễn biến hoà bình Bởi vậy, cần phải tìm ra nguyên nhân và biện pháp để khắc phục các hiện tượng đó.
23 trang |
Chia sẻ: zimbreakhd07 | Lượt xem: 1273 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Vấn đề nhân cách con người trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Giới thiệu đề tài
Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp nhau từ thấp đến cao, ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế - xã hội phù hợp với nó. Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống chịu sự tác động của qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật xã hội khác. C.Mác đã viết :”sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”.
Trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, để phát triển nền kinh tế Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường đã tác động đến mọi mặt đời sống xã hội. Điều đó cũng ảnh hưởng không nhỏ tới tâm lý, suy nghĩ, lối sống của người dân. Con người năng động nhiều hơn là ỷ lại, chủ động nhiều hơn chờ đợi, trách nhiệm cá thể lớn hơn trách nhiệm làm chủ tập thể, thách thức, cạnh tranh, đòi hỏi hơn là yên phận, chờ đợi sự ban phát. Từ đó nảy sinh nhiều vấn đề, đó là con người kinh tế và con người đạo đức, lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể… Trong cơ chế thị trường con người cũng bị tha hóa, đây là nguy cơ, nguồn gốc sản sinh ra tụt hậu kinh tế, tệ nạn xã hội, diễn biến hoà bình …Bởi vậy, cần phải tìm ra nguyên nhân và biện pháp để khắc phục các hiện tượng đó.
Là một con người lớn lên khi đất nước đang xây dựng nền kinh tế thị trường và hơn thế nữa còn là một sinh viên kinh tế, em rất quan tâm đến các vấn đề kinh tế - xã hội hiện nay của đất nước ta. Trong quá trình học tập và nghiên cứu em đã nhận thấy rằng con người là yếu tố quyết định tới sự phát triển của nền kinh tế, do đó việc tìm hiểu về nhân cách con người là rất quan trọng. Bởi vậy, em đã chọn đề tài:
“Vấn đề nhân cách con người trong cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
B. Nội dung chính
I. Cơ sở của quá trình nghiên cứu
1.Cơ sở lí luận
Trong quá trình nghiên cứu, cơ sở chủ yếu là phép biện chứng duy vật Mác – Lênin. Bên cạnh đó còn có sự vận dụng lí luận của Mác- Ăngghen về kinh tế thị trường, hình thái kinh tế - xã hội, con người, nhân cách con người và qui luật phủ định của phủ định.
Phép biện chứng duy vật Mác – Lênin : là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.
Qui luật phủ định của phủ định : những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra - sự vật đó không còn nữa mà bị thay thế bởi sự vật mới trong đó có những nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới khác.
2. Cơ sở thực tế
Để nghiên cứu về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nhân cách con người, em đã tìm hiểu qua một số sách báo, tạp chí và văn kiện đại hội Đảng. Bên cạnh đó, em còn tìm hiểu thông tin qua đài, tivi và các trang web.
II. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
1. Nền kinh tế Việt Nam trước đổi mới
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện cả trong và ngoài nước đang có những mặt diễn biến không thuận lợi. Ở nước ta bắt đầu xuất hiện cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc vào cuối những năm 70 đầu những năm 80. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam đánh giá tình hình đất nước từ năm 1976 đến năm 1980 là thời kì nền kinh tế ở trạng thái trì trệ. Sản xuất phát triển chậm trong khi dân số tăng nhanh. Một phần tiêu dùng của xã hội phải dựa vào vay và viện trợ, nền kinh tế chưa tạo được tích luỹ. Chênh lệch giữa thu và chi, xuất khẩu và nhập khẩu ngày càng lớn. Lực lượng sản xuất kém phát triển, cơ sở vật chất xã hội nghèo nàn, lạc hậu. Lương thực, vải mặc, các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu và vẫn áp dụng phân phối kiểu tem phiếu. Thị trường và vật giá không ổn định. Việc cung ứng vật tư, giao thông vận tải gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều xí nghiệp phải sử dụng công suất ở mức thấp thậm chí không có khả năng duy trì hoạt động dẫn tới tình trạng công nhân thất nghiệp. Đất nước khi đó có tới 90% làm nông nghiệp, 95% dân cư mù chữ và số người lao động chưa được sử dụng còn đông. Những vấn đề đó đều ảnh hưởng rất lớn tới đời sống nhân dân, dẫn tới mức sống của người dân thấp, cuộc sống gặp nhiều khó khăn.
Tình hình trì trệ đó có nguyên nhân khách quan là nền kinh tế phải gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề của hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Trong thời kì chiến tranh, mọi nguồn lực của tổ quốc đều tập trung vào mục tiêu đánh thắng kẻ địch, kinh tế không được chú trọng phát triển đã trở nên nghèo nàn lạc hậu, chậm phát triển. Đồng thời, chúng ta còn bị thiệt hại to lớn về con người, cơ sở vật chất – kĩ thuật và qua trình khắc phục còn nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, tình hình thế giới đã có nhiều biến đổi, nguồn viện trợ từ bên ngoài giảm so với thời kỳ chiến tranh.
Nhưng nguyên nhân chủ yếu làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về kinh tế - xã hội là cơ chế kinh tế không phù hợp qui luật kinh tế khách quan. Lực lượng sản xuất lạc hậu không đủ điều kiện tác động đến quan hệ sản xuất lỗi thời để phá vỡ nó, hình thành quan hệ mới. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp xóa bỏ một cách khô cứng mọi sự tư hữu, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là do chúng ta đã nhận thức chưa đúng quan điểm của Lênin, Hồ Chí Minh về nền kinh tế hàng hóa,dẫn tới những sai lầm trong quá trình vận dụng ở nước ta.
2. Nền kinh tế thị trường – Tất yếu khách quan
Khái niệm kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường nói chung là một hình thức xã hội của các tổ chức và hoạt động kinh tế, trong đó các mối quan hệ giữa con người với con người được biểu hiện thông qua việc mua bán trao đổi bằng tiền, quá trình đó chủ yếu là do thị trường điều tiết.
Nói cách khác, kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển.
Tình tất yếu khách quan
Từ việc phân tích thực trạng của nền kinh tế, Đảng ta đã đề ra chủ trương : “quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển hoá nền kinh tế còn nhiều tính chất tự cấp, tự túc thành nền kinh tế hàng hoá … Việc sử dụng đầy đủ và đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong kế hoạch kinh tế quốc dân là một yếu tố khách quan … Việc sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị trường”. Sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là có cơ sở khách quan.
Thứ nhất, phân công lao động xã hội phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển, điều đó được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm trao đổi trên thị trường.
Thứ hai, trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu. Đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Trong đó sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân. Tương ứng với mỗi loại hình sở hữu là một thành phần kinh tế. Như vậy trong xã hội tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập với lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ.
Thứ ba, thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nhưng các đơn vị kinh tế có sự khác biệt nhất định, có lợi ích riêng. Các đơn vị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kĩ thuật – công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
Thứ tư, quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển mạnh mẽ. Mỗi quốc gia là người chủ sở hữu đối với các hàng hoá đưa ra trao đổi trên thị trường thế giới và sự trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá. Bởi vậy, cần có một quan hệ kinh tế áp dụng chung cho tất cả các nước, đó chính là quan hệ hàng hoá - tiền tệ.
Như vậy, kinh tế thị trường ở nước ta tồn tại tất yếu, khách quan và không thể lấy ý chí chủ quan để xoá bỏ nó được.
3. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
a) Quá trình chuyển đổi
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường ở nước ta là một quá trình lâu dài.
Trước tình hình khó khăn của nền kinh tế, Đảng, Nhà nước ta đã đưa ra chỉ thị 100 và quyết định 25/CP. Khi đó, kế hoạch hoá theo kiểu tập trung bị suy yếu, cơ chế bao cấp bắt đầu chuyển đổi. Đến Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương khoá V và Nghị quyết Bộ chính trị khoá V về các quan điểm kinh tế, cốt lõi của mô hình kinh tế mới đã cơ bản hình thành.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng là bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội quyết định đường lối đổi mới, đổi mới toàn diện, đổi mới kinh tế là chủ yếu. Đại hội lần thứ VII của Đảng thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.“Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần…là hoàn toàn cần thiết để giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản xuất trong xã hội”. Đại hội VIII mở đầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đến đại hội IX của Đảng, chúng ta đã đưa ra mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đó là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
b) Những đặc trưng
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường phát triển đầy đủ làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực kinh tế. Nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, …Sự tác động của các quy luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. Nền kinh tế thị trường hiện đại có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá và các chính sách kinh tế.
Ngoài những tính chất chung của nền kinh tế thị trường, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam còn có những đặc trưng bản chất được xác định trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Đó là:
- Nhằm mục tiêu thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân.
- Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, hình thành cấu trúc kinh tế - xã hội phát triển ổn định, bền vững, thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
- Phát huy vai trò làm chủ của người dân, bảo đảm vai trò quản lý điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
4. Vai trò của nền kinh tế thị trường
Sản xuất hàng hoá phát triển phá vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hàng hoá, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất và đem lại những tác dụng to lớn.
Thứ nhất kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Trên thị trường, các nhà sản xuất cạnh tranh với nhau, từ đó buộc mỗi chủ thể phải cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. Quá trình đó thúc đẩy cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật phát triển, đồng thời buộc người lao động phải được nâng cao về trình độ, tay nghề. Do đó, lực lượng sản xuất phát triển mạnh, năng suất lao động xã hội không ngừng được nâng cao.
Thứ hai, kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế. Trong nền kinh tế hàng hoá, người sản xuất phải căn cứ vào nhu cầu của người tiêu dùng, của thị trường để quyết định sản xuất sản phẩm gì, với khối lượng, chất lượng như thế nào. Xã hội càng phát triển, nhu cầu của con người và thị trường cũng ngày càng tăng lên. Do vậy, các nhà sản xuất muốn tồn tại và phát triển bắt buộc phải nắm bắt được nhu cầu đó một cách nhạy bén và có những sáng tạo trong việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã cũng như tăng khối lượng hàng hoá, dịch vụ.
Thứ ba, kinh tế hàng hoá thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Trong kinh tế tự nhiên, một người có thể tạo ra nhiều sản phẩm để phục vụ cho nhu cầu của bản thân. Nhưng trong kinh tế hàng hoá, nhiều người cùng tham gia vào quá trình sản xuất ra một sản phẩm, mỗi người chỉ tập trung vào một khâu trong quá trình đó và sản phẩm ấy được tung ra thị trường phục vụ cho xã hội. Như vậy, trình độ phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất phải tăng lên. Nhờ đó, tiềm năng, lợi thế của từng vùng cũng như của cả nước được tận dụng và phát huy tối đa.
Thứ tư, sự phát triển của kinh tế thị trường thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất. Kinh tế thị trường tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có tính xã hội hoá cao, chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi đồng thời hình thành được đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ và lao động lành nghề.
Thực tiễn những năm đổi mới đã cho thấy việc chuyển đổi từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường là hoàn toàn đúng đắn. Chúng ta đã khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ nước ngoài, giải phóng năng lực sản xuất. Nhờ đó, kinh tế nước ta đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm qua.
Như vậy, kinh tế thị trường là thành tựu chung của văn minh nhân loại. Nó là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, quá trình phân công lao động xã hội và đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Kinh tế thị trường là động lực mạnh mẽ thúc đẩy toàn xã hội phát triển.
III. Nhân cách con người
1. Bản chất con người
Quan điểm trước Mác
Từ thời kỳ cổ đại, các trường phái triết học phương Đông đã tìm cách lý giải vấn đề bản chất con người, quan hệ giữa con người với thế giới. Các trường phái triết học tôn giáo phương Đông nhận thức con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí hoặc nhị nguyên luận. Trong triết học Phật giáo con người là sự kết hợp giữa danh và sắc (vật chất và tinh thần), đời sống con người trên trần thế là ảo giác hư vô. Cuộc đời con người khi còn sống là sống gửi tạm bợ, là bể khổ. Con người phải hướng tới cuộc sống vĩnh cửu ở cõi Niết bàn, nơi tinh thần con người được giải thoát để trở thành bất diệt.
Tư tưởng Nho giáo, Lão giáo trong triết học Trung Hoa đã quan niệm về bản chất con người rất phong phú. Khổng Tử cho rằng “thiên mệnh” quyết định nhân sự, đức “nhân” là giá trị cao nhất của con người. Mạnh Tử qui tính thiện của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán xấu mà con người bị nhiễm cái xấu. Cả hai ông đều cho rằng con người có thể tu dưỡng, rèn luyện để hướng tới các gía trị đạo đức tốt đẹp. Trái lại, Tuân Tử quan niệm bản chất con người khi sinh ra là ác, phải chống lại cái ác ấy con người mới tốt được. Đó là một tư tưởng thuộc chủ nghĩa duy vật thô sơ. Đổng Trọng Thư lại cho rằng trời và con người có thể hoà hợp với nhau, thông hiểu lẫn nhau, gọi là thuyết “thiên nhân cảm ứng”. Đây là tư tưởng kế thừa Nho giáo theo khuynh hướng duy tâm cực đoan, qui yếu tố quyết định đối với cuộc đời con người là “thiên mệnh”. Lão Tử, người sáng lập ra trường phái Đạo gia, cho rằng con người sinh ra từ “Đạo”, bản tính nhân loai có hai khuynh hướng “hữu vi” và “vô vi”. Theo ông, con người cần phải sống “vô vi”, theo lẽ tự nhiên, thuần phác, không giả tạo, gò ép. Đây là một tư tưởng duy tâm chủ quan.
Cũng giống như triết học phương Đông, các trường phái triết học tôn giáo phương Tây nhận thức vấn đề con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm, thần bí. Kitô giáo cho rằng thể xác mất đi nhưng linh hồn thì tồn tại vĩnh cửu. Linh hồn là giá trị cao nhất mà mỗi con người phải thường xuyên chăm sóc để hướng tới thiên đường vĩnh cửu.
Trong triết học Hi Lạp cổ đại, con người được xem là điểm khởi đầu của tư duy triết học và có nhiều quan điểm khác nhau. Theo Hêraclit, linh hồn con người chỉ là một biểu hiện của lửa, là sự thống nhất của hai mặt đối lập: cái ẩm ướt và lửa. Đêmôcrit lại cho rằng linh hồn được tạo nên từ các nguyên tử hình cầu nhưng lại lệ thuộc vào thể xác con người nên sẽ mất đi cùng thể xác. Đối lập với Đêmôcrit, Platôn quan niệm linh hồn được sinh ra từ thế giới ý niệm, hiểu biết được cái ý niệm, nó cư trú ở một ngôi sao rồi bay đến trái đất nhập với thân xác tạo ra một con người. Do đó, linh hồn tồn tại vĩnh viễn. Còn theo Arixtôt, chỉ có linh hồn tư duy, trí nhớ, ý chí, năng khiếu nghệ thuật làm cho con người nổi bật lên, con người là “một động vật chính trị”.
Dưới thời kì trung cổ, tôn giáo bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Con người được xem là sản phẩm của Thượng đế sáng tạo ra, số phận, niềm vui, nỗi buồn đều do Thượng đế sắp đặt. Con người phải chấp nhận cuộc sống tạm bợ trên trần thế vì hạnh phúc vĩnh cửu chỉ chờ đợi họ ở thế giới bên kia. Trái lại, triết học thời kì phục hưng - cận đại đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lí tính của con người. Con người được nhấn mạnh về mặt cá thể nhưng chưa được nhận thức đầy đủ về mặt sinh học và về mặt xã hội.
Trong triết học cổ điển Đức, quan niệm về con người được phát triển theo khuynh hướng của chủ nghĩa duy tâm. Theo Cantơ, nhận thức con người chỉ biết được hiện tượng bên ngoài mà không xâm nhập được vào bản chất đích thực, nhận thức cần hạn chế phạm vi của lí tính để dành cho đức tin. Hêghen, một nhà duy tâm khách quan, cho rằng con người là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”. Ông cũng khẳng định con người là chủ thể đồng thời là kết quả của sự phát triển lịch sử.
Vượt qua những hạn chế trong triết học của Hêghen, nhà duy vật Phoiơbăc phê phán tính chất siêu tự nhiên, phi vật chất, phi thể xác về bản chất con người. Ông khẳng định con người do sự vận động của thế giới vật chất tạo nên, là kết quả của sự phát triển của thế giới tự nhiên. Phoiơbắc đề cao vai trò trí tuệ của con người với tính cách là những cá thể người đa dạng, phong phú, không ai giống ai. Tuy nhiên, ông đã không thấy được bản chất xã hội của con người, tách con người khỏi môi trường sống của họ, biến con người trở thành phi lịch sử, phi giai cấp, trừu tượng.
Như vậy quan niệm về con người ở phương Đông hay phương Tây dù dựa trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên hay duy vật siêu hình thì đều chưa được phản ánh đúng đắn. Các quan niệm đó tuyệt đối hoá một mặt nào đó, xem xét con người một cách trừu tượng nên đều chưa tìm ra bản chất con người.
Quan niệm của triết học Mác – Lênin
Theo triết học Mác – Lênin, con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội. Con người là động vật cao cấp nhất, là kết quả của sự tiến hoá lâu dài của thế giới tự nhiên. Các giai đoạn mang tính sinh học mà con người trải qua từ sinh thành, phát triển đến mất đi qui định bản tính sinh học của con người. Cái sinh học trong con người qui định sự hình thành những hiện tượng và quá trình tâm lí, là điều kiện qui định sự tồn tại của con người. Không chỉ là sản phẩm của tự nhiên, con người là sản phẩm của xã hội, mang tính xã hội. Con người chỉ có thể tồn tại được khi họ lao động sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu sinh học của mình. Thông qua hoạt động sản xuất, tính xã hội của con người được thể hiện. Trong lao động, con người tạo ra nền văn hoá vật chất và tinh thần, phát triển ngôn ngữ và tư duy, hình thành và phát triển các quan hệ xã hội. Do đó, lao động là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở hình thành hệ thống các nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu xã hội trong đời sống con người. Với phương pháp luận duy vật biện chứng chúng ta thấy quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội là thống nhất. Hai mặt đó hoà quyện vào nhau để tạo thành con người tự nhiên – xã hội.
C.Mác đã viết:”Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Luận đề khẳng định không có con người trừu tượng, thoát li mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong điều kiện nhất định, thời đại nhất định. Con người sáng tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần cho xã hội mà mình sống, qua đó con người bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. Như vậy, không thể hiểu bản chất con người bên ngoài mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, đó chính là sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Nếu không có thế giới tự nhiên thì cũng không có lịch sử xã hội, không có sự tồn tại của con người. Không có con người trừu tượng mà chỉ có con người cụ thể gắn với xã hội nhất định. Trong điều kiện lịch sử xã hội luôn vận động biến đổi, con người cũng phải thay đổi cho phù hợp. Như vậy, con người là sản phẩm của lịch sử. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động thực tiễn, con người tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên. Con người sáng tạo ra các giá trị vật chất tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu, nhu cầu do con người đặt ra. Không có con người thì không thể có lịch sử xã hội loài người. Do đó, con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử.
2. Sự hình thành nhân cách con người
Nhân cách là khái niệm chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của của mỗi cá nhân, là nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân. Nhân cách biểu hiện thế giới cái tôi của mỗi cá nhân, là sự tổng hợp của các yếu tố sinh học, tâm lí, xã hội, tạo nên đặc trưng riêng về di truyền, về sinh lí thần kinh, về hoàn cảnh sống của cá nhân theo cách riêng của mình. Nhân cách là thế giới quan bên trong của mỗi cá nhân. Nói tóm lại, nhân cách là toàn bộ những năng lực và phẩm chất xã hội – sinh lí – tâm lí của cá nhân tạo thành chỉnh thể đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định và tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình.
Như đã nói ở phần trước, con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội. Do đó, quá trình hình thành và phát triển nhân cách phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Thứ nhất, con người là động vật cao cấp nhất nên nhân cách phải dựa trên tiền đề sinh học và tư chất di truyền học. Thứ hai, môi trường xã hội là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách. Môi trường gia đình, nhà trường và xã hội có thể tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới mỗi người. Thứ ba, hạt nhân của nhân cách là thế giới quan cá nhân, bao gồm các quan điểm, lí luận, niềm tin, định hướng giá trị…Yếu tố quyết định để hình thành thế giới quan cá nhân là tính chất của thời đại, lợi ích, vai trò, địa vị cá nhân trong xã hội, khả năng thẩm định giá trị đạo đức – nhân văn và kinh nghiệm của mỗi cá nhân. Từ thế giới quan cá nhân sẽ hình thành các thuộc tính bên trong về năng lực, về phẩm chất xã hội như năng lực trí tuệ, chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức, pháp luật, thẩm mỹ. Như vậy, sự hình thành và phát triển nhân cách là sự thống nhất của ba yếu tố sinh học, tâm lí và xã hội để xác lập “cái tôi” của cá nhân.
3. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội
Cá nhân là khái niệm chỉ con người cụ thể sống trong một xã hội nhất định và được phân biệt với các cá thể khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó. Đó là một chỉnh thể đơn nhất vừa mang tính cá biệt vừa mang tính phổ biến, là chủ thể của lao động, của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức nhằm thực hiện chức năng cá nhân và chức năng xã hội trong một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử - xã hội. Đó là phương thức tồn tại cụ thể cuả loài người một cách trực tiếp cảm tính, là phần tử đơn nhất, riêng lẻ, tạo thành cộng đồng xã hội , là cơ sở hình thành lịch sử xã hội loài người. Cá nhân là một chủ thể toàn vẹn có nhân cách, biểu hiện trong phẩm chất sinh lí, tâm lí riêng biệt của mỗi người. Trong mối quan hệ với xã hội, đó còn là một hiện tượng lịch sử, vận động phát triển phù hợp với mỗi thời đại nhất định.
Mỗi cá nhân đều ở trong một xã hội nhất định. Mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội dựa trên cơ sở lợi ích, biểu hiện mối quan hệ giữa cái bộ phận và cái toàn thể, thể hiện tính biện chứng vừa thống nhất vừa mâu thuẫn. Quan hệ đó luôn vận động, biến đổi và phát triển trong đó sự thay đổi về chất chỉ diễn ra khi có sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác.
Theo triết học Mác – Lênin, xã hội giữ vai trò quyết định đối với cá nhân. Xã hội là môi trường, là phương thức để lợi ích cá nhân được thực hiện. Xã hội càng phát triển thì cá nhân càng có điều kiện tiếp cận các giá trị vật chất, tinh thần nhiều hơn. Vai trò của cá nhân ảnh hưởng tới xã hội tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của nhân cách. Những cá nhân có tài năng, phẩm chất, kinh nghiệm, có trách nhiệm cao, thực hiện tốt nghĩa vụ đối với xã hội sẽ góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Những cá nhân thoái hoá biến chất về nhân cách sẽ ảnh hưởng xấu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 60565.DOC