Ngày 3/2/1930 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp chống thực dân Pháp của nhân dân ta đó là việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, mở ra một trang sử mới đầy vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Trong đó vai trò to lớn nhất thuộc về Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Người là tấm gương chói lọi về tinh thần cách mạng triệt để, chí khí kiên cường, bất khuất, toàn tâm toàn ý phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng. Người tận tụy, hi sinh, suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng loài người, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. người là cha đẻ của Đảng ta, là tượng trưng của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý tưởng độc lập, tự do với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa; giữa chủ nghĩa yêu nước nồng nàn với quốc tế vô sản. Người đã tiếp thụ phát huy tốt đẹp nhất truyền thống của dân tộc Việt nam và kết hợp những truyền thống ấy với tư tưởng cách mạng triệt để của thời đại ngày nay, tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin. Người đã sáng lập Đảng ta và rèn luyện Đảng ta thành một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, sáng lập mặt trận dân tộc thống nhất, sáng lập lực lượng vũ trang nhân dân, sáng lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và phấn đấu không mệt mỏi để góp phần tăng cường đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Người luôn chăm lo, rèn luyện cán bộ, đảng viên và không ngừng bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
9 trang |
Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1422 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đề tài Vai trò của Hồ Chí Minh trong thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài:
Vai trò của Hồ Chí Minh trong thành lập Đảng cộng sản Việt Nam? Liên hệ trong việc xây dựng Đảng hiện nay.
Bài làm
Ngày 3/2/1930 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp chống thực dân Pháp của nhân dân ta đó là việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, mở ra một trang sử mới đầy vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Trong đó vai trò to lớn nhất thuộc về Hồ Chí Minh – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Người là tấm gương chói lọi về tinh thần cách mạng triệt để, chí khí kiên cường, bất khuất, toàn tâm toàn ý phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng. Người tận tụy, hi sinh, suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng loài người, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. người là cha đẻ của Đảng ta, là tượng trưng của sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý tưởng độc lập, tự do với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa; giữa chủ nghĩa yêu nước nồng nàn với quốc tế vô sản. Người đã tiếp thụ phát huy tốt đẹp nhất truyền thống của dân tộc Việt nam và kết hợp những truyền thống ấy với tư tưởng cách mạng triệt để của thời đại ngày nay, tư tưởng chủ nghĩa Mác – Lênin. Người đã sáng lập Đảng ta và rèn luyện Đảng ta thành một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, sáng lập mặt trận dân tộc thống nhất, sáng lập lực lượng vũ trang nhân dân, sáng lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và phấn đấu không mệt mỏi để góp phần tăng cường đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Người luôn chăm lo, rèn luyện cán bộ, đảng viên và không ngừng bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau.
Thân thế của Hồ Chí Minh gắn liền với giai đoạn lịch sử vẻ vang nhất của dân tộc Việt Nam và với thời kì đấu tranh sôi nổi nhất của cách mạng thế giới. Hồ Chủ Tịch là vị anh hùng dân tộc vĩ đại, lãnh tụ vô cùng kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc. Từ một người yêu nước chân chính trở thành một chiến sĩ cộng sản vĩ đại, Hồ Chí Minh đã đem ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin soi đường cho cách mạng Việt Nam, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết một lòng, chiến đấu anh dũng, viết nên những trang sử huy hoàng nhất của dân tộc, đưa đất nước vào kỉ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Trong các cuộc kháng chiến trường kì của cả dân tộc và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, vai trò lãnh đạo của Đảng rất to lớn, nhưng người đã sinh ra và nuôi dưỡng Đảng trưởng thành chính là chủ tịch Hồ Chí Minh.
Người sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, nguồn gốc nông dân, nên trong người đã sẵn có một lòng yêu nước nồng nàn. Lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan, Người rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào ta và đã bắt đầu có chí căm thù quân cướp nước và bọn tay sai bán nước. Vào khoảng thời gian này, trong nước diễn ra rất nhiều cuộc khởi nghĩa, Hồ Chủ Tịch rất khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, nhưng không nhất trí với con đường mà các cụ đã chọn. người không theo phái Đông du sang nhật, mà hướng sang các nước phương Tây, nơi có tư tưởng tự do, dân quyền, dân chủ và có khoa học kĩ thuật hiện đại, Đồng thời người nhận thấy chế đôj giáo dục của thực dân Pháp chỉ đào tạo những bọn làm tay sai cho bọn thống trị và ở đâu nhhaan dân cũng bị áp bức bóc lột, đồng bào cũng bị đọa đầy, khổ nhục, điều đó càng thôi thúc Người đi sang các nước Âu tây để xem nhân dân các nước ấy làm như thế nào mà trở nên độc lập, hùng cường rồi sẽ trở về giúp đỡ đồng bào đánh đuổi thực dân Pháp, ý định đấy của Người đã mở ra một phương hướng mới cho sự nghiệp cứu nước của nhân dân ta.
Cuối năm 1911, lấy tên là Ba, Hồ Chủ Tịch làm phụ bếp dưới tàu buôn thuộc hãng vận tải hợp nhất của Pháp. Từ đó người đi, đi rất nhiều, trước hết là sang Pháp. Với lòng yêu nước nồng nàn và căm thù bọn thực dân sâu sắc, Người kiên trì chịu đựng mọi thử thách hòa mình với giai cấp công nhân và nhân dân lao động đủ các màu da, để tìm lấy con đường cách mạng đúng đắn. người tìm hiểu cuộc cách mạng Mý năm 1776, cuộc cách mạng Pháp năm 1789, phong trào giải phóng dân của các nước thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân. Người thấy rằng cách mạng mỹ và cách mạng Pháp nêu cao khẩu hiệu tự do, bình đẳng nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng cho quần chúng lao động, “tiếng là cộng hòa và dân chủ, kì thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó nó áp bức thuộc địa”. “ Mỹ tuy rằng cách mạng thành công đã hơn 150 năm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo tính đến cách mạng lần thứ hai”. Còn Pháp “ cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công nông Pháp hẳn còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức”. Những kết luận này được chính thức rút ra sau khi Nguyễn Tất Thành trở thành người cộng sản. Nhưng trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã sớm nhận thức được tính chất phản động của giai cấp tư sản và thấy rõ các cuộc cách mạng trên là các cuộc cách mạng không triệt để vì nó không đem lại tự do, bình đẳng thực sự cho nhân dân lao động.
Khi chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra, Người đã thấy được tính dã man, tàn bạo, thối nát, giãy chết của chủ nghĩa tư bản, qua đó rút ra được một kết luận quan trọng là ở đâu chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác và vô nhân đạo, ở đâu giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bị áp bức, bóc lột rất dã man; các dân tộc thuộc địa đều có một kẻ thù không đội trời chung là bọn đế quốc thực dân. Do đó người nhận rõ giai cấp nhân dân và nhân dân lao động các nước đều là bạn và chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là thù. Đây là một bước chuyển biến lớn trong nhận thức của Hồ Chủ Tịch.
Năm 1917, từ Anh trở về Pháp, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp và lập ra Hội những người Việt Nam yêu nước để tuyên truyền giác ngộ Việt kiều ở Pháp, đồng thời Người tập viết báo, phân phát truyền đơn và tham gia vào các cuộc họp, cuộc mít tinh đến các buổi thảo luận để tố cáo thực dân Pháp và hướng sự chú ý của mọi người vào vấn đề Đông Dương. Giữa những ngày hoạt động sôi nổi đó thì Cách mạng tháng Mười Nga bùng nổ làm chấn động toàn cầu. Như tiếng sấm mùa xuân, cách mạng tháng Mười Nga đã thức tỉnh giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức bóc lột trên thế giới vùng dậy đấu tranh cách mạng. Nó mở ra một kỉ nguyên mới trong lịch sử loài người, kỉ nguyên tan rã của chủ nghĩa tư bản, kỷ nguyên thắng lợi của chủ ngĩa xã hội trên toàn thế giới. Cách mạng tháng Mười Nga đã có một ảnh hưởng quyết định trong đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch. Phấn khởi và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của cách mạng nước ta và cách mạng toàn thế giới, người quyết tâm đi theo con đường của cách mạng tháng Mười. Năm 1918, chiến tranh thế giới kết thúc. Năm sau các nước đế quốc thắng trận họp hội nghị ở Véc-xây để chia lại thị trường thế giới. Thay mặt những người Việt Nam yêu nước ở Pháp, người đã gửi đến hội nghị bản yêu sách nổi tiếng Quyền của các dân tộc gồm 8 điểm, đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ, quyền bình đẳng và quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam. Tuy không được thừa nhận nhưng đây là đòn tiến công trực diện đầu tiên của Người vào bọn trùm tư bản, bởi vì hội nghị Véc-xây chỉ là nơi chia phần của bọn kẻ cướp, trút tất cả gánh nặng lên đầu nhân dân các nước bại trận và các dân tộc bị áp bức. Qua kinh nghiệm thực tế ấy, Người lại rút ra một kết luận quan trọng khác nữa: những lời tuyên bố về tự do, dân chủ của bọn đế quốc chỉ là những lời đường mật cốt để lừa bịp các dân tộc bị áp bức. Muốn được độc lập và tự do thật sự, các dân tộc bị áp bức phải trông cậy trước hết vào lực lượng của bản thân mình; người Việt Nam phải tự giải phóng lấy mình. Kết luận này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng, vì nó soi sáng con đường đấu tranh cách mạng của nhân dân ta và cuộc đấu tranh của các nước thuộc địa khác. Bản yêu sách đã gây tiếng vang rất lớn trong nhân dân Việt Nam, nhân dân Pháp và nhân dân các thuộc địa của Pháp. Người Pháp coi đó như một quả bom làm chấn động dư luận Pháp. Còn đối với nhân dân Việt Nam thì đó như một “ phát pháo hiệu” thức tỉnh nhân dân ta đứng dậy đấu tranh.
Trong khi hoạt động tích cực, Người đã đọc được Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lê-nin, đây như chiếc cẩm nang thần kì của thời đại mà bấy lâu dân tộc ta hằng khao khát.
Tại đại hội Tua, cùng với những nhà mác-xít ưu tú của Pháp, Hồ Chủ tịch bỏ phiếu tán thành Quốc tế thứ ba và đã trở thành một trong những người tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp, một đảng viên cộng sản đầu tiên của Đảng cộng sản Pháp, đồng thời cũng là người cộng sản Việt Nam đầu tiên. Đó là sự kiện hết sức chính trị hết sức quan trọng, là bước chuyển biến quyết định, bước nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và lập trình chính trị của Người. Sau đó người tham gia sáng lập ra báo Người cùng khổ. Với chức danh là chủ nhiệm kiêm chủ bút và quản lí tờ báo ấy, đó được coi như diễn đàn của nhân dân lao động. Người viết bản án chế độ thực dân Pháp tố cáo tội ác của bọn thực dân với nhân dân các nước thuộc địa, đó không những là một văn kiện quý giá về lí luận và tư tưởng mà còn là đòn tiến công quyết liệt vào chủ nghĩa thực dân và vạch ra con đường đấu tranh cách mạng đúng đắn cho nhân dân ta. Người chủ trương về nước đi vào quần chúng, tổ chức, huấn luyện, đoàn kết và lãnh đạo họ đấu tranh, giành độc lập, giành tự do. Năm 1924, người về đến Quảng Châu ( Trung Quốc) và xúc tiến việc chuẩn bị về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thành lập một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam. Người nghiên cứu tổ chức Tâm tâm xã và thấy răngi những nhà lãnh đạo của tổ chức ấy là “ Không hiểu chính trị, lại càng không hiểu việc tổ chức quần chúng”. Người đã sáng lập ra Việt nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, một tổ chức tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam và còn mở trường huấn luyện chính trị để đào tạo cán bộ cho Đảng. Sau đó, Người còn tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á đông nhằm thống nhất hành động để chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.
Năm 1927, Người viết tác phẩm Đường cách mệnh, nó là cương lĩnh của phong trào yêu nước và phong trào công nhân của những năm 20 của thế kỉ XX. Đường cách mệnh đã chỉ cho giai cấp công nhân và cho toàn thể dân tộc lối thoát khỏi cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, không chỉ dừng lại ở lí luận và cương lĩnh mà nó còn vạch ra những hình thức và phương pháp tổ chức lực lượng cách mạng, nhằm góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta ngày càng phát triển mạnh mẽ dẫn đến sự ra đời của Đông dương cộng sản đảng ở Bắc bộ, An Nam cộng sản Đảng ở Nam bộ và Tân Việt cách mạng đảng thì được cải tổ thành Đông Dương cộng sản liên đoàn.
Cả ba tổ chức cộng sản trên đều tự nhận là cộng sản chân chính và tìm mọi cách tranh thủ sự thừa nhận của quốc tế cộng sản. Trong khi tuyên truyền vận động quần chúng thì lại công kích nhau và tranh giành ảnh hưởng của nhau, đã gây một trở ngại lớn cho phong trào cách mạng, trái với học thuyết xây dựng đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trước tình hình ấy, được sự ủy nhiệm của quốc tế cộng sản, mùa thu năm 1929, Hồ Chủ Tịch đã kịp thời từ Xiêm ( Thái Lan) về Hương Cảng (Trung Quốc), triệu tập hội nghị thành lập Đảng họp vào ngày 3/2/1930 ở Cửu Long gần Hương Cảng. Dưới sự chủ tọa của Người, Hội nghị quyết định thống nhất ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam thành một đảng lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam thông qua chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt và Điều lệ tóm tắt do Hồ Chủ Tịch thảo ra, đó chính là cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam, là một cương lĩnh cách mạng giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới, nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tinh thần dân tộc. Độc lập tự do gắn liền với định hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm cuả sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lê nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm. Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do đồng chí Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, được hội nghị thành lập Đảng thông qua đã xác định cách mạng Việt Nam phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường cách mạng duy nhất đúng để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Ngay từ khi ra đời, Đảng đã xác định đúng đắn đường lối chiến lược và phương pháp cách mạng. Đây là một nhân tố cơ bản đưa cách mạng từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đây là nhân tố làm cho Đảng đoàn kết thống nhất về tư tưởng và hành động trong các lực lượng cách mạng và là nhân tố làm cho Đảng ngay từ đầu đã xứng đáng là Đảng của giai cấp công nhân. Đảng đã sử dụng phương pháp thích hợp đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước để thúc đẩy sức mạnh của cả dân tộc trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam và mở ra một kỉ nghuyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam, kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Sự ra đời của Đảng rõ ràng là một sản phẩm tất yếu của lịch sử cách mạng nước ta, là kết quả của một quá trình chuẩn bị lâu dài và gian khổ của Hồ Chủ Tịch. Sau 10 năm chuẩn bị đầy đủ về các mặt chính trị, tư tưởng, Đảng cộng sản Việt Nam đã ra đời trong một điều kiện hoàn toàn chín muồi, bước vào lãnh đạo cao trào cách mạng trong cả nước, đó chính là nhờ có phương pháp tốt và công phu chuẩn bị chu đáo của Hồ Chủ Tịch. Chính Người và những người cộng sản Việt nam đầu tiên đã biết khéo léo kết hợp việc tuyên truyền nguyên lí chủ nghĩa Mác-Lênin với công tác cổ động chính trị hàng ngày nhằm đưa quần chúng hành động theo phương hướng và đường lối của chủ nghĩa mác-xít. Người đã biết thông qua đội ngũ của người trí thức cộng sản làm cầu nối đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào công nhân, nông dân và trí thức, nhằm “vô sản hóa” họ và đã kết hợp phát triển tổ chức quần chúng yêu nước rộng rãi thành những tổ chức làm hạt nhân cho Đảng sau này.
Không những có vai trò to lớn trong việc thành lập Đảng mà Hồ Chủ tịch còn thảo ra cương lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng, một cương lĩnh đã chỉ rõ phươngn hướng và nhiệm vụ của Đảng để lãnh đạo toàn dân làm cách mạng. Hồ chủ tịch đã kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam để sáng lập ra Đảng ta, đảng của giai cấp công nhân nước ta. Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam và những thắng lợi vẻ vang sau này gắn liền với tên tuổi Hồ Chí Minh, người sáng lập lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
Đảng ta trong thời đại hiện nay
Đảng đã vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc kết hợp với tiếp thu tinhh hoa trí tuệ của nhân loại để hình thành hệ thống lí luận về định hướng phát triển của đất nước, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Để làm được điều đó, Đảng phải có một đội ngũ cán bộ trong sạch, có tư tưởng cộng sản và trình độ cao để lãnh đạo nhân dân đoàn kết trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển giáo dục, khoa học công nghệ và chú ý tới các vấn đề xã hội, môi trường nhằm mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội, cái đích mà nhân dân ta luôn hướng tới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BT012.DOC