Đề tài Vai trò và nhiệm vụ của kiểm toán nhà nước ở Việt Nam

Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và từng bước tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường thường nảy sinh những tiêu cực, lạm dụng chức vụ để mưu cầu và thu lợi cá nhân, tệ tham nhũng đã trở thành “ quốc nạn ”. gây những tổn thất to lớn về tài sản, nguồn vốn, nguồn lực tài chính quốc gia, giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Để khắc phục tồn tại trên, Nhà nước cần sử dụng tổng hợp các công cụ kiểm tra, kiểm soát, trong đó kiểm tra tài chính được xem như là một công cụ mạnh và hữu hiệu để hạn chế những mặt tiêu cực, tham nhũng, chi tiêu lãng phí ngân sách Nhà nước và công quỹ quốc gia. Do đó, kiểm toán nhà nước ra đời để giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài và số liệu kế toán của cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp.

Sau mười năm thành lập, kiểm toán nhà nước đã đạt được những thành tựu bước đầu rất đáng kể khẳng định được vai trò quan trọng của mình. Tuy vậy trong quá trình hoạt động kiểm toán nhà nước Việt Nam vẫn còn không ít những khó khăn và bất cập cần sớm có phương hướng giải quyết. Xuất phát từ tính cấp thiết vấn đề trên nên em đã chọn đề tài: “Vai trò và nhiệm vụ của kiểm toán nhà nước ở Việt Nam”.

 

 

doc25 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1216 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Vai trò và nhiệm vụ của kiểm toán nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và từng bước tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường thường nảy sinh những tiêu cực, lạm dụng chức vụ để mưu cầu và thu lợi cá nhân, tệ tham nhũng đã trở thành “ quốc nạn ”... gây những tổn thất to lớn về tài sản, nguồn vốn, nguồn lực tài chính quốc gia, giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Để khắc phục tồn tại trên, Nhà nước cần sử dụng tổng hợp các công cụ kiểm tra, kiểm soát, trong đó kiểm tra tài chính được xem như là một công cụ mạnh và hữu hiệu để hạn chế những mặt tiêu cực, tham nhũng, chi tiêu lãng phí ngân sách Nhà nước và công quỹ quốc gia. Do đó, kiểm toán nhà nước ra đời để giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tài và số liệu kế toán của cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp. Sau mười năm thành lập, kiểm toán nhà nước đã đạt được những thành tựu bước đầu rất đáng kể khẳng định được vai trò quan trọng của mình. Tuy vậy trong quá trình hoạt động kiểm toán nhà nước Việt Nam vẫn còn không ít những khó khăn và bất cập cần sớm có phương hướng giải quyết. Xuất phát từ tính cấp thiết vấn đề trên nên em đã chọn đề tài: “Vai trò và nhiệm vụ của kiểm toán nhà nước ở Việt Nam”. Nội dung I. Cơ sở lý luận. 1. Bản chất và sự cần thiết của kiểm toán nhà nước. Kiểm toán nhà nước là hệ thống bộ máy chuyên môn của Nhà nước thực hiện các chức năng kiểm toán tài sản công do các kiểm toán viên là công chức của Nhà nước tiến hành. Trong nền kinh tế thị trường, vai trò của kiểm toán nhà nước hết sức quan trọng trong việc kiểm soát việc sử dụng nguồn lực tài chính công, giúp Quốc hội điều hành, quản lý nền kinh tế có hiệu quả, bởi vì: Thứ nhất, kiểm toán nhà nước là một trong những nhân tố góp phần đảm bảo, duy trì tính kinh tế, tính hiệu quả trong hoạt động kinh tế. Thông qua hoạt động của mình, kiểm toán nhà nước chỉ rõ việc sử dụng nguồn ngân sách Nhà nước trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng doanh nghiệp và các yếu tố cản trở tính hiệu quả các hoạt động trong nền kinh tế. Mặt khác, kiểm toán nhà nước còn cung cấp cơ sở dữ liệu quan trọng tin cậy để thực hiện việc phân bổ và điều hành ngân sách Nhà nước một cách có hiệu quả, phù hợp với tình hình thực tiễn của từng ngành, từng lĩnh vực, từng khu vực, loại trừ những khoản chi phí bất hợp lý, lãng phí gây thất thoát cho ngân sách Nhà nước. Thứ hai, kiểm toán nhà nước thực hiện việc kiểm tra tính hợp pháp, tính hợp lệ trong các hoạt động kinh tế – tài chính, làm lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế – tài chính trong nền kinh tế. Căn cứ vào các văn bản pháp luật mà Quốc hội và các cơ quan nhà nước có thẩm quỳên ban hành, kiểm toán xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của các tàị liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán hàng năm. Mọi sai phạm về các qui định về quản lý kinh tế – tài chính được xác lập và duy trì. Thứ ba, cơ quan kiểm toán đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện cơ chế chính sách tài chính, lập và giao kế hoạch ngân sách Nhà nước, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch ngân sách Nhà nước, đồng thời xử lý vi phạm trong thu- chi, điều hành và quyết toán ngân sách Nhà nước, các vi phạm về hạch toán tài sản, vốn, lãi, và phân phối tài chính trong sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, hoạt động của Kiểm toán còn có tác dụng răn đe, phòng ngừa các sai phạm trong quản lý tài chính, cung cấp thông tin cho công luận về hoạt động kinh tế – xã hội, thực hiện quyền giám sát và thu hút vốn đầu tư của toàn xã hội. 2.Vai trò và nhiệm vụ đối với cơ quan Kiểm toán Nhà nước ở mỗi quốc gia. 2.1 Vai trò Dù hình thức và nhiệm vụ có khác nhau ở mỗi quốc gia, nhưng vai trò của kiểm toán nhà nước đã được thống nhất tại hội nghị lần thứ IX của INTOSAI tại Lima và được trình bày trong lời nói đầu trong tuyên bố Lima về các chỉ dẫn kiểm toán như sau: “- Trong bối cảnh việc sử dụng thống nhất và hiệu quả các khoản công quỹ là một trong những đòi hỏi thiết yếu đầu tiên cho việc sử dụng hợp lý các nguồn tài chính công và hiệu năng các quyết định của cơ quan có thẩm quyền; - Trong bối cảnh để đạt được mục tiêu này, không thể phủ nhận được rằng mỗi quốc gia cần phải có một Cơ quan Kiểm toán Tối cao được pháp luật đảm bảo tính độc lập; - Trong bối cảnh các Cơ quan Kiểm toán Tối cao đang ngày càng trở nên cần thiết hơn khi Nhà nước đã và đang mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực kinh tế xã hội và vì vậy phải hoạt động tuân theo những qui định của công cụ tài chính vốn có; - Trong bối cảnh các mục tiêu của kiểm toán – cụ thể là việc sử dụng hợp lý và hiệu quả các nguồn công quỹ; tăng cường sự lành mạnh trong quản lý tài chính; điều hành tuần tự các hoạt động hành chính; và thông tin liên lạc với các cơ quan đại chúng và công chúng thông qua các báo cáo khách quan... đang rất cần thiết cho sự ổn định và phát triển của Nhà nước trong việc theo đuổi các mục tiêu của Liên Hiệp Quốc...” 2.2 Nhiệm vụ Nhiệm vụ gắn liền với cơ quan kiểm toán tối cao là kiểm toán tính hợp pháp và hợp của công tác quản lý tài chính và kế toán. Ngoài loại hình kiểm toán nêu trên còn có loại hình kiểm toán tập trung vào hoạt động, hiệu quả và hiệu năng của hành chính công. Loại hình kiểm toán này không chỉ kiểm toán các khía cạnh cụ thể của công tác quản lý mà cả các hoạt động quản lý bao trùm, gồm cả khâu tổ chức và hệ thống hành chính. Cơ quan kiểm toán Việt Nam. 3.1 Sự hình thành cơ quan Kiểm toán Nhà nước Việt Nam. Trước tình hình mới, để góp phần quản lý tốt nền kinh tế quốc dân, cơ quan Kiểm toán Việt Nam ra đời theo nghị định ngày 11/7/1994 của Thủ tướng Chính phủ. Kiểm toán nhà nước thành lập để giúp Thủ tướng Chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế Nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp. 3.2 Vai trò và nhiệm vụ chủ yếu của kiểm toán Nhà nước Việt Nam. + Xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm toán hàng năm trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức thực hiện chương trình, kế hoạch đó. Định kỳ báo cáo thực hiện chương trình, kế hoạch kiểm toán lên Thủ tướng Chính phủ. + Cung cấp kết quả kiểm toán cho Chính phủ và cho cơ quan nhà nước khác theo qui định của Chính phủ. + Xác nhận, đánh giá và nhận xét các tài liệu, số liệu kế toán, báo cáo quyết toán đã được kiểm toán và chịu trách nhiệm trước pháp luật về những nội dung đã đánh giá, nhận xét, xác nhận. + Thông qua hoạt động kiểm toán góp ý kiến với đơn vị được kiểm sửa chữa những sai sót, vi phạm để chấn chỉnh những công tác quản lý tài chính, kế toán của đơn vị; kiến nghị với cấp có thẩm quyền sử lý những vi phạm chế độ kế toán, tài chính của Nhà nước; đề xuất với Thủ tướng Chính phủ việc sửa đổi, cải tiến cơ chế quản lý tài chính, kế toán cần thiết. + Khi thực hiện nhiệm vụ, kiểm toán nhà nước chỉ tuân theo pháp luật và phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ đã được Nhà nước quy định; được yêu cầu đơn vị được kiểm toán và các đơn vị khác có liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết để thực hiện nhiệm vụ kế toán. Trong trường hợp đoàn kiểm toán viên hoặc kiểm toán viên có ý kiến khác nhau thì kiểm toán nhà nước xem xét và có ý kiến kết luận cuối cùng. + Quản lý các hồ sơ, tài liệu đã được kiểm toán theo qui định của Nhà nước; giữ bí mật tài liệu, số liệu kế toán và hoạt động của đơn vị được kiểm toán. + Quản lý tổ chức bộ máy, cán bộ, cơ sở vật chất của hệ thống tổ chức kiểm toán nhà nước theo qui định của Chính phủ. II. Vai trò và nhiệm vụ của kiểm toán nhà nước Việt Nam đối những đối tượng cụ thể. Kiểm toán Nhà nước ngay từ khi mới thành lập đã chứng tỏ được vai trò và nhiệm vụ quan trọng của mình trong rất nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. Nhưng vai trò và nhiệm vụ của kiểm toán nhà nước Việt Nam được thể hiện rõ nét nhất qua các đối tượng kiểm toán sau: 1.Vai trò của kiểm toán nhà nước trong việc giám sát ngân sách Nhà nước 1.1 Tầm quan trọng của việc quản lý ngân sách Nhà nước Như đã biết, trong hệ thống tài chính của một nước, ngân sách Nhà nước là cao hiệu quả kinh tế, xã hội của nguồn lực ngân sách Nhà nư khâu tài chính quan trọng nhất. Vì chỉ có nó mới đảm bảo nguồn tài chính cho tất cả các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước. Ngân sách Nhà nước là đối tượng kiểm toán chủ yếu và thường xuyên của cơ quan kiểm toán nhà nước. Kiểm toán nhà nước nhằm góp phần làm lành mạnh hoá tình hình ngân sách Nhà nước, tạo môi trường tài chính ổn định có lợi cho phát triển kinh tế và đời sống nhân dân. Những kết quả kiểm toán trung thực, chính xác, khách quan của cơ quan Kiểm toán Nhà nước báo cáo lên Chính phủ và Quốc hội không chỉ cho phép đánh giá tình hình tài chính, ngân sách đúng mà còn cung cấp những thông tin làm căn cứ cho việc hoạch định chính sách, các giải pháp quản lý ngân sách, khắc phục những yếu kém trong quản lý thu – chi ngân sách Nhà nước và nâng ớc. 1.2 Vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong việc hỗ trợ Quốc hội tăng cường năng lực giám sát ngân sách Nhà nước. Như chúng ta đã biết, Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, thực hiện chức năng lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Trong lĩnh vực ngân sách Nhà nước, Quốc hội thực hiện quyền quyết định dự toán ngân sách Nhà nước, phân bổ ngân sách Trung ương và phê chuẩn tổng quyết toán ngân sách Nhà nước. Đồng thời, Quốc hội thực hiện giám sát việc chấp hành dự toán ngân sách Nhà nước, thực thi các chế độ tiêu chuẩn định mức chi ngân sách và các chính sách tài chính vĩ mô phục vụ phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Để thực hiện đúng chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ của mình, bên cạnh việc đổi mới cơ cấu tổ chức, tăng cường năng lực đại biểu Quốc hội, cần phải có các công cụ hỗ trợ hoạt động lập pháp cũng như giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Một trong những công cụ hữu hiệu để Quốc hội thực hiện nhiệm vụ của mình là kiểm toán nhà nước. Kiểm toán nhà nước, với tư cách là cơ quan chuyên môn do Quốc hội thành lập sẽ có vai trò to lớn giúp Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội trên một số nội dung cơ bản sau: Thứ nhất, kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán và cung cấp thông tin cho Quốc hội, Hội đồng Nhân dân để xem xét, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước. Đây là công việc kiểm toán sau (hậu kiểm) – một chức năng mang tính truyền thống của cơ quan kiểm toán nhà nước. Tất cả các cơ quan kiểm toán nhà nước trên thế giới đều thực hiện chức năng này và đây là nhiệm vụ không thể thiếu trong việc trợ giúp Quốc hội, Hội đồng Nhân dân phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước hàng năm. Vấn đề này đã được trong tuyên bố Lima của Tổ chức Quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao – INTOSAI rằng: “ ... Kiểm toán sau là một nhiệm vụ không thể thiếu được của Kiểm toán Nhà nước, không lệ thuộc vào việc nó có được kiểm toán trước (tiền kiểm) hay không”. Kiểm tra sau của kiểm toán nhà nước không chỉ dừng lại ở việc xem xét độ tin cậy của các thông tin, các chỉ tiêu trong các báo cáo quyết toán ngân sách, tính tuân thủ trong quản lý điều hành ngân sách Nhà nước mà còn xem xét các khía cạnh về tính hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả của công tác quản lý và điều hành của Chính phủ; xem xét tính hiệu lực và hiệu quả trong các khoản chi của ngân sách Nhà nước. Tuyên bố Lima nêu rõ: “Kiểm toán sau do cơ quan Kiểm toán Nhà nước thực hiện chỉ rõ trách nhiệm của cơ quan có nghĩa vụ báo cáo, có thể dẫn tới bồi hoàn thiệt hại đã xảy ra và là việc làm thích hợp để ngăn chặn những tái phạm sau này”. Một số nước còn quy định báo cáo quyết toán ngân sách Nhà nước trình Quốc hội, Hội đồng Nhân dân có ý kiến xác nhận của Tổng Kiểm toán Nhà nước rằng báo cáo đã được kiểm toán và đảm bảo tính trung thực; kèm theo báo cáo quyết toán trình Quốc hội, Hội đồng Nhân dân là báo cáo của Kiểm toán Nhà nước về công tác quản lý, điều hành ngân sách Nhà nước. Đây là một trong các nguồn thông tin và căn cứ để Quốc hội, Hội đồng Nhân dân thảo luận và phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước, giải toả trách nhịêm cho Chính phủ, Uỷ ban Nhân dân về năm ngân sách đã qua. Thứ hai, kiểm toán nhà nước góp phần quan trọng trong việc lập, quyết định dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm. Chúng ta có thể thấy rằng, tài liệu về dự toán ngân sách Nhà nước không chỉ chứa đựng những vấn đề chính trị, kinh tế chủ yếu của một quốc gia mà còn là những tài liệu mang tính nghiệp vụ cao đòi hỏi phải được kiểm tra, xem xét kĩ lưỡng trước khi quyết định. Nguồn lực ngân sách Nhà nước đòi hỏi phải được phân bổ để đáp ứng những mục tiêu đã đề ra, hạn chế tình trạng lạm dụng trong việc phân bổ ngân sách. Vì vậy cần phải có một cơ quan độc lập, có kiến thức và nghiệp vụ chuyên môn cần thiết đánh giá toàn bộ diễn biến của quá trình lập dự toán. Cơ quan kiểm toán nhà nước có thể chỉ ra những sai lệch của dự toán ngân sách Nhà nước so với các nguyên tắc của tính tuân thủ, tính hợp lý, khả thi và tiết kiệm. Đây là hình thức tiền kiểm của kiểm toán nhà nước, đảm bảo các nguồn lực được động viên và phân bổ vào những mục tiêu mà quốc gia theo đuổi cũng như tính kinh tế, hiệu lực, hiệu quả của các khoản chi ngân sách Nhà nước; tránh được những sai phạm ngay từ khi lập và phân bổ dự toán ... Hình thức kiểm toán trước của kiểm toán nhà nước cũng đã được khẳng định trong tuyên bố Lima: “Kiểm toán trước một cách có hiệu quả là điều không thể thiếu được đối với một nền kinh tế công cộng lành mạnh với tư cách là một nền kinh tế thác quản – phân cấp và uỷ quyền”. Kinh nghiệm cho thấy, nhiều nước trên thế giới đều sử dụng cơ quan kiểm toán nhà nước trong việc kiểm toán dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm trước khi trình Quốc hội quyết định. Việc tham gia của cơ quan kiểm toán nhà nước trong việc lập dự toán ở mỗi nước có hình thức và mức độ khác nhau nhưng nhìn chung đều là đưa ra ý kiến phản biện về dự toán ngân sách Nhà nước do Chính phủ trình làm cơ sở cho Quốc hội thảo luận và quyết định. Thứ ba, Kiểm toán Nhà nước trợ giúp Chính phủ, Quốc hội trong việc xem xét quyết định các phương án đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm của quốc gia. Việc đầu tư xây dựng các chương trình trọng điểm quốc gia không chỉ tiêu tốn một lượng lớn tiền mà còn liên quan đến chiến lược phát triển quốc gia. Điều đó đòi hỏi không chỉ được xem xét về mặt kĩ thuật mà còn phải xem xét các khía cạnh về kinh tế, xã hội... Trong điều kiện đó nếu không có một cơ quan độc lập với cơ quan soạn thảo, có đủ năng lực về chuyên môn, tuân theo các chuẩn mực nghề nghiệp xem xét, đánh giá trước khi Chính phủ, Quốc hội, Hội đồng Nhân dân thảo luận và quyết định có thể sẽ gây ra những rủi ro cho các quyết định đầu tư. Kinh nghiệm của nhiều nước, nhất là những nước có lịch sử phát triển kiểm toán nhà nước lâu đời đều giao cho cơ quan kiểm toán nhà nước thực hiện nhiệm vụ này. Thứ tư, kiểm toán nhà nước tham gia với Quốc hội trong việc quyết định những chính sách về tài chính, ngân sách. Đây chính là hoạt động tư vấn của cơ quan kiểm toán nhà nước để phát hiện kịp thời những hạn chế, bất cập trong bản thân các văn bản pháp luật, nhất là trong trường hợp luật pháp đã lạc hậu, xa rời thực tiễn. Trên cơ sở đó, kiểm toán nhà nước kiến nghị với Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương hoàn thiện hệ thống pháp luật, các chính sách và chế độ quản lý. Các ý kiến tham gia của kiểm toán nhà nước sẽ tạo nên luồng thông tin đa chiều, làm cơ sở cho việc thảo luận và quyết định. Thứ năm, kiểm toán nhà nước cung cấp các thông tin dữ liệu cho các cơ quan quản lý phục vụ tốt hơn công tác quản lý ngân sách Nhà nước. Thông qua kết quả kiểm toán, ngoài việc cung cấp thông tin cho Quốc hội, Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước còn cung cấp cho các cơ quan quản lý những yếu kém bất cập trong quản lý ngân sách Nhà nước; những đơn vị vi phạm chính sách, chế độ quản lý ngân sách Nhà nước. Trên cơ sở đó, các cơ quan quản lý đề ra các biện pháp quản lý thích hợp nhằm quản lý ngân sách Nhà nước tốt hơn. Đối với những trường hợp vi phạm chính sách, chế độ quản lý ngân sách Nhà nước mà kiểm toán nhà nước đã phát hiện, các cơ quan quản lý có biện pháp thu hồi cho ngân sách Nhà nước như thu hồi các khoản thuế gian lận, thu hồi các khoản chi sai chế độ, ...duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý ngân sách Nhà nước. Việc cung cấp thông tin cho Quốc hội, Chính phủ, Hội đồng Nhân dân và các cơ quan Nhà nước khác cũng như các hoạt động tư vấn thông qua nghĩa vụ báo cáo của cơ quan kiểm toán nhà nước. Dù cơ quan kiểm toán nhà nước trực thuộc Quốc hội, Chính phủ về các vấn đề liên quan đến công tác quản lý ngân sách và tài sản công. Các báo cáo của kiểm toán nhà nước có thể dưới dạng báo cáo thường niên hoặc báo cáo đặc biệt theo sáng kiến của cơ quan kiểm toán nhà nước, cũng có thể là báo cáo theo yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Nhân dân. Luật ngân sách Nhà nước sửa đổi đã quy định nghĩa vụ báo cáo của cơ quan kiểm toán nhà nước trước Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ, đây là điều kiện quan trọng để hoàn thiện và phát triển hoạt động kiểm toán nhà nước ở Việt Nam nhằm quản lý ngân sách Nhà nước một cách hiệu quả, tiết kiệm hơn. 2. Vai trò của kiểm toán nhà nước đối với việc kiểm tra, kiểm soát hệ thống hành chính Nhà nước. Vai trò của việc kiểm tra, kiểm soát hệ thống hành chính Nhà nước. Nền hành chính nói chung và bộ máy hành chính nói riêng là bộ phận trọng yếu trong hệ thống chính trị; trong cơ cấu quyền lực Nhà nước của nhân dân, quyền lực Nhà nước thống nhất không phân chia, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Kiểm tra, kiểm soát đối với hành chính Nhà nước do nhiều cơ quan, tổ chức tham gia, với mục đích, nội dung, phương thức khác nhau: Kiểm tra, kiểm soát đối với hành chính Nhà nước là một nội dung, một khâu có tầm quan trọng hàng đầu trong lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; đặc biệt trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành TW Đảng khoá VIII đã chỉ rõ: “Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là công cụ quan trọng và hữu hiệu để đảm bảo hiệu lực quản lý Nhà nước, thiết lập kỷ cương xã hội”. Đó cũng là một nội dung của nhiệm vụ tiếp tục cải cách nền hành chính Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Kiểm tra của Đảng đối với hành chính Nhà nước thực hiện thông qua một hệ thống cơ quan và tổ chức Đảng từ TW đến cơ sở, trong đó có cả tổ chức Đảng trong bộ máy hành chính Nhà nước. Mỗi cơ quan và tổ chức thực hiện chức năng kiểm tra với phạm vi và phương thức khác nhau, nhưng về cơ bản có nội dung thống nhất. Kiểm tra của Đảng đối với hành chính Nhà nước là kiểm tra việc thực hiện Nghị quyết của Đảng, từ việc thể chế hoá Nghị quyết đến việc tổ chức thực hiện; Kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của tổ chức Đảng, đảng viên trong cơ quan hành chính; kiểm tra công tác cán bộ của Đảng trong các cơ quan hành chính; năng lực, phẩm chất của Đảng viên... căn cứ làm cơ sở để đánh giá trong kiểm tra của Đảng chủ yếu là các Nghị quyết và văn bản của Đảng. Hầu hết các chủ trương, chính sách và Nghị quyết của Đảng được thể chế hoá thành pháp luật và các quyết định quản lý Nhà nước. Trong kiểm tra của Đảng khi đánh giá cụ thể phải căn cứ một phần vào pháp luật Nhà nước. Pháp luật của Nhà nước là sự thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách và các Nghị quyết của Đảng. Việc đánh giá trong kiểm tra của Đảng một phần dựa trên cơ sở pháp luật của Nhà nước, đòi hỏi cán bộ kiểm tra của Đảng không chỉ nắm vững đường lối chủ, trương, chính sách các nghị quyết của Đảng mà còn phải có kiến thức về quản lý Nhà nước và pháp luật; phải phối hợp giữa kiểm tra của Đảng với hoạt động kiểm tra, thanh tra kiểm toán của Nhà nước. Kiểm tra của Đảng đối với hành chính nhà nước do nhiều cơ quan tổ chức thực hiện. Vấn đề nổi lên hiện nay là cần cụ thể hoá vị trí, vai trò, trách nhiệm của cơ quan và tổ chức Đảng trong cơ quan hành chính Nhà nước, đặc biệt là tổ chức Đảng cơ sở. Nội dung lãnh đạo và kiểm tra của tổ chức Đảng trong một cơ quan hành chính cụ thể là gì? để làm tròn được vai trò lãnh đạo kiểm tra thì đảng viên, tổ chức Đảng cơ sở được biết đến đâu, được bàn đến đâu trong toàn bộ công việc và hoạt động của cơ quan hành chính? Mối quan hệ và phối hợp trong kiểm tra và lãnh đạo công tác kiểm tra giữa tổ chức Đảng của cơ quan hành chính cấp trên với tổ chức Đảng của cơ quan hành chính cấp dưới như thế nào? Trách nhiệm của tổ chức Đảng và Đảng viên đến đâu khi kiểm tra phát hiện những sai sót trong quản lý Nhà nước ở chính cơ quan mình... Để tăng cường sự lãnh đạo của các cơ quan và tổ chức Đảng trong hệ thống hành chính; cần cụ thể hoá bằng pháp luật mối qụan hệ giữa tổ chức Đảng với cơ quan hành chính và thủ trưởng cơ quan hành chính. Sự kiểm tra giám sát của nhân dân đối với hành chính Nhà nước, do nhiều tổ chức và cá nhân tham gia, với nội dung, phạm vi và phương thức khác nhau. Trong đó có cả những tổ chức và cá nhân bên ngoài hệ thống hành chính Nhà nước, và có cả những tổ chức và cá nhân nằm trong hệ thống hành chính Nhà nước. Những tổ chức, cá nhân nằm ngoài hệ thống hành chính Nhà nước, ở một khía cạnh nhất định là đối tượng của quản lý hành chính Nhà nước. Hoạt động kiểm tra, giám sát của nhân dân trong hệ thống này dựa trên cơ sở pháp luật để thực hiện và bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, góp phần tham gia xây dựng và quản lý Nhà nước. Trên thực tế, cơ chế kiểm tra, giám sát chưa được qui định cụ thể, rõ ràng để có khả năng thực hiện có hiệu quả và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Những qui định về thẩm quyền và trình tự giải quyết kiến nghị, yêu cầu, khiếu nại, tố cáo của nhân dân còn nhiều điều bất hợp lý làm cho nhiều vụ việc giải quyết kéo dài, lòng vòng. Mặt khác, bộ máy hành chính quá cồng kềnh, nhiều tầng, nhiều nấc quá xa dân, chưa tạo thuận lợi để phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Thậm chí, có lúc thông tin về đời sống thực tế của nhân dân, về những ý kiến của nhân dân bị cơ quan Nhà nước cấp dưới bưng bít hoặc sửa đổi... Trong hệ thống hành chính Nhà nước, thành viên của các tổ chức xã hội (như công đoàn, đoàn thanh niên, phụ nữ) vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của quản lý hành chính Nhà nước. Nhu cầu, lợi ích của những thành viên đó gắn liền với hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước, mà hoạt động của các cơ quan hành chính lại tuân theo chế độ thủ trưởng, thứ bậc, mệnh lệnh đơn phương. Do đó, hoạt động kiểm tra, giám sát của các tổ chức xã hội đối với hành chính Nhà nước là góp phần thực hiện phương châm “ dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, góp phần làm trong sạch bộ máy hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, thiết lập kỉ cương xã hội. 2.2 Phối hợp kiểm tra của Đảng với kiểm toán Nhà nước trong việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Với tính chất là cơ quan kiểm tra tài chính công cao nhất của Nhà nước, sự ra đời của cơ quan kiểm toán nhà nước sẽ đáp ứng yêu cầu cơ bản trong việc giải quyết các vấn đề bất ổn trong việc kiểm tra, kiểm soát hệ thống hành chính Nhà nước đã nêu ở trên. Bởi vì sự ra đời của cơ quan này một mặt tạo ra sự hoàn chỉnh đồng bộ trong hoạt động kiểm tra, đặc biệt là trong kiểm tra tài chính; mặt khác, do tính độc lập của kiểm tra từ bên ngoài đối với hệ thống hành chính sẽ làm tăng được khả năng ngăn chặn và loại trừ các tiêu cực trong bộ máy hành chính Nhà nước hiện nay. Kiểm toán Nhà nước là một công cụ quan trọng thực hiện kiểm tra một cách thường xuyên, liên tục việc chấp hành luật báo cáo chế độ chính sách trong quá trình quản lý và chấp hành thu – chi ngân sách Nhà nước. Qua kết quả kiểm toán, kiểm toán nhà nước đưa ra các ý kiến đánh giá, nhận xét giúp đỡ đơn vị sử dụng kinh phí đúng mục đích nhằm tiết kiệm các nguồn lực tài chính góp phần nâng cao hiệu quả và hiệu lực hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước và các chương trình, dự án cải cách hành chính Nhà nước. Đồng thời hoạt động của Kiểm toán Nhà nước đang góp phần vào mặt trận đấu tranh chống lãng phí, ngăn chặn các hành vi tiêu cực, tham nhũng, góp phần làm trong sạch bộ máy hành chính Nhà nước. Tham gia ý kiến với Quốc hội vào việc xây dựng và phân bổ dự toán ngân sách Nhà nước hàng năm, giúp Quốc hội quyết định và phân bổ dự toán thu – chi ngân sách Nhà nước phù hợp với tình hình thực tế. Tuy kiểm toán nhà nước chưa kiểm toán dự toán ngân sách Nhà nước, nhưng đây là tiền đề để kiểm toán nhà nước tiến hành tham gia kiểm toán dự toán ngân sách Nhà nước khi được Nhà nước giao nhiệm vụ này. Thông qua kết quả kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ, kiểm toán nhà nước đã tiến hành cắt giảm các khoản chi tiêu không đúng nội dung, vượt định mức của các cơ quan hành chính công, thu hồi các khoản chi không đúng chế độ quy định nộp ngân sách Nhà nước, đồng thời kiến nghị với các đơn vị được kiểm toán khắc phục những tồn tại trong công tác quản lý và sử dụng ngân sách Nhà nước nhằm phát huy hiệu quả sử dụng ngân sách Nhà nước, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của các cơ quan hành chính Nhà nước. Thông qua kết quả kiểm toán việc tuân thủ, các định mức biên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc133.doc
Tài liệu liên quan