Sau ngày đất nước thống nhất (1975) Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì và triển khai cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung trong toàn quốc. Việc áp dụng cơ chế kinh tế này cả trong điều kiện hoà bình không những không thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ như mong muốn, mà trái lại đưa Việt Nam tiếp tục trượt dài trên con đường suy thoái và khủng hoảng kinh tế. Tình trạng trên đã đưa đến hiện tượng “phá rào” để thoát khỏi sự kìm kẹp và o bế của cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, tạo tiền đề cho những quyết sách đầu tiên của Đảng và Nhà nước cho phép thử nghiệm việc tiếp cận với kinh tế hàng hóa – kinh tế thị trường của các doanh nghiệp Nhà nước vào năm 1980-1981 (Quyết định 25CP và 26CP) và Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương vào năm 1981 đối với nông nghiệp. Sự thử nghiệm này đã bước đầu đem lại thành công cho sự phát triển nền kinh tế đất nước và tạo cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất đường lối đổi mới của Đảng Cộng Sản Việt Nam tại Đại hội lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) với tinh thần cơ bản là: chính thức tuyên bố chuyển nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung dựa trên một chế độ sở hữu – công hữu duy nhất sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Việc nhận thức đúng vai trò kinh tế của Nhà nước trong nên kinh tế thị trường định hướng XHCN có ý nghĩa quan trọng trong lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy em đã làm đề án kinh tế chính trị vói tiêu đề: “ Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”. Đề tài gồm 3 phần:
Chương 1: Lý luận chung về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế.
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ta hiện nay.
26 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1103 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Sau ngày đất nước thống nhất (1975) Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì và triển khai cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung trong toàn quốc. Việc áp dụng cơ chế kinh tế này cả trong điều kiện hoà bình không những không thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ như mong muốn, mà trái lại đưa Việt Nam tiếp tục trượt dài trên con đường suy thoái và khủng hoảng kinh tế. Tình trạng trên đã đưa đến hiện tượng “phá rào” để thoát khỏi sự kìm kẹp và o bế của cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, tạo tiền đề cho những quyết sách đầu tiên của Đảng và Nhà nước cho phép thử nghiệm việc tiếp cận với kinh tế hàng hóa – kinh tế thị trường của các doanh nghiệp Nhà nước vào năm 1980-1981 (Quyết định 25CP và 26CP) và Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương vào năm 1981 đối với nông nghiệp. Sự thử nghiệm này đã bước đầu đem lại thành công cho sự phát triển nền kinh tế đất nước và tạo cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất đường lối đổi mới của Đảng Cộng Sản Việt Nam tại Đại hội lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) với tinh thần cơ bản là: chính thức tuyên bố chuyển nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung dựa trên một chế độ sở hữu – công hữu duy nhất sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Việc nhận thức đúng vai trò kinh tế của Nhà nước trong nên kinh tế thị trường định hướng XHCN có ý nghĩa quan trọng trong lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy em đã làm đề án kinh tế chính trị vói tiêu đề: “ Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”. Đề tài gồm 3 phần:
Chương 1: Lý luận chung về kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế.
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm đổi mới và tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước ta hiện nay.
CHƯƠNG I: Lý luận chung về kinh tế
thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay
1. Tính tất yếu khách quan phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Việc lựa chọn mô hình “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là tất yếu khách quan và hoàn toàn phù hợp với xu thế của thời đại. Việt Nam hiện nay không có sự lựa chọn nào khác ngoài cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN để thúc đẩy sự phát triển nhanh của nền kinh tế. Khẳng định tính khách quan của sự lựa chọn đó xuất phát từ những luận cứ sau đây:
Thứ nhất, Việt Nam lựa chọn kinh tế thị trường để thúc đẩy phát triển nhanh kinh tế đất nước là kết quả của sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin và sự phân tích khách quan thất bại của mô hình kinh tế kế hoạch tập trung phi thị trường ở Liên Xô cũ.
Đành rằng sự sụp đổ có nhiều nguyên nhân từ rất nhiều yếu tố khác nhau như năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã suy giảm, có những sai lầm và thậm chí có sự phản bội. Nhưng chủ nghĩa duy vật của C.Mác chỉ ra, những biến cố lịch sử trọng đại như sự sụp đổ của Liên Xô chỉ có thể tìm nguyên nhân trong bản thân tiến trình phát triển kinh tế, trong kết cấu kinh tế và trong phương thức sản xuất. Sự sụp đổ kinh tế của Liên Xô và các nước thuộc Liên Xô cũ nhất loạt chuyển sang kinh tế thị trường đã chứng minh, không có cơ chế kinh tế khác ngoài cơ chế thị trường cho sự phát triển kinh tế. Cơ chế kinh tế thị trường là cơ chế kinh tế tất yếu của sự phát triển kinh tế .
Thứ hai, lựa chọn cơ chế kinh tế thị trường để thực hiện quá trình chuyển đổi kinh tế Việt Nam là xuất phát từ hoàn cảnh và điều kiện thực tiễn cụ thể của Việt Nam.
Trải qua 40 năm phát triển và xây dựng (từ 1945-1985), nền kinh tế Việt Nam về cơ bản vẫn nằm trong tình trạng chậm phát triển, mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung phi thị trường kiểu Xô Viết tiếp tục kìm chân Việt Nam trong trạng thái lạc hậu. Cho đến thời điểm này những năm sau 1985, Việt Nam có điều kiện chứng kiến sự phát triển nhanh chóng về kinh tế của các nước có cơ chế kinh tế thị trường trên thế giới một cách đầy đủ hơn. Những điều đó cho phép Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định một cách chắc chắn rằng: chỉ có phát triển kinh tế thị trường mới thúc đẩy được sự phát triển của lực lượng sản xuất và đưa đất nước thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển.
Thứ ba, nền kinh tế thị trường mà Việt Nam lựa chọn không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa mà là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chặng đường tiến đến và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là chặng đường lâu dài, đầy khó khăn nhưng đó là chặng đường tất yếu.Nhìn một cách toàn diện, tính tất yếu đó đặt ra không chỉ riêng cho Việt Nam mà cho mọi quốc gia trên thế giới kể cả hệ thống kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Vì vậy để ngay từ đầu không vấp phải những sai lầm mang tính bản chất của hệ thống kinh tế thị trường TBCN, Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản không thể có sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường khác mà chỉ có thể là mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN.
2. Các đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
2.1. Kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường (KTTT) là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội mà trong đó quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi, tiêu dùng đều gắn với thị trường, được thực hiện thông qua thị trường. Vì vậy, kinh tế thị trường không chỉ là công nghệ kỹ thuật mà còn là quan hệ xã hội, nó không chỉ bao hàm yếu tố lực lượng sản xuất mà còn quan hệ sản xuất. Kinh tế thị trường gồm nhiều hình thức sở hữu mà trong đó nó phụ thuộc vào chế độ sở hữu thống trị. Mặt khác bản thân quan hệ thị trường, quan hệ hàng hóa – tiền tệ là thể hiện quan hệ giữa người với người trong xã hội.
Vì vậy không có kinh tế thị trường chung chung, thuần túy, trừu tượng tách khỏi các hình thái kinh tế – xã hội, tách rời chế độ xã hội. Trong các chế độ xã hội khác nhau, kinh tế thị trường mang tính chất xã hội khác nhau, có những hậu quả xã hội khác nhau. Tác động tích cực hay tiêu cực của kinh tế thị trường đến đâu còn phụ thuộc vào chế độ xã hội, vai trò Nhà nước, vào chính sách và pháp luật của Nhà nước.
2.2. Định hướng XHCN.
Thuật ngữ “định hướng XHCN” ở Việt Nam lần đầu tiên được Đảng chính thức nêu ra tại Đại hội Đảng lần thứ VII. Đại hội này đã sử dụng tập hợp từ “vận hành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN” và vấn đề “giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới” được xem là bài học kinh nghiệm đầu tiên trong 5 bài học kinh nghiệm được rút ra sau 5 năm đổi mới. Từ đây, thuật ngữ “định hướng XHCN” được sử dụng rộng rãi trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội, trong các công trình khoa học ở nước ta.
Cho đến nay, về cơ bản, nội dung của “định hướng XHCN” được hiểu là quá trình phấn đấu thực hiện hóa 6 đặc trưng của CNXH mà Đại hội VII đã thông qua bằng 7 phương hướng cơ bản. “Định hướng XHCN” là khái niệm dùng để chỉ vai trò nhân tố chủ quan trong việc lựa chọn con đường XHCN, xác định phương hướng cơ bản để từng bước hiện thực hóa con đường đó và nhằm khẳng định mặt tích cực của nhân tố chủ quan trong việc xác định nấc thang, trình độ phát triển của xã hội ta trong giai đoạn hiện nay.
2.3. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
Thứ nhất, về chế độ sở hữu: Nền KTTT định hướng XHCN dựa trên nhiều hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân và Nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp, song chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về tư liệu sản xuất chủ yếu đóng vai trò nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Từ các hình thức sở hữu cơ bản hình thành nhiều thành phần kinh tế với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Tính định hướng XHCN đòi hỏi trong quá trình phát triển KTTT ở nước ta phải củng cố và phát triển kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác để trở thành nền tảng của nền kinh tế; có khả năng hướng dẫn các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN. Kinh tế Nhà nước phải được củng cố và phát triển ở các vị trí then chốt của nền kinh tế, các lĩnh vực dịch vụ xã hội cần thiết cũng như an ninh – quốc phòng, mà các thành phần kinh tế khác không có điều kiện hoặc không muốn đầu tư vì không có lãi hoặc ít lãi.
Thứ hai, về cơ chế quản lý và vận hành nền KTTT định hướng XHCN.
Cơ chế vận hành KTTT định hướng XHCN là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cơ chế đó đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển hướng tới đích XHCN của nền kinh tế theo phương châm: Nhà nước điều tiết vĩ mô, thị trường hướng dẫn doanh nghiệp.
Cơ chế vận hành nền KTTT định hướng XHCN nêu thể hiện rõ các mặt cơ bản:
Một là, Nhà nước XHCN – Nhà nước của dân, do dân và vì dân – là nhân tố đóng vai trò “nhân vật trung tâm” và điều tiết nền kinh tế vĩ mô nhằm tạo dựng và đảm bảo môi trường pháp lý, kinh tế, xã hội thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường; thực hiện chính sách xã hội, đảm bảo công bằng xã hội; can thiệp trực tiếp vào các hoạt động kinh tế để đạt được các mục tiêu đặt ra.
Hai là, cơ chế thị trường là nhân tố “trung tâm” của nền kinh tế, đóng vai trò “trung gian” giữa Nhà nước và doanh nghiệp. Nhà nước ta quản lý nền kinh tế và xã hội theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao động và của toàn thể nhân dân.
Thứ ba, về các hình thức phân phối.
Trong nền KTTT ở nước ta tồn tại các hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn hay tài sản đóng góp, phân phối theo giá trị sức lao động (nó được thực hiện trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân và các doanh nghiệp mà vốn đầu tư là của nước ngoài), phân phối thông qua các qũy phúc lợi tập thể và xã hội.
Nước ta xây dựng và phát triển KTTT định hưỡng XHCN chứ không phải là KTTT tư bản chủ nghĩa. Chúng ta lấy phát triển KTTT là phương tiện để đạt được mục tiêu cơ bản xây dựng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì vậy, mỗi bước tăng trưởng kinh tế ở nước ta phải gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Việc phân phối thông qua các phúc lợi xã hội và tập thể có ý nghĩa quan trọng để thực hiện mục tiêu đó.
Thứ tư, nền KTTT định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở, hội nhập.
Đặc điểm này phản ánh sự khác biệt giữa nền KTTT định hướng XHCN mà chúng ta đang xây dựng với nền kinh tế đóng, khép kín trước đổi mới, đồng thời phản ánh xu hướng hội nhập của nền kinh tế nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế.
Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đang diễn ra quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh nước ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển KTTT hiện đại theo kiểu rút ngắn.
Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa các hình thức đối ngoại, gắn thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ vững độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
CHƯƠNG II. Vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền KTTT định hướng XHCN
ở Việt Nam hiện nay
2.1. Các quan niệm cơ bản về vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế thị trường.
Trong lịch sử phát triển các học thuyết kinh tế của nhân loại tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế, đó là: thuyết “bàn tay vô hình” của A.Smith - nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh, lí thuyết “cân bằng tổng quát” của Leon Wallras – nhà kinh tế học người Pháp, lí thuyết “bàn tay Nhà nước” của Keynes, lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp của P.A.Samuelson – nhà kinh tế học Mỹ…Và ta đề cập đến ba lý thuyết tiêu biểu trong số các lý thuyết trên phản ánh rõ vai trò của Nhà nước đối với nền kinh tế:
Một là, thuyết “bàn tay vô hình”. A.Smith, tác giả cuốn “Của cải của các dân tộc” (1776) là cuốn sách đầu phôi thai của kinh tế học hiện đại đã xúc động khi phát hiện ra một trật tự trong hệ thống kinh tế. A.Smith đã tuyên bố nguyên lý “bàn tay vô hình”, theo nguyên lý này, mỗi lợi ích của riêng mình như là đã được một “bàn tay vô hình” dẫn dắt đến chỗ đạt được lợi ích tốt đẹp nhất cho mọi người. Trong thế giới tốt đẹp hơn tất cả này, bất kỳ sự can thiệp nàp của chính phủ vào sự canh tranh tự do gần như chắc chắn có hại. Như vậy, A.Smith cho rằng cần phải tôn trọng “bàn tay vô hình”, tức hoạt động sản xuất và lưu thông hàng hóa được phát triển theo sự điều tiết của “bàn tay vô hình”. Nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, hoạt động kinh tế vốn có cuộc sống riêng của nó. Và Nhà nước chỉ có chức năng bảo vệ quyền sở hữu của các nhà tư bản, đấu tranh chống thù trong giặc ngoài, và trừng phạt những kẻ phạm pháp. Vai trò kinh tế của Nhà nước được thể hiện khi những nhiệm vụ kinh tế vượt quá sức của các doanh nghiệp như nhiệm vụ xây dựng những công trình kinh tế lớn…
Học thuyết “bàn tay vô hình” là một khái niệm để giải thích tại sao kết quả của một cơ chế thị trường lại có vẻ trật tự như thế. Sự thấu hiểu của A.Smith về chức năng chỉ đạo của chức năng thị trường đã cổ vũ các nhà kinh tế học hiện đại – cả những người thán phục và phê phán chủ nghĩa tư bản.
Tuy vậy, cùng với tiến trình phát triển cuả nền kinh tế thì học thuyết đã tồn tại những hạn chế thực tế. Bởi chúng ta hiểu rằng đôi khi thị trường cũng phản lại chúng ta, rằng có những “thất bại thị trường” như độc quyền và tác động bên ngoài. Chính những thất bại của thị trường là minh chứng cụ thể cho thấy rõ sự hạn chế của thuyết “bàn tay vô hình” của A.Smith cũng như các học thuyết của các nhà kinh tế học khác khi quá “say mê vẻ đẹp” của cơ chế thị trường, coi đó là hiện thân của sự hiện thân, của sự hoàn hảo, là tinh túy của sự hài hòa, của đấng cao siêu, là ngoài tầm tay của con người.
Hai là, lý thuyết Nhà nước điều tiết kinh tế thị trường.
Theo thuyết của trường phái Keynes, Nhà nước can thiệp vào kinh tế ở cả tầm vĩ mô và vi mô. ở tầm vĩ mô, Nhà nước sử dụng các công cụ như lãi suất, chính sách tín dụng, điều tiết lưu thông tiền tệ, lạm phát, thuế, bảo hiểm, trợ cấp, đầu tư phát triển… ở tầm vi mô, Nhà nước trực tiếp phát triển các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng. Keynes và những người theo ông tin tưởng rằng, sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế sẽ khắc phục được khủng hoảng, thất nghiệp, tạo ra sự ổn định cho phát triển kinh tế xã hội. Song những chấn động lớn trong nền kinh tế vẫn diễn ra. Hơn nữa, thêm vào đó là tình trạng khủng hoảng, thất nghiệp, lạm phát vẫn xảy ra ngày càng trầm trọng. Điều này đã làm tăng làn sóng phê phán lý thuyết của Keynes và làm xuất hiện tư tưởng phối hợp “bàn tay vô hình” với Nhà nước để điều chỉnh nền KTTT.
Ba là, lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp.
Lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp là lý thuyết trung tâm của trường phái chính hiện đại, lý thuyết này bắt nguồn từ những đòi hỏi thực tiễn của nền kinh tế tư bản. Samuelson cho rằng, điều hành một nền kinh tế không có cả chính phủ lẫn thị trường cũng giống như người ta muốn vỗ tay mà chỉ có một bàn tay.
Theo Samuelson, cơ chế thị trường là hình thức tổ chức kinh tế trong đó doanh nhân với người tiêu dùng tác động qua lại lẫn nhau thông qua thị trường để giải quyết ba vấn đề trung tâm của xã hội cũng như của nền kinh tế: sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? sản xuất như thế nào?. Đồng thời cơ chế thị trường là một trật tự kinh tế, là một cơ chế tinh vi phối hợp một cách không tự giác giữa doanh nhân với nhân dân hay doanh nhân với doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả trên thị trường. Nó là một phương tiện giao tiếp để tập hợp tri thức của hàng triệu cá nhân khác nhau, không có bộ não trung tâm nhưng vẫn giải quyết được bài toán mà máy tính lớn nhất ngày nay không giải nổi.
Từ những nghiên cứu về cơ chế thị trường, Samuelson đã chỉ ra những đặc điểm của cơ chế thị trường.
Thứ nhất, cơ chế thị trường là một cơ chế tự phát, điều tiết quan hệ cung – cầu, hàng hóa – tiền tệ. Cụ thể nếu cầu của một loại hàng hóa nào đó tăng lên thì người bán tăng giá để điều tiết, phân phối một lượng cung hạn chế; khi giá lên cao thúc đẩy người sản xuất mở rộng sản xuất; khi có quá nhiều hàng hóa tức cung vượt cầu thì người bán muốn bán hết hàng hóa phải giảm giá và người mua sẽ mua hàng hóa nhiều hơn.
Thứ hai, trong nền KTTT có “hai ông vua” thống trị thị trường.
Ông vua thứ nhất là khách hàng (người tiêu dùng) vì chính họ là ngưòi “bỏ phiếu” bằng đô la để bù đắp những chi phí và trả lãi cho doanh nghiệp và họ chọn điểm nằm trên ranh giới khả năng sản xuất. Ông vua thứ hai là kĩ thuật vì chính nó quyết định chi phí sản xuất trong hoạt động của các doanh nghiệp, tổ chức…
Thứ ba, trong nền KTTT lợi nhuận vừa là mục đích, vừa là động lực của người kinh doanh. Hay cơ chế thị trường dùng lãi lỗ để giải quyết ba vấn đề: sản xuất cái gì, cho ai và như thế nào.
Thứ tư, KTTT phải được hoạt động trong môi trường cạnh tranh do các quy luật kinh tế khách quan chi phối.
Nghiên cứu sự hoạt động của cơ chế thị trường Samuelson cũng chỉ rõ: Bàn tay vô hình đôi khi cũng đưa nền kinh tế tới những sai lầm. Đó chính là những khuyết tật của hệ thống KTTT. Những khuyết tật này có thể là do tác động bên ngoài gây nên, như ô nhiễm môi trường; hoặc là những thất bại thị trường do tình trạng độc quyền phá hoại cơ chế tự do cạnh tranh; hoặclà các tệ nạn như khủng hoảng, thất nghiệp… Để đối phó với những khuyết tật của cơ chế thị trường, các nền kinh tế hiện đại phối hợp giữa “bàn tay vô hình” với “bàn tay hữu hình” như thuế khóa, chi tiêu và luật lệ của chính phủ.
Vai trò của Nhà nước đã được Samuelson nhìn nhận một cách khách quan, đó là bốn chức năng chính của Nhà nước.
Một là, chức năng thiết lập khuôn khổ pháp luật.
ở đây, chính phủ đề ra các quy tắc trò chơI kinh tế mà các doanh nghiệp, ngưòi tiêu dùng và cả bản thân chính phủ cũng phải tuân thủ; nhằm mục đích tạo ra môI trường tự do cạnh tranh để cơ chế thị trường hoạt động có hiệu quả.
Hai là, chức năng ổn định kinh tế vĩ mô để đảm bảo nền kinh tế ổn định; nhằm chống lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng…
Ba là, chức năng hiệu quả. Chính phủ đưa ra các luật lệ chống độc quyền, đảm bảo cung ứng các hàng hóa cộng cộng hay thông qua hệ thống hoanh nghiệp Nhà nước, hay chính phủ có thể đảm bảo về tài chính để các công ty, tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng…
Bốn là, chức năng công bằng. Chính phủ dành một phần từ thu nhập quốc dân để phân phối lại cho những người già, người khuyết tật để đảm bảo cho họ mức sống tối thiểu về y tế, dinh dưỡng…
Tuy nhiên, chính phủ có thể đưa ra những quyết định sai lầm, phản ánh không đúng hiện thực khách quan nhất là khi chính phủ rơi vào tay một nhóm thiểu số nào đó. Như vậy, để đảm bảo cơ chế thị trường và bàn tay Nhà nước hoạt động có hiệu quả, đồng thời để khắc phục hạn chế, khuyết tật của hai bàn tay thì cần phối hợp hai bàn tay một cách nhịp nhàng và có hiệu quả.
Nói tóm lại, lý thuyết về nền kinh tế hỗn hợp của Samuelson đã phản ánh đúng hiện thực khách quan về sự cần thiết vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền KTTT hiện đại nhằm khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường và sự cần thiết phối hợp giữa “bàn tay hữu hình” – “bàn tay vô hình”.
2.2. Vai trò của Nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay
2.2.1. Tính tất yếu khách quan vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền KTTT
Nhà nước là hiện tượng trong lịch sử, ngay từ khi ra đời nó đã có vai trò to lớn trong xã hội có giai cấp và trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại. Nhà nước một mặt nó là tổ chức công quyền, thực hiện công quản, quản lý mọi mặt đời sống xã hội; mặt khác chính thông qua quản lý xã hội có hiệu quả mà nó thực hiện được sự thống trị của giai cấp thống trị đối với toàn xã hội. Bất cứ nhà nước nào cũng đều thực hiện chức năng hai mặt đó. Mặc dù, nhà nước có định hướng cho sự phát triển của xã hội nhưng bản thân xã hội lại vận động theo những quy luật khách quan của nó, quy luật vận động đời sống sản xuất vật chất và tinh thần, tạo ra cơ sở mới, điều kiện mới, do đó, đòi hỏi có sự thay đổi tương ứng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước thì quản lý nhà nước mới có hiệu quả, nhà nước mới có khả năng thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội.
Từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) Việt Nam đã chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước; thực hiện dân chủ hóa mọi mặt đời sống xã hội; hòa nhập khu vực và quốc tế. Như vậy, sự hiện diện của nhà nước XHCN trong nền KTTT định hướng XHCN vừa với tư cách là “bộ phận cấu thành trọng yếu” (kinh tế nhà nước), vừa với tư cách là chủ thể tổ chức, xây dựng quan hệ quản lý vĩ mô nền KTTT.
Quản lý nhà nước đối với nền KTTT là thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, một đặc trưng của KTTT hiện đại. Đối với KTTT định hướng XHCN, chức năng đó được thực hiện bởi nhà nước của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Sự điều tiết vĩ mô của nhà nước nhằm phát huy tác dụng tích cực và ngăn chặn những tác động tiêu cực của thị trường; đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế hướng tới CNXH. Đặc biệt đối với nền KTTT hiện nay ở nước ta thì vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước có ý nghĩa rất quan trọng bởi nền KTTT không phải là một hệ thống được tổ chức một cách hoàn hảo, không có những vấn đề phức tạp và nan giải:
Cơ chế thị trường nếu không có sự điều tiết của nhà nước, thì sẽ dẫn đến sản xuất “mù quáng”, gây nên các cuộc khủng hoảng thừa hoặc thiếu.
Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường bị giảm.
Cơ chế thị trường không có khả năng tự đIều tiết sự phát triển ở các vùng kém lợi thế so sánh, vùng khó khăn so với vùng thuận lợi, đồng thời nó lại có xu hường làm sâu sắc thêm sự phân hóa thu nhập.
Cơ chế thị trường là môi trường để nảy sinh tình trạng kin doanh lừa đảo, làm hàng giả, lối sống chạy theo đồng tiền, các tệ nạn xã hội, hủy hoại môi trường sinh thái.
Như vậy, để khắc phục hạn chế khuyết tật của cơ chế thị trường cần có sự can thiệp của nhà nước vào nền KTTT. Đồng thời, Nhà nước là người đại diện cho ý chí, lợi ích nhân dân nhằm đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội, vừa giữ vững định hướng XHCN trong sự phát triển của đất nước.
2.2.2. Vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta
2.2.2.1. Mục tiêu kinh tế - xã hội của nhà nước Việt Nam.
Mục tiêu hàng đầu của sự phát triển KTTT ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng, lấy sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xóa đói giảm nghèo.
2.2.2.2. Vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước trong nền kinh tế.
Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế, tức là: lựa chọn phương án phát triển kinh tế – xã hội, can thiệp, điều khiển mỗi khi nền kinh tế đi chệch ngoài phương án bởi các chấn động kinh tế – chính trị – xã hội bên trong và bên ngoài.
Từ đó có thể thấy vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế rất quan trọng..
2.2.2.2.1Hệ thống công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế.
Thứ nhất, kế hoạch hóa định hướng. Kế hoạch hóa là công cụ thể hiện các mục tiêu lý tưởng của một nền kinh tế, nhờ có kế hoạch hóa mà chính phủ có thể phối hợp hoạt động của các doanh nghiệp, của các bộ, các ngành, các địa phương. Kế hoạch hóa là công cụ duy nhất để chính phủ có thể chuyển tải nội dung, đường lối, chính sách, kinh tế quản lý của Nhà nước theo các mục tiêu lựa chọn. Kế hoạch trong cơ chế thị trường không phải là áp đặt mà là định hướng và thực hiện theo dự án.
Thứ hai, hệ thống pháp luật. Pháp luật là công cụ tạo ra môi trường tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp bởi vì nhờ có pháp luật mà các doanh nghiệp, các tổ chức biết được cái gì được làm, cái gì không được làm. Hệ thống pháp luật càng đầy đủ, đồng bộ bao nhiêu, việc quản lý của Nhà nước càng chặt chẽ, thuận lới bấy nhiêu.
Pháp luật là công cụ cưỡng chế hành vi của các doanh nghiệp, nếu như hoạt động sản xuất kinh doanh của họ có thể làm tổn hại đến lợi ích của toàn xã hội.
Thứ ba, hệ thống các chính sách và công cụ kinh tế. Nhờ có hệ thống này mà Nhà nước có thể điều khiển hoạt đọng của các doanh nghiệp. Mối chính sách kinh tế là một hành lang hướng dẫn hoạt động đầu tư, mở rộng, phát triển sản xuất, hướng dẫn các doanh nghiệp hành động
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111100.doc