Trong quản lý Nhà nước, quản lý Nhà nước về kinh tế giữ vị trí đặc biệt quan trọng, bởi vì lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã khẳng định rằng không khi nào và không ở đâu có Nhà nước phi kinh tế, đứng bên trên hay bên ngoài kinh tế. Các hoạt động của Nhà nước (người đại diện trực tiếp là Chính phủ) đều hoặc là tác động thúc đẩy hoặc là kìm hãm sự vận động của nền kinh tế, mặt khác bất cứ Nhà nước nào cũng có vai trò quản lý Nhà nước nền kinh tế quốc dân, thông qua các công cụ quản lý và can thiệp bằng hệ thống thể chế, chính sách để điều khiển nền kinh tế sao cho nền kinh tế tự thân vận động nhằm đạt tới mục tiêu mong muốn và theo quỹ đạo đã lựa chọn. Điều khác nhau cơ bản giữa các quốc gia là Nhà nước quản lý nền kinh tế như thế nào, hình thức, mức độ can thiệp, điều tiết ra sao và đến đâu là hợp lí và thoả mãn được các yêu cầu để đạt tới các mục tiêu đã đặt ra. Thực tiễn cũng đã chứng minh rằng không có một mô hình nào đúng cho mọi quốc gia, vì vậy mỗi nước phải căn cứ vào các điều kiện cụ thể về kinh tế, chính trị, xã hội, điều kiện cụ thể về các nguồn lực chọn giải pháp phát triển hữu hiệu nhất cho nước mình.
Là một sinh viên kinh tế Kế hoạch, tôi chọn đề tài “Vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế nông ngiệp, nông thôn Việt Nam” bởi đây là đề tài gần gũi với chuyên ngành của mình.Tuy vậy do khuôn khổ của đề án có hạn tôi chỉ xin trình bày về sự can thiệp của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế đối với kinh tế nông ngiệp, nông xôn; những mặt đã đạt được và các biện pháp hoàn thiện các chính sách
20 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1475 | Lượt tải: 1
Nội dung tài liệu Đề tài Vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế nông ngiệp, nông thôn Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Trong quản lý Nhà nước, quản lý Nhà nước về kinh tế giữ vị trí đặc biệt quan trọng, bởi vì lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã khẳng định rằng không khi nào và không ở đâu có Nhà nước phi kinh tế, đứng bên trên hay bên ngoài kinh tế. Các hoạt động của Nhà nước (người đại diện trực tiếp là Chính phủ) đều hoặc là tác động thúc đẩy hoặc là kìm hãm sự vận động của nền kinh tế, mặt khác bất cứ Nhà nước nào cũng có vai trò quản lý Nhà nước nền kinh tế quốc dân, thông qua các công cụ quản lý và can thiệp bằng hệ thống thể chế, chính sách để điều khiển nền kinh tế sao cho nền kinh tế tự thân vận động nhằm đạt tới mục tiêu mong muốn và theo quỹ đạo đã lựa chọn. Điều khác nhau cơ bản giữa các quốc gia là Nhà nước quản lý nền kinh tế như thế nào, hình thức, mức độ can thiệp, điều tiết ra sao và đến đâu là hợp lí và thoả mãn được các yêu cầu để đạt tới các mục tiêu đã đặt ra. Thực tiễn cũng đã chứng minh rằng không có một mô hình nào đúng cho mọi quốc gia, vì vậy mỗi nước phải căn cứ vào các điều kiện cụ thể về kinh tế, chính trị, xã hội, điều kiện cụ thể về các nguồn lực chọn giải pháp phát triển hữu hiệu nhất cho nước mình.
Là một sinh viên kinh tế Kế hoạch, tôi chọn đề tài “Vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế nông ngiệp, nông thôn Việt Nam” bởi đây là đề tài gần gũi với chuyên ngành của mình.Tuy vậy do khuôn khổ của đề án có hạn tôi chỉ xin trình bày về sự can thiệp của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế đối với kinh tế nông ngiệp, nông xôn; những mặt đã đạt được và các biện pháp hoàn thiện các chính sách
Nội dung
1.Kinh tế nông thôn
1.1Thế nào là kinh tế nông thôn
Xét về mặt kinh tế - kĩ thuật, kinh tế nông thôn có thể bao gồm nhiều ngành kinh tế như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ. Trong dó nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp là ngành kinh tế chủ yếu
Xét về mặt kinh tế - xã hội, kinh tế nông thôn bao gồm nhiều thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể.
Xét về mặt không gian và lãnh thổ, kinh tế nông thôn bao gồm các vùng như: Vùng chuyên canh lúa, vùng chuyên canh cây màu, vùng trồng cây ăn quả.
1.2.Đặc điểm kinh tế nông thôn
Nông nghiệp là ngành sản xuất phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Những điều kiện tự nhiên như đất đai, nhiệt độ, độ ẩm, bức xạ mặt trời trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng cây trồng vật nuôi. Nông nghiệp cũng là ngành sản xuất có năng suất lao động rất thấp, vì đây là ngành sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên; là ngành sản xuất mà việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ gặp rất nhiều khó khăn. Ngoài ra sản xuất nông nghiệp ở nước ta thường gắn với những phương pháp canh tác, lề thói, tập quán đã có từ hàng nghìn năm nay
Kinh tế nông thôn là một khu vực của nền kinh tế gắn với địa bàn nông thôn. Kinh tế nông thôn vừa mang những đặc trưng chung của nền kinh tế về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, về cơ chế kinh tế vừa có những đặc điểm riêng gắn liền với nông nghiệp, nông thôn.
1.3.Vai trò của kinh tế nông nghiệp, nông thôn trong phát triển nền kinh tế quốc dân.
Đánh giá về kinh tế Việt Nam, không nhà kinh tế nào lại không nhìn nhận rằng đây là một Quốc gia có nền nông ngiệp là chủ yếu, vì lẽ cho tới nay sản phẩm nông nghiệp làm ra vẫn đang chiếm một tỉ trọng cao trong tổng sản phẩm quốc nội (trên 30%GDP), hơn nữa trên 70% dân số Việt Nam vẫn đang sống ở các vùng nông thôn và gần 70% lao động xã hội đang hoạt động và sinh sống nhờ vào sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
Hiện tại cũng như trong nhiều năm tới phát triển nông nghiệp vẫn tiếp tục ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển nền kinh tế, ổn định chính trị và tiến bộ xã hội của đất nước, góp phần giải quyết vấn đề an toàn lương thực quốc gia và xuất khẩu, đóng góp đáng kể vào tích luỹ cho nền kinh tế và tạo ra những nguồn khác có giá trị kinh tế cao phục vụ xuất khẩu. Điều đó không chỉ quan trọng đối với Việt Nam mà còn với nhiều nước trên thế giới.
Đối với toàn nền kinh tế Việt Nam nông - lâm - ngư nghiệp nông thôn còn có vai trò làm cơ sở cho quá trình công ngiệp hoá thông qua:
Cung cấp nguồn vốn lớn, tạo tích luỹ ban đầu.
Đối với nước ta (một nước nông nghiệp) thì việc xuất khẩu nông sản phẩm, nông nghiệp nông thôn đã góp phần giải quyết một phần nhu cầu vốn cho nền kinh tế.
Cung cấp nguyên liệu đầu vào cho nhiều ngành công nghiệp đặc biệt
là công nghiệp nhẹ. Quy mô tốc độ tăng trưởng của nguồn nguyên liệu nông nghiệp là nhân tố quan trọng quyết định quy mô tốc độ tăng trưởng của các ngành công nghiệp nhẹ.
Cung cấp lao động.
Với hơn 70% dân số ở nông thôn thực sự là nguồn nhân lực dự trữ dồi dào cho khu vực thành thị. Để đáp ứng nhu cầu lâu dài của phát triển kinh tế việc gia tăng dân số ở khu vực thành thị sẽ không đủ khả năng đáp ứng. Cùng với việc tăng năng suất lao động trong nông nghiệp, sự di chuyển dân số ở nông thôn ra thành thị sẽ là nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hoá đất nước.
Nông thôn là thị trường quan trọng để tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ từ hàng tư liệu sản xuất, vật tư đến các sản phẩm hàng tiêu ding, từ đơn giản đến cao cấp. Đây là động lực kích thích các ngành công nghiệp phát triển.
Đồng thời phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn là cơ sở để ổn định kinh tế, chính trị xã hội bởi phát triển kinh tế nông thôn là trực tiếp góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho cư dân nông thôn, tạo cơ sở ổn định chính trị, xã hội, góp phần củng cố khối liên minh công nông, tăng cường sức mạnh của chuyên chính vô sản.
Tóm lại: ở hầu hết các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam sẽ không có sự phát triển quốc gia, nếu không có sự phát triển nông thôn. Những vấn đề cốt lõi của nghèo đói, bất công tăng lên, dân số gia tăng nhanh chóng và thất nghiệp ngày càng tăng đều có nguồn gốc ở sự trì trệ và thụt lùi của hoạt động kinh tế ở các vùng nông thôn so với thành thị. Do vậy phát triển nông ngiệp và nông thôn là cơ sở để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước.
2.Vai trò của nhà nước đối với kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
2.1 Sự cần thiết trợ giúp của Chính phủ đối với phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Từ nền kinh tế tự túc, tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước là tất yếu khách quan cho các bước đi tiếp theo của kinh tế nông thôn trong những năm tới. Song chính sự tiếp cận của một nền kinh tế nông thôn còn rất nghèo nàn với cơ chế thị trường mở cửa đã và đang vấp phải nhiều vấn đề, chứa đựng nhiều khó khăn mang tính chất hỗn hợp cả kinh tế và xã hội mà kinh nghiệm quốc tế cho tới nay chưa cho chúng ta công thức định sẵn để áp dụng cho bất cứ một quốc gia nào. Từ yêu cầu thực tế của sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta trong giai đoạn đổi mới đòi hỏi Chính phủ phải có sự can thiệp hợp lí nhằm tập chung giải quyết tốt các vấn đề sau:
Chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện quy hoạch, phát triển các khu công nghiệp.
Yêu cầu đặt ra là phải phát triển kinh tế nông thôn, đảm bảo sự tăng trưởng liên tục, trên cơ sở chuyển dịch từng bước từ thuần nông tự túc, tự cấp sang cơ cấu kinh tế nông - công ngiệp và dịch vụ theo hướng sản xuất hàng hoá đa dạng, có năng sất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, dựa trên việc áp dụng các thành tựu KH - CN mới, trang bị công cụ, thiết bị sản xuất tiên tiến, sản lượng và giá trị hàng hoá nông -công dịch vụ không ngừng được nâng cao.
Cơ cấu sản xuất nội tại của nông - lâm - ngư nghiệp, ngành kinh tế trụ cột của kinh tế nông thôn phải chuyển dịch theo hướng đa dạng hoá và thâm canh tăng vụ, sản xuất lương thực đảm bảo an toàn lương thực quốc gia, đủ tiêu dùng trong nước, có dự trữ và xuất khẩu có hiệu quả, dành đất cho sản xuất các sản phẩm có giá trị cao, có nhu cầu tiêu thụ lớn (cả trong nước và ngoài nước), thay thế dần các sản phẩm giá trị thấp và khó tiêu thụ, khuyến khích và thúc đẩy phát triển mạnh chăn nuôi theo hướng thâm canh nhằm tăng nhanh tỉ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp, phát triển mạnh nuôi thả thuỷ hải sản trên các loại mặt nước có điều kiện đem lại hiệu quả kinh tế cao, đổi mới phương thức khai thác hải sản ngoài khơi.
Chuyển dịch cơ cấu lâm nghiệp theo hướng phát triển mạnh rừng trồng, nhất là các loại cây đa tác dụng, cây đặc sản, dược liệu quý có giá trị cao, cây nguyên liệu lớn nhanh, có thời kì sinh trưởng ngắn và có thị trường tiêu thụ sản phẩm; đồng thời với việc bảo vệ tốt rừng đầu nguồn xung yếu, rừng quốc gia và khai thác rừng tự nhiên hợp lí, gắn sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp với công nghiệp chế biến và bảo vệ môi trường trên từng vùng, bảo đảm phát triển nền nông nghiệp bền vững có hiệu quả cao.
Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ KH - CN trong nông nghiệp nông thôn.
Công ngiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải trang bị kĩ thuật cho các ngành của nền kinh tế theo hướng hiện đại. Tuy nhiên trong nền kinh tế truyền thống người nông dân không muốn và cũng không có điều kiện áp dụng kĩ thuật mới, mà đây lại là yếu tố quyết định sự chuyển động của nông nghiệp.
Do đó, Chính phủ cần có chính sách giúp đỡ về kĩ thuật (giống mới, biện pháp canh tác mới) và có biện pháp cụ thể hướng dẫn thực hiện biện pháp này.
Việc ứng dụng tiến bộ KH - CN vào nông nghiệp chủ yếu tập trung vào những vấn đề sau:
+ Cơ giới hoá.
+ Thuỷ lợi hoá
+Điện khí hoá
+Phát triển công nghệ sinh học
Đẩy mạnh quan hệ sản xuất phù hợp.
Cần phải tiếp tục giải phóng mạnh mẽ và triệt để sức sản xuất ở nông thôn nhằm mục tiêu phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất phát triển.
Yêu cầu đặt ra là phát triển đồng bộ các thành phần kinh tế:
Kinh tế hộ nông dân ( kinh tế hộ gia đình )
Kinh tế nhà nước
Kinh tế tập thể
Kinh tế tư nhân
nhằm khai thác triệt để thế mạnh của các thành phần này. Tuy nhiên cần phải được định hướng đúng đắn lấy thành phần kinh tế là chủ đạo.
Đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp nông thôn.
Trong tất cả các lĩnh vực hoạt động, nhân tố con người luôn giữ vai trò quyết định. Sự phát triển của nông nghiệp nông thôn cũng không phải là ngoại lệ. Nguồn nhân lực ở nông thôn có đặc điểm là trình độ học vấn rất thấp và phần lớn người lao động không qua đào tạo. Có nhiều nguyên nhân đẫn đến tình trạng đó: nghèo đói, kinh tế khép kín, chủ nghĩa kinh nghiệm. Trình độ dân trí thấp là trở ngại không nhỏ đối với sự phát triển của nông nghiệp nông thôn, trước hết là đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Bởi vậy đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp nông thôn trở thành nội dung quan trọng trong việc phát triển nông ngiệp, nông thôn.
Do khả năng kinh tế và nhận thức của cư dân nông thôn có hạn, việc đào tạo nguồn nhân lực cho nông nghiệp, nông thôn phải có sự trợ giúp của Nhà nước.
Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn.
Sản xuất nông nghiệp chủ yếu là sản xuất nhỏ, hình thức trang trại hộ gia đình là chủ yếu. Do đó họ không đủ khả năng để xây dựng cơ sở hạ tầng. Để giúp họ đầu tư theo mô hình lớn Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ họ dưới nhiều hình thức để tạo điều kiện sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Tạo sự ổn định giá cả.
Sản xuất nông ngiệp có độ rủi ro cao do hoạt động của nó phụ thuộc nhiều vao điều kiện tự nhiên, đặc biệt là thời tiết. Thời tiết có tác động tới nguồn nước, giai đoạn sinh trưởng của cây trồng và tình trạng sâu bệnh. Mặt khác do đặc điểm về sự co giãn của cung - cầu của sản phẩm nông nghiệp làm cho giá cả sản phẩm có biến động lớn. Do đó Chính phủ cần có các chính sách bảo hộ và trợ giúp về giá cả tạo sự ổn định cho sản xuất nông nghiệp.
2.2 Sự điều tiết của Nhà nước đối với kinh tế nông thôn thể hiện qua các chính sách kinh tế.
Khu vực kinh tế nông thôn là khu vực đặc biệt của nền kinh tế; sự phát triển của khu vực này có vai trò quan trọng trong việc thực hiện thành công CNH - HĐH đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhưng vai trò đó không hình thành tự phát, mà tuỳ thuộc rất nhiều vào sự tác động của nhà nước. Sự tác động ấy thể hiện chủ yếu thông qua các chính sách kinh tế chủ yếu:
Chính sách kinh tế nhiều thành phần;
Chính sách ruộng đất;
Chính sách thị trường;
Chính sách đầu tư, phát triển kinh tế nông thôn:
Chính sách tín dụng;
Chính sách KH, CN và chuyển giao kĩ thuật cho nông dân;
Chính sách điều tiết đối với nông dân và kinh tế nông thôn;
Chính sách bảo trợ sản xuất đối với một số sản phẩm và vùng sản xuất quan trọng;
Chính sách xã hội;
Chính sách đào tạo, bồi dưỡng và khuyến khích cán bộ công tác ở nông thôn và nâng cao dân trí;
Hoàn thiện và đồng bộ hoá 10 chính sách lớn này sẽ tạo lập được khuôn khổ pháp lí và môi trường thuận lợi thúc đẩy kinh tế nông nghiệp nông thôn đạt tốc độ cao trong những năm tới, bởi muốn gia tăng sản xuất và phát triển kinh tế nông thôn cần phải có động lực, mà động lực sản xuất hàng hoá lại được kết tinh bởi lợi ích vật chất và nhu cầu của người lao động, mặt khác nó còn chịu tác động của nhiều yếu tố về chính sách kinh tế của Chính phủ trong những điều kiện nhất định.
Đối với những vùng chậm phát triển, các chính sách quan trọng trực tiếp tạo ra động lực: chính sách ruộng đất, khuyến nông - lâm - ngư nghiệp thích hợp với tập quán, chi thức của từng địa phương, của từng người lao động; phát triển một số cơ sở hạ tầng thiết yếu, khai thông các mối quan hệ kinh tế, trao đổi hàng hoá, hỗ trợ vốn sản xuất, miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp để khuyến khích đầu tư chuyển sang sản xuất hàng hoá.
Chính vì vậy đối với các vùng bắt đầu bước vào sản xuất hàng hoá cần phải xử lí triệt để các chính sách ruộng đất, nghiên cứu chuyển giao công nghệ mới phục vụ phát triển sản xuất tập trung hàng hoá cao. Hỗ trợ vốn cho các chủ thể sản xuất hàng hoá theo cơ chế thương mại, đồng bộ hoá cơ sở hạ tầng, phát triển công nghệ phù hợp, bảo trợ sản xuất và khai thông thị trường để tạo môi trường thuận lợi, kích thích sản xuất hàng hoá phát triển ổn định. Sau đây tôi xin đề cập tới một số chính sách quan trọng nhằm phân tích những cái đã đạt được, những cái còn thiếu sót và các giải pháp hoàn thiện các chính sách ấy.
2.2.1 Chính sách kinh tế nhiều thành phần.
Sự tồn tại cơ cấu kinh tế nhiều thành phẩn trong thời kì quá độ lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở nước ta là một tất yếu khách quan bởi các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập với nhau mà có mối quan hệ hữu cơ với nhau, tạo thành cơ cấu kinh tế; đồng thời sự tồn tại kinh tế nhiều thành phần nước ta còn đóng vai trò quan trọng:
Khắc phục tình trạng thấp kém và không đồng đều của lực lượng sản xuất, từ đó thúc đẩy tăng năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả kinh tế trong các thành phần kinh tế và trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hoá, góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng nhanh, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, phát triển các mặt của đời sống kinh tế - xã hội.
Cho phép sử dung có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế
Vì vậy thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, nhà nước phải kiên trì nhất quán thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp, mọi cá nhân, mọi đơn vị kinh tế được khuyến khích phát huy các thế mạnh của mình, làm giàu bằng sức lao động chính đáng, tạo sự gắn kết, đan xen, hỗ trợ giữa doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã và các cá thể, tư nhân, để thúc đẩy nhau cùng phát triển. Trong đó doanh nghiệp nhà nước trong nông - lâm - ngư nghiệp phải giữ vai trò trung tâm thúc đẩy kinh tế vùng, khuyến khích mạnh mẽ các doanh gia mở rộng đầu tư để thu hút vốn và lao động tại chỗ.
2.2.2 Chính sách ruộng đất.
Việc ban hành các chính sách về ruộng đất đã thực sự gắn bó mối quan hệ giữa người lao động nông nghiệp với tư liệu sản xuất chủ yếu (đất đai), tạo ra sự phấn khởi và thúc đẩy mạnh mẽ thêm động lực trong sản xuất kinh doanh nông nghiệp.
Việc ban hành chính sách đất đai cởi mở còn tạo điều kiện cho đất đai vận động theo hướng tích tụ quy mô sản xuất lớn dần lên cùng với quá trình phát triển công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn tạo ra sự phân công lại lao động thích ứng với quá trình công nghiệp hóa ở nông thôn.
Chính từ những vai trò ấy mà nhà nước cần có cơ chế kiểm tra đôn đốc các địa phương khẩn trương thực hiện chính sách giao đất, giao rừng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến hộ nông dân. Cần thể chế hoá năm quyền trong luật đất đai, khuyến khích quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất (trong phạm vi cho phép) cho các hộ, trang trại phát triển sản xuất hàng hoá.
Nhà nước cũng cần tạo điều kiện thuận lợi để nông dân thực hiện đầy đủ, đúng pháp luật các quyền sử dụng đất đai; khuyến khích nông dân thực hiện “ dồn điền, dồn thửa” trên cơ sở tự nguyện; nông dân sử dụng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn cổ phần tham gia phát triển sản xuất, kinh doanh, liên doanh, liên kết…Tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo quy hoạch và chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
2.2.3 Chính sách thị trường.
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, kinh tế nông thôn gặp nhiều trở ngại và khó khăn hơn so với khu vực đô thị trong việc tiếp cận các loại thị trường khác nhau. Bởi vậy muốn giúp cho nông dân, nông nghiệp và nông thôn đi vào hoạt động kinh tế theo định hướng thị trường mà không chịu nhiều thua thiệt, cần phải có bàn tay can thiệp của nhà nước. Sự kết hợp hài hoà giữa thị trường với các chính sách kinh tế đối với nông thôn là điều kiện đảm bảo cho nông thôn phát triển.
Từ kết quả nghiên cứu và kinh nghiệm các nước, từ thực tế của nông thôn Việt Nam trong những năm đổi mới ta thấy rằng Nhà nước cần phải có hướng dẫn thực hiện đồng bộ các giải pháp:
Thứ nhất: Nhà nước cần phải có phương hướng cụ thể để phát triển các loại thị trường ở nông thôn, tạo điều kiện đồng bộ thị trường cho kinh tế nông thôn chuyển sang sản xuất hàng hoá và phát triển; cần hình thành và mở rộng nhiều loại thị trường khác nhau nhằm giải quyết đủ các yếu tố đầu vào và đầu ra của hoạt động sản xuất như:
thị trường tiêu thụ hàng hoá nông sản cho nông thôn
thị trường vốn và tư liệu sản xuất cho kinh tế nông thôn
thị trường lao động và việc làm ở nông thôn
Thứ hai: về tình hình sản xuất, cạnh tranh và sự biến động giá cả trên thị trường trong nước và quốc tế.
Trong cơ chế thị trường, giá cả nông phẩm không chỉ ảnh hưởng đến mức thu nhập, mức sống của người nông dân mà còn ảnh hưởng đến sản lượng nông sản, đến sự ổn định xã hội. Do đó, sự can thiệp của nhà nước vào giá cả và sản lượng nông phẩm là rất cần thiết.
Trong những năm được mùa, giá cả nông sản thường giảm sút nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến đời sống của nông dân và quy mô sản xuất trong những năm tiếp theo. Nhà nước cần quy định giá sàn đối với nông phẩm. Để giá sàn được thực hiện trên thực tế, nhà nước cần có hỗ trợ tài chính cho các công ty thu mua nông sản. Nhà nước cũng cần có dự trữ nhất định về nông sản để ổn định giá cả vào những lúc giáp vụ, những năm thời tiết không thuận lợi, thiên tai.
Thứ ba: để ổn định sản xuất nông nghiệp, nhà nước cần có dự báo về nhu cầu và hướng dẫn nông dân sản xuất với quy mô phù hợp.
Thứ tư: nhà nước cần có chính sách khuyến khích xuất khẩu nông sản, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản.
2.2.4 Chính sách đầu tư phát triển kinh tế và tín dụng nông nghiệp.
Nhu cầu vay vốn của các hộ nông dân khá lớn nhưng thực tế cho thấy nguồn vốn từ nội bộ rất nhỏ bé. Trong khi đó, toàn bộ hệ thống có liên quan đến việc cấp tín dụng cho nông nghiệp nông thôn ( từ trung ương đến địa phương ) bao gồm các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng phục vụ người nghèo, ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn và ngân hàng quỹ tín dụng nhân dân cơ sở, cho vay giải quyết việc làm của Kho bạc nhà nước, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội cựu chiến binh vẫn chưa giải quyết được vấn đề cho vay vốn với các hợp tác xã, các nông hộ, các trang trại gia đình. Theo số liệu điều tra còn rất nhiều nông hộ phải đi vay bằng nhiều cách, kể cả bán “Sản phẩm non”, vay nặng lãi để đáp ứng nhu cầu sản xuất hàng hoá. Bởi vậy, thông qua chính sách đầu tư tài chính nhà nước phải thực hiện giúp đỡ, tạo điều kiện cho nông nghiệp, nông dân (nông dân, trang trại gia đình và kinh tế hợp tác) có vốn hoạt động.
Cần có hướng dẫn cụ thể để thực hiện Quyết định số 67/1999/QĐ - TTg tháng 3 năm 1999, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác xã sau chuyển đổi và hợp tác xã mới thành lập được vay vốn phát triển sản xuất. Đối với những hợp tác xã có vốn đóng góp không lớn ( dưới 50 triệu), nếu hợp tác xã có dự án phát triển sản xuất - kinh doanh có tính khả thi, được Uỷ ban nhân dân xã giám định thì có thể được vay số tiền tương đương số vốn của hợp tác xã mà không cần thế chấp.
Đồng thời, cần coi trọng việc củng cố và phát triển hợp tác xã, quỹ tín dụng nông thôn theo tinh thần chỉ thị của Bộ Chính trị ngày 13/10/2000. Tăng cường hình thức tín chấp thông qua các đoàn thể quần chúng và chính quyền cấp xã để các hộ có khó khăn vay vốn sản xuất. Tăng cường kiểm soát, chấm dứt tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn.
2.2.5 Chính sách KH - CN và chuyển giao kĩ thuật đến nông dân.
Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ là một nội dung của phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. nhưng việc ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ vào nông nghiệp, nông thôn gặp rất nhiều trở ngại như: khả năng có hạn về vốn liếng, tiếp cận thông tin kém, sự cản trở của những lề thói, tập tục lạc hậu của người nông dân. Do đó, phát triển nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của Nhà nước về khoa học - công nghệ.
Chính sách khoa học- công nghệ phải tính tới những đặc điểm của sản xuất nông nghiệp, khả năng kinh tế và nhận thức, phong tục, tập quán, lề thói canh tác của cư dân nông thôn đồng thời, chính sách khoa học- công nghệ còn phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới, chiến lược sản phẩm xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới. Các doanh nghiệp Nhà nước trong nông nghiệp như: công ty giống vật nuôi, cây trồng; công ty thuỷ lợi, phân bón; công ty xuất khẩu nông sản có vai trò hết sức to lớn trong việc tuyên truyền, phổ biến khoa học- công nghệ cho nông dân. Chính sách khoa học- công nghệ phải được triển khai dựa trên các hình thức kinh tế này.
2.2.6 Chính sách điều tiết của nhà nước đối với nông dân và kinh tế nông thôn.
Chính sách điều tiết thể hiện sự tổng hợp nhất mối quan hệ giữa nhà nước đối với nông thôn và nông dân. Trong những năm đổi mới vừa qua, quan điểm của nhà nước về chính sách điều tiết là giảm nhẹ gánh nặng các khoản chi phí của nông dân, đồng thời hỗ trợ các mặt để nông dân, nông thôn vượt qua đói nghèo, lạc hậu.
Quan điểm đúng đắn này cần được tiếp tục duy trì và thực hiện tốt hơn trong thực tế, đặc biệt là luật thuế. Trong thời gian tới luật thuế sử dụng đất nông nghiệp cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung hoàn thiện thêm một số nội dung:
+ Sửa đổi hoàn thiện một số quy định về tăng thuế đối với các trường hợp đất trồng cây hàng năm chuyển sang cây lâu năm thích hợp, hợac chuyển sang làm thuỷ sản, lâm nghiệp có mức sinh lời cao hơn.
+ Sửa đổi, hoàn thiện chế độ miễn hoặc giảm thuế đối với những hộ tự bỏ vốn cải tạo và xây dựng đồng ruộng, mức giảm và miễn thuế bằng giá trị vốn mà họ bỏ ra để đầu tư xây dựng đồng ruộng của họ.
Cùng với việc hoàn chỉnh các hệ thống thuế cần khẩn trương xem xét lại các khoản thu dưới dạng phí và lệ phí:
Thuỷ lợi phí: nên giảm dần mức thu thuỷ lợi phí đối với hộ nông dân để tạo tâm lý an tâm đầu tư thâm canh. Chi phí về quản lý, sử dụng khai thác công trình cũng như các chi phí khác nên do ngân sách Nhà nước đảm nhận là chính.
Các khoản nộp khác: sớm bãi bỏ hoàn toàn những khoản thu bất hợp lý đối với nông dân.
2.2.7 Chính sách bảo trợ sản xuất đối với một số sản phẩm và vùng sản xuất quan trọng.
Cần nhanh chóng xây dựng thương hiệu và đăng ký xuất xứ hàng hoá cho các loại rau, quả, hoa thực hiện xúc tiến thương mại có mục tiêu cụ thể. để thực hiện được điều trên, các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan xúc tiến thương mại cần giúp đỡ các cơ sở sản xuất, chế biến rau quả xây dựng, đăng ký thương hiệu hàng hoá, tham gia các hội chợ, giới thiệu sản phẩm trong và ngoài nước. Cần có biện pháp và cơ chế để cơ quan tham tán thương mại của Việt Nam ở các nước phối hợp với các doanh nghiệp quảng bá sản phẩm ở các nước.
Cần tạo điều kiện cho một số vùng tập trung sản xuất các nông sản đặc trưng.
2.2.8 Chính sách xã hội .
Sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn sẽ tạo ra những tiền đề thuận lợi để phát triển văn hoá xã hội ở nông thôn. Tuy nhiên, trong điều kiện cơ chế thị trường, sự phát triển đó không tránh khỏi làm nảy sinh các vấn đề xã hội: dư thừa lao động, phân hoá giàu nghèo, các tệ nạn xã hội, sự xuất hiện những tầng lớp xã hội mới. Do đó, Nhà nước phải có các chính sách nhằm giải quyết và hạn chế những vấn đề xã hội như: chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách phát triển văn hoá, y tế, giáo dục; thực thi luật pháp và thực hiện công bằng dân chủ ở nông thôn.
2.2.9 Chính sách đào tạo, bồi dưỡng và khuyến khích cán bộ công tác ở nông thôn và nâng cao dân trí.
Hiện nay, trình độ cán bộ công tác ở nông thôn còn thấp nhiều so với yêu cầu, số chưa qua đào
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111862.doc