- Hồ Chí Minh là lãnh tụ quan tâm hàng đầu đến vấn đề đạo đức đến xây dựng đạo đức mới.
Sự quan tâm này rất sớm. Ngay từ khi bắt đầu hoạt động cách mạng và quan tâm suốt cả cuộc đời. Điều này thể hiện:
+ Trong những bài giảng ở Quảng Châu để huấn luyện các chiến sĩ yêu nước Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đặt nội dung giáo dục đạo đức lên hàng đầu. Trong tác phẩm "Đường cách mạng", Người đã nêu lên 23 điều về tinh cách của người chiến sĩ cách mạng.
- Theo Hồ Chí Minh, mỗi chiến sĩ cách mạng phải có đạo đức cách mạng và để có những phẩm chất đạo đức tốt đẹp cần phải trang bị cho họ về lý luận và thực hành, rèn luyện trong thực tế.
- Hồ Chí Minh cho rằng để cách mạng thành công phải làm cho mọi người giác ngộ chính trị, mặt khác tăng cường sức mạnh tổ chức và đặc biệt phải tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh quan tâm đến vấn đề đạo đức trên cả hai phương diện:
+ Về lý luận, người đã xây dựng được hệ thống quan điểm, chuẩn mực đạo đức đúng đắn, phù hợp mang tính chiến đấu cao.
+ Về thực tiễn đạo đức: Người đã để lại một tấm gương đạo đức sáng ngời. Hồ Chí Minh tiếp thu đạo đức từ nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất là tấm gương của Lênin. Hồ Chí Minh cho rằng chính Lênin đã đào tạo ra các thế hệ cách mạng thế giới không chỉ bằng tư tưởng chính trị thiên tài mà còn bằng cả tấm gương đạo đức cao cả.
- Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng "Cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn; cây phải có gốc, không có gốc cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng, không có đạo đức cách mạng thì tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Bởi vì theo Hồ Chí Minh cuộc cách mạng của nhân dân ta tiến hành" là công việc to tát nặng nề, là cuộc chiến đấu khổng lồ" cho nên không có đạo đức cách mạng thì không thể hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng to lớn.
- Đạo đức cách mạng liên quan đến sự thành bại của cách mạng, nếu quan tâm bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, Đảng viên thì cách mạng thành công, nếu xem nhẹ vấn đề này, không tăng cường giáo dục bồi dưỡng đạo đức thì cách mạng sẽ gặp khó khăn, thất bại. Do đó, Hồ Chí Minh cho rằng trong bất cứ giai đoạn nào của cách mạng đều phải ra sức rèn luyện đạo đức cho cán bộ, Đảng viên.
- Mục tiêu của CNXH là chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, hướng con người tới những giá trị của chân, thiện, mỹ. Với cách tiếp cận CNXH dưới góc độ văn hoá đạo đức nên đối với Hồ Chí Minh CNXH không chỉ là kinh tế mà còn là những giá trị tinh thần, có khi lấy tinh thần, phát huy yếu tố tinh thần để thắng vật chất.
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đối với bọn đế quốc, phong kiến là sự thắng lợi của văn đối với bạo tàn.
15 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1126 | Lượt tải: 0
Nội dung tài liệu Đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TƯ tƯởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người
I. TƯ tƯởng Hồ Chí Minh về đạo đức:
1. Nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh là sự kết tinh đạo đức dân tộc và tinh hoa đạo đức nhân loại. Trong đó tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác - Lênin đã tạo ra bước ngoặt và chiếm vị trí quyết định trong việc hình thành tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
2. Vai trò, vị trí của đạo đức cách mạng theo quan niệm Hồ Chí Minh
- Hồ Chí Minh là lãnh tụ quan tâm hàng đầu đến vấn đề đạo đức đến xây dựng đạo đức mới.
Sự quan tâm này rất sớm. Ngay từ khi bắt đầu hoạt động cách mạng và quan tâm suốt cả cuộc đời. Điều này thể hiện:
+ Trong những bài giảng ở Quảng Châu để huấn luyện các chiến sĩ yêu nước Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đặt nội dung giáo dục đạo đức lên hàng đầu. Trong tác phẩm "Đường cách mạng", Người đã nêu lên 23 điều về tinh cách của người chiến sĩ cách mạng.
- Theo Hồ Chí Minh, mỗi chiến sĩ cách mạng phải có đạo đức cách mạng và để có những phẩm chất đạo đức tốt đẹp cần phải trang bị cho họ về lý luận và thực hành, rèn luyện trong thực tế.
- Hồ Chí Minh cho rằng để cách mạng thành công phải làm cho mọi người giác ngộ chính trị, mặt khác tăng cường sức mạnh tổ chức và đặc biệt phải tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng. Hồ Chí Minh quan tâm đến vấn đề đạo đức trên cả hai phương diện:
+ Về lý luận, người đã xây dựng được hệ thống quan điểm, chuẩn mực đạo đức đúng đắn, phù hợp mang tính chiến đấu cao.
+ Về thực tiễn đạo đức: Người đã để lại một tấm gương đạo đức sáng ngời. Hồ Chí Minh tiếp thu đạo đức từ nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất là tấm gương của Lênin. Hồ Chí Minh cho rằng chính Lênin đã đào tạo ra các thế hệ cách mạng thế giới không chỉ bằng tư tưởng chính trị thiên tài mà còn bằng cả tấm gương đạo đức cao cả.
- Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là nền tảng của người cách mạng "Cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn; cây phải có gốc, không có gốc cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng, không có đạo đức cách mạng thì tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Bởi vì theo Hồ Chí Minh cuộc cách mạng của nhân dân ta tiến hành" là công việc to tát nặng nề, là cuộc chiến đấu khổng lồ" cho nên không có đạo đức cách mạng thì không thể hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng to lớn.
- Đạo đức cách mạng liên quan đến sự thành bại của cách mạng, nếu quan tâm bồi dưỡng đạo đức cách mạng cho cán bộ, Đảng viên thì cách mạng thành công, nếu xem nhẹ vấn đề này, không tăng cường giáo dục bồi dưỡng đạo đức thì cách mạng sẽ gặp khó khăn, thất bại. Do đó, Hồ Chí Minh cho rằng trong bất cứ giai đoạn nào của cách mạng đều phải ra sức rèn luyện đạo đức cho cán bộ, Đảng viên.
- Mục tiêu của CNXH là chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, hướng con người tới những giá trị của chân, thiện, mỹ. Với cách tiếp cận CNXH dưới góc độ văn hoá đạo đức nên đối với Hồ Chí Minh CNXH không chỉ là kinh tế mà còn là những giá trị tinh thần, có khi lấy tinh thần, phát huy yếu tố tinh thần để thắng vật chất.
Thắng lợi của nhân dân Việt Nam đối với bọn đế quốc, phong kiến là sự thắng lợi của văn đối với bạo tàn.
- Đạo đức là thước đo lòng cao thượng của con ngời. Hồ Chí Minh cho rằng mỗi người có công việc, tài năng, vị trí xã hội khác nhau nhưng để xem người đó có lòng cao thượng hay không thì phải căn cứ vào đạo đức của họ. Ai giữ được đạo đức là cao thượng.
- Văn hoá đạo đức sẽ tạo ra sức mạnh cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng xã hội mới. Đạo đức mới, đạo đức cách mạng là xoá bỏ ách áp bức, bóc lột của chế độ cũ, xây dựng một xã hội mới tốt đẹp.
- Đạo đức còn là động lực giúp chúng ta vợt lên khi khó khăn cũng như lúc thuận lợi trong quá trình đấu tranh cách mạng. Theo Hồ Chí Minh trong đấu tranh cách mạng, trong công việc có lúc chúng ta gặp khó khăn, nếu chúng ta giữ được đạo đức cách mạng thì sẽ không sợ sệt, không rụt rè, bi quan chán nản và khi công việc thuận lợi sẽ không rơi vào kiêu căng, công thần, địa vị, tự mãn.
3. Tính thống nhất và toàn diện trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
- Tính thống nhất.
+ Thống nhất giữa chính trị và đạo đức: đó là sự thống nhất của Hồ Chí Minh trong quan điểm lấy đạo đức phục vụ mục tiêu chính trị và ngược lại tư tởng chính trị của Người luôn thấm nhuần đạo đức cách mạng. Người nói: đạo đức cách mạng cuối cùng phải phục vụ cách mạng. Đạo đức không chỉ vì đạo đức mà phục vụ cho sự nghiệp cứu dân, cứu nước.
+ Thống nhất giữa tư tưởng đạo đức và hành vi đạo đức, nói đi đôi với làm.
Hồ Chí Minh cho rằng nói và làm phải đi liền với nhau, nói ít và cần phải làm nhiều.
+ Thống nhất giữa đạo đức và tài: Hồ Chí Minh cho rằng ngời cách mạng phải có đạo đức và có tài năng. Đức tài đi liền với nhau "Có tài mà không có đức là ngời vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó". Theo Hồ Chí Minh, tài cao thì đức phải lớn.
+ Thống nhất giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường: Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh đạo đức cách mạng nhưng Ngời không quên giáo dục rèn luyện bồi dưỡng đạo đức đời thường để mọi người ứng xử với nhau một cách tốt đẹp trong cuộc sống.
- Tính toàn diện:
+ Đề cập đạo đức tới mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội và mọi tầng lớp nhân dân đều có thể nhận đợc ở Người những lời dạy, những việc làm về đạo đức. Trong các tầng lớp nhân dân Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh đến đạo đức của cán bộ, Đảng viên và thế hệ trẻ.
+ Đề cập đạo đức trong mọi phạm vi: gia đình, nhà trường, xã hội, công sở, dân tộc, quốc tế trong đó Người rất chú ý đến vai trò của gia đình trong việc bồi dưỡng đạo đức cho con người.
+ Đề cập đạo trong các lĩnh vực hoạt động như: học tập, chiến đấu, lao động.
+ Đề cập đạo đức trong nhiều mối quan hệ nhưng nổi lên 3 mối quan hệ chính.
* Quan hệ với chính mình
* Quan hệ với người khác
* Quan hệ với công việc.
Đối với mình Người cho rằng phải cần kiệm liêm chính. Đối với người khác phải thân ái giúp đỡ. Đối với công việc phải tận tuỵ.
4. Các phẩm chất đạo đức cơ bản.
a. Trung với nước, hiếu với dân.
- Đây là phẩm chất là chuẩn mực có ý nghĩa quan trọng hàng đầu của người cách mạng bởi ở mỗi con người có nhiều mối quan hệ khác nhau nhưng quan hệ với dân với nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng, là tâm điểm khi xem xét đạo đức của con người của mỗi chiến sĩ cách mạng.
+ Dưới thời phong kiến người ta đã đề cập đến vấn đề "trung", "hiếu" nhưng đề cập với nội dung rất hạn hẹp.
* Trung là với vua, hiếu với cha mẹ, vua trên cả nước. Hồ Chí Minh bàn đến trung hiếu với nghĩa là bổn phận và trách nhiệm của con ngời nhưng đã gạt bỏ nội hàm của khái niệm cũ, những hạn chế trong tư tưởng đạo đức của Nho giáo, đa vào đó những nội dung đạo đức mới đó là trung với nước, hiếu với dân.
+ Nội dung mới của trung và hiếu theo Hồ Chí Minh là:
* Phải đặt lợi ích của cách mạng, của Tổ Quốc lên trên hết, phải quyết tâm đấu tranh cho sự phồn vinh của đất nước và hạnh phúc của nhân dân.
* Thực hiện tốt chính sách của Đảng và Nhà nước
* Phải khẳng định đợc sức mạnh thực sự của đất nước là "nước lấy dân làm gốc", "quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử". Khẳng định và thực hiện được quyền làm chủ của nhân dân, tin tởng nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, tổ chức vận động nhân dân thực hiện tốt chủ trương của Đảng và Nhà nước.
b. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư:
- Đây là phẩm chất đạo đức mà mọi ngời lấy bản thân mình làm đối tượng để giải quyết vấn đề đạo đức. Vấn đề này được Hồ Chí Minh đề cập một cách thường xuyên vì nó xảy ra hàng ngày, hàng giờ, xảy ra trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, cả khi thuận lợi và lúc khó khăn. Nó là một biểu hiện, một minh chứng cho phẩm chất đạo đức trung với nước, hiếu với dân.
- Cần kiệm liêm chính theo quan điểm của Hồ Chí Minh là:
+ "Cần" là "siêng năng, chăm chỉ, cố gắng dẻo dai", là "tăng năng suất lao động và công tác".
+ "Kiệm" là "không xa xỉ, không phung phí, không bừa bãi và không bủn xỉn".
+ "Liêm" là "không tham lam vật chất, địa vị, quyền hành, không tham ô, tham nhũng".
+ "Chính" trước hết là chính với bản thân và với người khác. Hồ Chí Minh cho rằng chính với bản thân là cố gắng thực hiện cái tốt, mình có chính trực thì mới yêu cầu người khác chính trực được.
+ Hồ Chí Minh cho rằng giữa các khái niệm này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động lẫn nhau. Nó là thước đo phẩm chất , trình độ của một con người.
- Hồ Chí Minh khẳng định"
+ Cần kiệm liêm chímh là vấn đề cần thiết và quan trọng với cán bộ Đảng viên bởi vì nó không chỉ ảnh hưởng đối với cá nhân của họ mà có ảnh hưởng đến Đảng và Nhà nước, đến quá trình cách mạng. Bởi nếu họ là người có quyền hành Người cho rằng người lãnh đạo mà thiếu lương tâm, không có đạo đức thì dễ trở nên hủ bại, dễ biến thành sâu mọt của dân.
+ Cần kiệm liêm chính còn có ý nghĩa to lớn đối với cả một dân tộc. "là thước đo sự giàu có về vật chất, sự vững mạnh, tiến bộ về mặt tinh thần của dân tộc", "một dân tộc biết cần, kiệm, liêm, chính là một dân tộc văn minh, tiến bộ".
- Chí công vô tư:
+ Đây là khái niệm tiếp nối cần, kiệm, liêm, chính, nhưng nó cũng có nội hàm riêng:
+ Chí công vô tưư theo Hồ Chí Minh là: đặt lợi ích của đảng của cách mạng của Tổ quốc và nhân dân lên trên, lên trước lợi ích của bản thân "lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ" là "Đảng viên đi trước một làng nước theo sau".
+ Đây là cái đối lập với chủ nghĩa cá nhân bởi chủ nghĩa cá nhân như Hô Chí Minh đã chỉ rõ: Đó là giặc nội xâm, giặc trong lòng, là thứ vi trùng rất độc đẻ ra hàng trăm thứ bệnh, là trở lực trên con đường xây dựng CNXH. Chủ nghĩa cá nhân không chỉ nguy hại với mỗi con ngời mà còn nguy hại cho cả dân tộc. Vì vậy Hồ Chí Minh cho rằng thắng lợi của CHXH không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh xoá bỏ chủ nghĩa cá nhân, xây dựng tinh thân chí công, vô tư.
+ Hồ Chí Minh cũng lưu ý phải phân biệt đâu là chủ nghĩa cá nhân và đâu là lợi ích cá nhân con người. Hồ Chí Minh chủ trương xoá bỏ chủ nghĩa cá nhân nhưng không bao giờ chủ trương xoá bỏ lợi ích cá nhân chính đáng của con người. Người nói: "mỗi người có hoàn cảnh riêng, sở trường riêng, lợi ích riêng, nếu điều đó không ảnh hưởng, đi ngược lại lợi ích tập thể thì cái riêng đó cần phải được khuyến khích... Chỉ có trong chế độ mới xã hội chủ nghĩa mới có điều kiện để thoả mãn lợi ích riêng của mỗi người. Chống chủ nghĩa cá nhân không phải là dày xéo lên lợi ích cá nhân con người".
c. Thương yêu con ngời:
- Duới góc độ đạo đức, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: Trên thế giới này chỉ có 2 giống người: bóc lột và bị bóc lột. Những người bị bóc lột dù màu da, tiếng nói, chủng tộc có khác nhau vẫn có thể thương yêu nhau như anh em một nhà, vẫn có thể đại đoàn kết, đại hoà hợp. Trên thế giới chỉ có tình hữu ái thật sự là tình hữu ái vô sản.
- Sự thương yêu con người của Hồ Chí Minh không phải là chung chung trừu tượng mà luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân. Tình thương yêu đó hướng tới các dân tộc bị áp bức, hướng tới giai cấp vô sản, hớng tới người nô lệ, người cùng khổ.
- Tình thương yêu đó vừa bao la vừa rộng lớn, vừa gần gũi với từng số phận con người. Những số phận càng nhiều đau khổ thì tình cảm của Hồ Chí Minh cho họ càng nồng cháy.
- Tình thương đó vừa gắn với dân tộc vừa gắn với nhân loại đồng thời luôn gắn với những hành động cách mạng cụ thể của Hồ Chí Minh.
d. Tinh thần quốc tế trong sáng:
- Hồ Chí Minh cho rằng chủ nghĩa quốc tế là một đặc điểm quan trọng của đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Nó đợc bắt nguồn từ bản chất quốc tế của giai cấp công nhân, từ sự ưu việt của chế độ XHCN.
- Theo Hồ Chí Minh phẩm chất đạo đức này được thể hiện:
+ Đó là sự kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản cao cả trong mỗi con người.
+ Là sự tôn trọng các dân tộc, đấu tranh chống sự thù hằn dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc, cho hoà bình và phát triển của nhân loại.
- Khẳng định tình đoàn kết quốc tế giữa giai cấp công nhân với nhau. Hồ Chí Minh viết: "Quan san muôn dặm một nhà. Bốn phơng vô sản đều là anh em". Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến vấn đề đoàn kết với nhân dân tiến bộ thế giới, với giai cấp công nhân, với các dân tộc bị áp bức và luôn đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ chặt chẽ với cách mạng thế giới, coi sự giúp đỡ cách mạng thế giới là nghĩa vụ và bổn phận của người cách mạng.
5. Những phương pháp rèn luyện đạo đức.
a. Rèn luyện bền bỉ, suốt đời và gắn bó thực tiễn cách mạng.
- Hồ Chí Minh nói: đây là công việc mà mỗi người phải làm thường xuyên "như rửa mặt hàng ngày"; "Đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong".
- Đạo đức cách mạng là hướng tới giải phóng con người và đó cũng là đạo đức của con người đi giải phóng nên phải thường xuyên rèn luyện đấu tranh.
- Mỗi cá nhân tự giác rèn luyện là chính nhưng các tổ chức, các đoàn thể và quần chúng nhân dân cũng phải thường xuyên giúp đỡ, tạo điều kiện cho mỗi người phấn đấu rèn luyện, vươn lên không ngừng.
b. Nêu gương đạo đức, nói đi đôi với làm.
- Theo Hồ Chí Minh, một trong những đặc điểm và nét đẹp của truyền thống văn hoá, truyền thống đạo đức phương Đông là "một tấm gương sống có giá trị hơn hàng trăm bài diễn thuyết".
- Theo Hồ Chí Minh, đạo đức của giai cấp bóc lột là "nói nhưng không làm", "bắt nhân dân làm để phục vụ cho lợi ích của chúng". Đó là đạo đức giả.
- Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức mới là "Đảng viên đi trước làng nước theo sau", "óc nghĩ, tai nghe, mắt trông, chân đi, miệng nói, tay làm". Hồ Chí Minh chủ trương đối với người cán bộ Đảng viên cần phải tránh tình trạng "Nghị quyết đầy túi áo, thống cáo đầy túi quần", trong khi đó công việc thiết thực cho địa phương thì lại không làm được.
c. Xây đi đôi với chống
Hồ Chí Minh cho rằng cuộc cách mạng của nhân dân ta là cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn trong đó vừa chống lai nọc độc của xã hội cũ, những cái xấu vừa nảy sinh, vừa chống lại bọn đế quốc thực dân, vừa chống nghèo nàn lạc hâu, thói hư tật xấu vì vậy thái độ của nguời cách mạng là phải kiên quyết đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác, phải bồi duỡng và phát triển cái thiện, cái tốt đẹp cho xã hội. Vì vậy xây và chống phải đi đôi với nhau.
- Theo Hồ Chí Minh mỗi người đều có cái xấu, cái tốt trong lòng nên phải thường xuyên đấu tranh để cho cái tốt cái thiện trong mỗi con người "nẩy nở như hoa mùa xuân và phần xấu mất dần đi"
- Theo Hồ Chí Minh, giữa xây và chống có mối liên hệ chặt chẽ trong đó lấy xây là chính, là nhiệm vụ cơ bản lâu dài. Để thực hiện điều đó cần phải tạo ra phong trào thi đua yêu nước, phong trào người tốt việc tốt.
II. TƯ tƯởng nhân văn Hồ Chí Minh.
1. Con người là vốn quý nhất - nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng
a. Nguồn gốc tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.
- Truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam
+ Đó là tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau yêu thương quý trọng con người của dân tộc Việt Nam "Thương người như thể thương thân","Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ", "lá lành đùm lá rách"
+ Yêu hoà bình, sống hoà hiếu với các dân tộc khác không muốn chiến tranh, luôn hành động theo triết lý: lấy nhân nghĩa thắng bạo tàn, lấy chó nhân thay cường bạo.
+ Sự tôn kính tổ tiên biết ơn người đi trước, sự thuỷ chung gắn bó với gia đình quê hương, đất nước. Đó là truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây.
+ Sự yêu thương quý trọng, thuỷ chung của gia đình Hồ Chí Minh
ị Trên đây là những cơ sở đầu tiên rất quan trọng, là dấu ấn đậm nét nhất hình thành nên tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh.
- Tư tưởng nhân đạo, bác ái của văn hoá phương Đông và phương Tây.
+ Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng về thế giới "đại đồng", tinh thần "nhân, lễ, nghĩa, trí, tín", "Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã" của Nho giáo.
+ Tinh thần cứu khổ, cứu nạn từ bi của Phật giáo.
+ Tinh thần bác ái yêu thương con người của Giêsu.
+ Tiếp nhận có phên phán tư tưởng nhân quyền và dân quyền, tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, của cách mạng tư sản Mỹ và cách mạng tư sản Pháp.
- Tiếp nhận nhân sinh quan CS, tinh thần nhân đạo CSCN của chủ nghĩa Mác Lênin.
+ Thực tiễn cuộc sống cơ cực của con người nhất là người lao động dưới ách thống trị của bọn đế quốc thực dân.
- Khái niệm con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh: "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nớc, rộng nữa là cả loài người".
Tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh giải quyết vấn đề con người trên các phương diện đó.
- Cách nhìn nhận con người và giải quyết vấn đề con người của Hồ Chí Minh không trừu tượng, chung chung mà Hồ Chí Minh nhìn nhận con người một cách cụ thể, gắn bó với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử nhất định.
+ Trước cách mạng tháng 8 - 1945, đó là "con người nô lệ", "con người cùng khổ". Cách nhìn nhận này đã phản ánh đúng đắn, chính xác thực tế con người sống trong cảnh nô lệ, lầm than.
+ Sau cách mạng tháng 8: Đó là "người công nhân", "người nông dân", "lao động trí óc", "lao động chân tay"," người chủ đất nước"…
+ Khi nói đến khái niệm "dân", "nhân dân", Hồ Chí Minh cho rằng đó không phải là một khối đồng nhất mà là một cộng đồng dân tộc nhiều giai cấp, nhiều tầng lớp, có lợi ích chung và riêng khác nhau, có thái độ, vai trò khác nhau đối với quá trình phát triển của xã hội trừ bọn việt gian bán nớc và tham nhũng. Khi bàn đến vấn đề này, Hồ Chí Minh luôn thống nhất giữa lập trường giai cấp công nhân với lập trường dân tộc.
b. Lòng yêu thương vô hạn con người
- Yêu thương con người, mong muốn giải phóng đồng bào thoát khỏi cảnh khổ đau là một nguyên nhân quan trọng khiến Hồ Chí Minh quyết định đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước, cứu dân, đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Đây là lý tưởng cao đẹp mà Người suốt đời phấn đấu không mệt mỏi để thực hiện.
- Hồ Chí Minh giành tình thương trước hết cho đồng bào, đồng chí không phân biệt miền ngược, miền xuôi, trẻ già, trai, gái, dân tộc, tôn giáo. Người quan tâm đến mỗi người và mọi ngời "Nâng niu tất cả chỉ quên mình".
- Người cũng giành tình yêu thương đối với nhân dân thế giới, nhất là với những người cùng khổ, những người bị áp bức bóc lột, với bạn bè đồng chí quốc tế.
- Hồ Chí Minh đặc biệt biết quý trọng sinh mạng của con người nên luôn luôn mong muốn hoà bình, tìm mọi cách giải quyết mâu thuẫn bằng con đường đàm phán hoà bình, tránh đổ máu với phương châm "Máu của người Pháp cũng là máu"
- Suốt cuộc đời Hồ Chí Minh luôn đấu tranh cho tự do, hạnh phúc của con người.Triết lý sống của Hồ Chí Minh là: "ở đời và làm người là phải biết thương nước, thương dân, thương nhân loại bị khổ đau áp bức", "Hiểu Chủ nghĩa Mác Lênin là phải sống với nhau có nghĩa có tình".
+ Kiên quyết chiến đấu để giải phóng con người, thoát khỏi áp bức bóc lột khổ đau đói nghèo, đem lại hạnh phúc cho con người.
+ Kiên quyết trừng trị những kẻ phản dân, hại nước, tham ô, tham nhũng đục khoét mồ hôi tiền của của dân. - Theo Hồ Chí Minh, giải phóng con người không phải là chung chung mà rất cụ thể đó là:
+ Về chính trị: con người phải được tự do, quyền công dân phải được bảo đảm.
+ Về kinh tế: con người phải có cuộc sống ngày càng tốt đẹp.
+ Về văn hoá: phải được học hành, vui chơi, hưởng thụ các giá trị văn hoá.
+ Đối với trẻ em: phải được chăm sóc dạy dỗ về mọi mặt.
+ Đối với phụ nữ: Bình đẳng với nam giới, có mọi quyền công dân.
c. Tin tưởng vào con người:
- Hồ Chí Minh là một lãnh tụ có lòng tin đặc biệt sâu sắc vào khả năng của con người, vào sức mạnh to lớn của nhân dân. Điều này thể hiện:
+ Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Người đã khẳng định: "Ngày mà hàng trăm triệu người Châu á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh…. họ sẽ trở thành một lực lượng khổng lồ".
+ Trong cách mạng XHCN: Dễ trăm lần không dân cũng chịu
Khó vạn lần dân liệu cũng xong
- Tin vào tài năng trí tuệ sáng tạo của nhân dân Hồ Chí Minh viết: "nhân dân biết cách giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản mà những người tài giỏi, những đoàn thể nghĩ mãi không ra"
- Tin vào khả năng tốt đẹp, sự hướng thiện của con người nếu được giáo dục đào tạo đúng đắn "Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Ph ần nhiều do giáo dục mà nên"
2. Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng
- Hồ Chí Minh hoàn toàn thống nhất với quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về vai trò của quần chúng và cá nhân trong lịch sử nên Người cho rằng sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp giải phóng con người do chính nhân dân làm nên. Mục tiêu của cách mạng là giải phóng con ngời, mang lại hạnh phúc thực sự cho con người.
- Để con người trở thành động lực, thành mục tiêu phát triển của cách mạng theo Hồ Chí Minh cần phải:
+ Chăm lo giáo dục, bồi dỡng về mọi mặt cho con người nhằm phát huy mặt tốt đẹp, mặt tích cực của mỗi cá nhân và cả cộng đồng, đồng thời khắc phục những hạn chế khuyết điểm của họ.
+ Tạo điều kiện về mọi mặt để con người phát triển một cách toàn diện.
+ Thực hiện công bằng, dân chủ tạo điều kiện thuận lợi để ai cũng có cơ hội thể hiện và phát huy tài năng lực của mình.
+ Các cá nhân, tập thể phải không ngừng nỗ lực, phấn đấu tự giác vươn lên mọi mặt.
+ Phải có lòng khoan dung độ lợng với con người.,
3. Trồng người - chiến lược hàng đầu của CM.
- Hồ Chí Minh khẳng định "Muốn xây dựng CNXH trước hết cần có con người XHCN" bởi vì:
+ CNXH được xây dựng trên cơ sở hành động tự giác của con người . Vì vậy việc tạo ra con người XHCN đó là yêu cầu khách quan là kết quả tất yếu của sự nghiệp xây dựng CNXH nước ta.
+ Hồ Chí Minh cho rằng không được chờ đến khi có điều kiện kinh tế xã hội đầy đủ mới tiến hành xây dựng con người XHCN và cũng không chờ xây dựng xong con người XHCN mới tiến hành xây dựng CNXH mà 2 quá trình đó phải tiến hành song song trong suốt quá trình đi lên CNXH
+ Tiêu chuẩn của con người mới XHCN theo Hồ Chí Minh là.
* Có tư tưởng XHCN, có ý thức làm chủ có năng lực làm chủ, có tư tưởng mình vì mọi người.
* Có đạo đức và lối sống XHCN
* Có tác phong XHCN.
* Có năng lực để làm chủ bản thân, gia đình và công việc . Đây là điều kiện cơ bản để tiến lên làm chủ xã hội.
- Vì lợi ích trăm năm "trồng người", "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết". Cho nên Người luôn chủ trương đào tạo bồi dưỡng con người cho cách mạng, coi đó là công việc thường xuyên.
- Trồng người phải đứng trên quan điểm toàn diện, đức, trí, thể, mỹ để tạo ra những con người mới "vừa hồng vừa chuyên".
kết luận
Nội dung xây dựng con nguơì Việt Nam theo nghĩa rộng có quan hệ mật thiết với phát triển kinh tế , xã hội , văn hoá , tinh thần. Theo nghĩa hẹp , xây dựng con người trước hết và cơ bản dựa trên giáo dục và đào tạo . Bởi thực chất nội dung xây dựng con người là xây dựng về mặt nhân cách cụ thể là xây dựng một hệ thống đạo đức trí tuệ thể lực kỹ năng tâm hồn ... làm cho con người có những phẩm chất và năng lực mới, cao, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng Hồ Chí Minh rất chú trọng xây dựng con người Viet Nam rất toàn diện nhưng Người luôn đặt lên hàng đầu tư tưởng đạo đức những lối sống . Theo Người, con người mới XHCN được biểu hiện: Yêu nước yêu chủ nghĩa xã hội một lòng trung thành với tổ quốc với nhân dân, với đảng . Dũng cảm, mưu trí, sáng tạo, giám nghĩ giám làm có tinh thần quốc tế trong sáng .có đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
Song theo đạo lý viêt nam nhân ái bao dung hiếu thảo khiêm tốn, trung thực cần cù, giản dị, đoàn kết cộng động, hết lòng vì mọi người
Yeu lao động, tận tuỵ, quen mình, lao đông bền bỉ tự giác, sáng tạo, có ý thức kỷ luật, ham học hỏi cầu tiến bộ, có năng lực chuyên môn tốt có tri thức hiện đại
Có năng lực để làm chủ bản thân, gia đình và công việc . Không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, văn hoá, khoa học kỹ thuật .
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111849.doc