Đề tài Tư tưởng hồ chí minh về đạo đức

Chủ tịch Hồ Chớ Minh, Lónh tụ vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc,Danh nhân văn hoá thế giới đó về với cừi vĩnh hằng được gần 42 năm. Người ra đi, nhưng đó để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một di sản vô cùng to lớn – đó là tư tưởng về đạo đức cách mạng. Có thể nói rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, nền đạo đức đó được hỡnh thành hàng ngàn năm suốt chiều dài lịch sử dân tộc và kế thừa tư tưởng đạo đức phương Đông cũng như tinh hoa đạo đức của nhân loại và dựa trên nền tảng tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đó kế thừa cú chọn lọc những giá trị đạo đức của dõn tộc,vừa thâu góp những đạo đức của thời đại, đề xuất những tư tưởng đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới và hướng tới việc xây dựng con người mới có đủ đức, đủ tài phục vụ đất nước và làm rạng ngời con người Việt Nam.

Là một công dân Việt Nam, là một thanh niên trong thời đại mới, là chủ nhân tương lai của đất nước bản thân tôi cần phải cố gắng hơn nữa, tích cực hơn nữa trong học tập cũng như trong mọi phong trào hoạt động của đoàn trường và xó hội. Trau dồi kiến thức trong học tập và trong cuộc sống, rút ra những bài học kinh nghiệm, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức làm nền tảng để xây dựng cho bản thân mỡnh một đạo đức tốt, xứng đáng là một công dân Việt Nam đây cũng chính là lý do tôi chọn đề tài này.

Cũng như tất cả mọi người để xd cho bản thõn mỡnh một đạo đức tốt và lấy tư tưởng Hồ Chớ Minh về đạo đức làm nền tảng. bản thõn tụi cần phải hiểu tư tưởng Hồ Chớ Minh về đạo đức là gỡ? Và để hiểu rừ và nhận thức sõu sắc về những nội dung cơ bản và giỏ trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chớ Minh buộc bản thõn tụi cần phải đi tỡm hiểu về nó và đây cũng là mục đích tôi nghiên cứu đề tài này

 

doc32 trang | Chia sẻ: luyenbuizn | Lượt xem: 1450 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Tư tưởng hồ chí minh về đạo đức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A: MỞ ĐẦU Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lãnh tụ vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc,Danh nhân văn hoá thế giới đã về với cõi vĩnh hằng được gần 42 năm. Người ra đi, nhưng đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một di sản vô cùng to lớn – đó là tư tưởng về đạo đức cách mạng. Có thể nói rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, nền đạo đức đã được hình thành hàng ngàn năm suốt chiều dài lịch sử dân tộc và kế thừa tư tưởng đạo đức phương Đông cũng như tinh hoa đạo đức của nhân loại và dựa trên nền tảng tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức của dân tộc,vừa thâu góp những đạo đức của thời đại, đề xuất những tư tưởng đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới và hướng tới việc xây dựng con người mới có đủ đức, đủ tài phục vụ đất nước và làm rạng ngời con người Việt Nam. Là một công dân Việt Nam, là một thanh niên trong thời đại mới, là chủ nhân tương lai của đất nước bản thân tôi cần phải cố gắng hơn nữa, tích cực hơn nữa trong học tập cũng như trong mọi phong trào hoạt động của đoàn trường và xã hội. Trau dồi kiến thức trong học tập và trong cuộc sống, rút ra những bài học kinh nghiệm, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức làm nền tảng để xây dựng cho bản thân mình một đạo đức tốt, xứng đáng là một công dân Việt Nam đây cũng chính là lý do tôi chọn đề tài này. Cũng như tất cả mọi người để xd cho bản thân mình một đạo đức tốt và lấy tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức làm nền tảng. bản thân tôi cần phải hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là gì? Và để hiểu rõ và nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh buộc bản thân tôi cần phải đi tìm hiểu về nó và đây cũng là mục đích tôi nghiên cứu đề tài này Cơ sở và phương pháp nghiên cứu: Tuân thủ nguyên tắc thống nhất tính đảng và tính khoa học nhận thức. Kết hợp chặt chẽ phương pháp logic với phương pháp lịch sử. Vận dụng các phương pháp liên ngành: thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích. Phạm vi nghiên cứu là toàn bộ những nội dung cơ bản và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Ý nghĩa: Làm cho toàn Đảng, toàn dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, thanh niên, học sinh... nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng. Cấu trúc: A: MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài. Phạm vi nghiên cứu đề tài. Mục đích nghiên cứu đề tài. Cơ sở, phương pháp nghiên cứu đề tài. Ý nghĩa. Cấu trúc của đề tài. B: NỘI DUNG I. Nội dung cơ bản của tư tưởng HỒ CHÍ MINH về đạo đức. Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới. Một số lời dạy của Bác Hồ về đạo đức, lối sống. II.Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Nội dung học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Liên hệ bản thân. C. KẾT LUẬN Tài liệu tham khảo B: NỘI DUNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC Quan điểm về vai trò và sức mạnh của đạo đức Đạo đức là gốc của người cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người nêu một tấm gương mẫu mực về thực hành đạo đức cách mạng để toàn Đảng, toàn dân noi theo. Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thống kê trong di sản Hồ Chí Minh để lại có tới gần 50 bài và tác phẩm bàn về vấn đề đạo đức. Có thể nói, đạo đức là một trong những vấn đề quan trọng của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, Người khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển của con người, là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” Người quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi công việc: “Công việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hay kém”. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Người nói, cán bộ, đảng viên muốn cho dân tin, dân phục thì không phải cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. “ vì muốn giải phóng cho dân tộc, cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì ?”. Người đảng viên, người cán bộ tốt muốn trở thành người cách mạng chân chính, không có gì là khó cả. Điều đó hoàn toàn do lòng mình mà ra. Lòng mình chỉ biết vì đảng, vì tổ quốc, vì đồng bào thì mình sẽ tiến đến chỗ chí công vô tư thì khuyết điểm sẽ càng ngày càng ít, mà những tính tốt như sau ngày càng thêm. Tính tốt ấy gồm có năm điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ với mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền. Người đã không ham, không e, không sợ gì thì việc gì là việc phải(đúng) thì họ đều làm được. Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm, không làm việc bậy, không có việc gì phải giấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng, không có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất kì to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng luôn luôn đúng đắn. Trí vì không có việc tư túi nó làm mù quáng, cho nên đầu óc trong sạch, sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem người, biết xét việc. Vì vậy, mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, biết vì Đảng mà cân nhắc người tốt, đề phòng người gian. Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sữa chữa. Cực khổ, khó khăn có gan chịu đựng. Có gan chống lại những sự vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần, thì có gan hi sinh cả tính mệnh cho Đảng, cho Tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát. Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. không ham người tưng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Đó là đạo đức cách mạng. Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người. Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Người trăn trở với nguy cơ xa rời cuộc sống, xa rời quần chúng, rơi vào thoái hóa biến chất của Đảng. Vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường nhắc lại ý của V.I.Lênin: Đảng cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại. Trong di chúc Người căn dặn: “mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo. Chính vì vậy Hồ Chí Minh luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói đi đôi với hành động và hiểu quả trên thực tế. Người nói: “phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất. Như vậy trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đức và tài, hồng và chuyên, phẩm chất và năng lực thống nhất làm một. Trong đó: đức là gốc của tài, hồng là gốc của chuyên; phẩm chất là gốc của năng lực. Tài là thể hiện cụ thể của đức trong hiệu quả hành động. Đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng cao xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà trước hết ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng sản ưu tú, bằng tấm gương sống và hành động của mình chiến đấu cho lý tưởng đó trở thành hiện thực. Hồ Chí Minh cho rằng phong trào cộng sản công nhân quốc tế trở thành lực lượng quyết định vận mệnh của loài người không chỉ do chiến lược và sách lược thiên tài của cách mạng vô sản, mà còn do những phẩm chất đạo đức cao quý làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành một sức mạnh vô địch. Tấm gương đạo đức trong sáng của một nhân cách vĩ đại, song cũng rất đời thường của Hồ Chí Minh chẳng những có sức hấp dẫn lớn lao, mạnh mẽ với nhân dân Việt Nam, mà còn cả với nhân dân thế giới. Tấm gương đó từ lâu, là nguồn cổ vũ động viên tinh thần quan trọng đối với nhân dân ta và nhân loại tiến bộ đoàn kết đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Quan điểm về những chuẩn mực đạo đức cách mạng Theo Hồ Chí Minh những chuẩn mực chung nhất của nền đạo đức cách mạng Việt Nam gồm những điểm sau: Một là, trung với nước hiếu với dân. Đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác.Trong Nho giáo, khái niệm “trung-hiếu” là trung với vua, hiếu với cha mẹ. Đây là một nguyên tắc cơ bản trong chế độ phong kiến ở Việt Nam. Thái độ ứngxử văn hoá trong xã hội phong kiến phải tuân theo cái trục cơ bản đó, nếu không, sẽ bị vi phạm tư cách, đạo đức làm người. Từ đó Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, phản ánh đạo đức ngày nay cao rộng hơn là “Trung với nước hiếu với dân”. Đó là một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. “Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hànhđộng, vừa là định hướng chính trị-đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau. Trong chữ “trung” như vậy, có cả trung với những ông vua anh minh, nhưng cũng có cả trung với ông vua hèn kém, mà có thể gọi đó là “ngu trung”. Bởi vì, Nho giáo đưa ra nguyên tắc trong quan hệ quân – thần (tức vua – tôi) rất cứng nhắc và sai lầm: “Quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung” (Nghĩa là vua bắt bề tôi phải chết thì bề tôi phải chết, nếu không chết thì là không trung với vua). Hồ Chí Minh cho rằng, người cách mạng phải đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết và trước hết. Trung với nước ở Hồ Chí Minh trở thành lẽ sống tự nhiên và ông ý thức được trách nhiệm phục vụ nhân dân, kể cả khi đã đứng ở đỉnh tháp của quyền lực. Hồ Chí Minh không bị quyền lực làm cho mờ mắt. Ông cho rằng, từ người chủ tịch nước cho đến người cấp dưỡng, quét rác, ai mà làm tròn nhiệm vụ của mình thì đều là người cao thượng, là người làm tròn chữ “trung”. Mỗi một người trong xã hội đều ứng với một công việc cụ thể, một nhiệm vụ cụ thể; hễ người nào hoàn thành và hoàn thành tốt việc đó, nhiệm vụ đó thì đó là trung. Chữ trung đó được đo bằng kết quả cụ thể, bằng hiệu quả công tác, chứ không phải bằng lời nói, bằng việc hô khẩu hiệu cho to, cho lớn, cho dõng dạc, lời lẽ khẩu hiệu cho mỹ miều. Hiếu với dân là nội dung rất cơ bản trong quan niệm của Hồ Chí Minh trong cái cặp chỉnh thể “Trung với nước hiếu với dân”, trong đó có hiếu với cha mẹ mình, và nói rộng ra là tình họ hàng. Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách mạng. Hiếu với dân thể hiện ở chổ thương dân, tin dân, phục vụ nhân dân hết lòng. Để làm được như vậy, phải gần dân, kính trọng và học tập nhân dân, phải dựa vào dân và lấy dân làm gốc. Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dan tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí. Hai là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Vì sao Hồ Chủ tịch đề ra khẩu hiệu: Cần, Kiệm, Liêm, Chính? Vì Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của “đời sống mới”, nền tảng của Thi đua ái quốc. Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bấn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính. Thiếu một mùa, thì không thành trời. Thiếu một phương thì không thành đất. Thiếu một đức thì không thành người. Từ ngày cách mạng Tháng Tám thành công, lập nền Dân chủ Cộng hòa, cho đến mấy năm kháng chiến, dân ta nhờ Cần, Kiệm, Liêm, Chính, mà đánh thắng được giặc lụt, giặc dốt, giặc thực dân và giặc đói. Tuy vậy, đồng bào ta có người đã hiểu rõ, có người chưa hiểu rõ. Có người thực hành nhiều, có người thực hành ít. Cho nên cần phải giải thích rõ ràng, để cho mọi người hiểu rõ, mọi người đều thực hành. Đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là một nội dung của cái gốc đạo đức, cái gốc của sự phát triển trong triết lý hành động của Hồ Chí Minh. Người mà nói và viết về cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư nhiều nhất, người mà kêu gọi mọi người thực hành và tự mình “xắn tay áo” lên để thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư nhiều nhất chính là Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh phân các mối quan hệ của con người thành ba loại: đối với người, đối với việc, đối với mình. Tôi nghiệm thấy rằng, mối quan hệ tự mình đối với bản thân mình là khó xử lý nhất. Tự thấy, tự phê bình, tự xử…vẫn là đòi hỏi bản thân mình nhìn lại mình. Nhìn lại chính mình khó lắm, đánh giá bản thân mình khó lắm. Hồ Chí Minh chính là kẻ sĩ đi làm chính trị có nhân, nếu đối chiếu theo các luận điểm về kẻ sĩ của Khổng Tử mà Phan Bội Châu đề cập trong tác phẩm Khổng học đăng của mình. Kẻ sĩ làm người hoạt động chính trị có nhân, theo Khổng Tử, có năm đức tính: 1. Cung: tự mình đặt ra yêu cầu nghiêm túc đối với bản thân mình về cả ý thức cũng như hành vi, biết tự mình quản lý lấy bản thân mình; 2. Khoan: khoan dung, độ lượng, có tấm lòng khoan thứ đối với mọi người; 3. Tín: có lòng tự tin, tin ở quần chúng, tin cấp dưới, giữ đúng chữ tín, đã nói thì phải làm bằng được, không nói một đằng làm một nẻo, không lừa dối nhân dân để trục lợi; 4. Mẫn: là cần mẫn, siêng năng, làm việc có hiệu quả thực sự; 5. Huệ: biết đưa lại lợi ích cho nhân dân, thực sự thông cảm với dân, không tráo trở với dân, cùng dân mưu sự nghiệp chứ không dùng sức dân, mưu dân, tiền thuế của dân để mưu đồ làm giàu cho bản thân mình. Cái thuyết “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” của Khổng giáo đã có từ khoảng 2 500 năm trước nói lên tầm quan trọng từ bản ngã, từ chính cá nhân con người trong quan hệ cộng đồng. Trước hết là tu thân đã. Đó là cá nhân. Cá nhân, do đó, trở thành cái cực kỳ quan trọng. Ai đó nói rằng, phương Đông không coi trọng cá nhân, mà chỉ có phương Tây coi trọng cá nhân là không đúng. Hồ Chí Minh có lẽ tiếp thu cái cá nhân đó của phương Đông để luôn có sự tự xử với người, với việc, với mình — và nhất là tự mình đối với bản thân mình — một cách đúng đắn nhất. Hồ Chí Minh là người nói nhiều đến cá nhân nhưng ông không sa vào chủ nghĩa cá nhân. Cũng tựa như Hồ Chí Minh nói nhiều đến dân tộc mà không sa vào chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; nói nhiều đến quyết tâm làm một việc gì đó nhưng không sa vào chủ quan, duy ý chí, duy tâm; nói nhiều đến đạo đức và sự nghiêm minh của pháp luật nhưng không tuyệt đối hoá một cái nào mà ở ông có sự gắn kết nhuần nhuyễn giữa “đức trị” và “pháp trị”, vừa có lý vừa có tình; v.v. Cũng như khái niệm “trung hiếu”, “cần, kiệm, liêm,, chính, chí công vô tư” cũng là những khái niệm cũ trong đạo đức truyền thống dân tộc, được Hồ Chí Minh lọc bỏ những nội dung không phù hợp và đưa vào những nội dung mới đáp ứng yêu cầu của cách mạng. CẦN Theo Hồ Chí Minh, cần là cần cù, siêng năng, chăm chỉ trong mọi công việc. Ông đòi hỏi bản thân mình và mọi người đều cần và cho rằng, từ chủ tịch nước đến người cấp dưỡng, quét rác, ai mà hoàn thành nhiệm vụ đều là người cao thượng. Trong các biện pháp kinh tế, Hồ Chí Minh chú ý đến xây dựng kế hoạch: “Muốn cho chữ Cần có nhiều kết quả hơn, thì phải có kế hoạch cho mọi công việc”, vì “công việc bất kỳ to nhỏ, đều có điều nên làm trước, điều nên làm sau. Nếu không có kế hoạch, điều nên làm trước mà để lại sau, điều nên làm sau mà đưa làm trước, như thế thì sẽ hao tốn thì giờ, mất công nhiều mà kết quả ít…Vì vậy, siêng năng và kế hoạch phải đi đôi với nhau” . Một thí dụ: Người thợ mộc muốn đóng một cái tủ. Trước hết anh ta mài sẵn cưa, bào, đục, v.v. và làm sao xếp có thứ tự hẳn hoi. Rồi anh lấy gỗ vừa đủ làm cái tủ. Khi các thứ đều sẵn sàng, anh ta đều bắt tay vào việc đóng tủ. Như thế là anh thợ mộc ấy làm việc có kế hoạch. Như thế là anh ấy sẽ không hao thì giờ, tốn năng lượng, mà việc lại mau thành. Trái lại, nếu anh ấy không sắp đặt sẵn sàng trước, khi cần đến cưa mới chạy đi lấy cưa, khi cần đến đục thì chạy đi tìm đục. Như vậy sẽ mất thì giờ chạy lăng xăng cả ngày, mà công việc được ít. Cần không phải là làm xổi. Nếu làm cố chết, cố sống trong một ngày, một tuần, hay một tháng, đến nổi sinh ốm, phải bỏ việc. Như vậy không phải là cần. Cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm cả đời. Nhưng không làm quá trớn. Phải biết nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình, để làm việc cho lâu dài. Trong quan niệm về Cần của Hồ Chí Minh, ngoài những nội dung trên đây, tôi thấy có hai điểm đặc sắc: Một, Cần còn là kiên trì, bền bỉ, dẻo dai trong mọi công việc. Đó là đức tính kiên tâm, quyết tâm làm bằng được những việc mà mình coi là đúng. Hồ Chí Minh cả những lúc hòa bình, cả những lúc khẩn trương của chiến tranh, thường có kế hoạch công việc thật tỷ mỷ và ông cố gắng hoàn thành theo đúng kế hoạch; nếu hôm nay chưa xong thì hôm sau phải làm bù trở lại. Kiên trì sẽ không làm cho người ta nản lòng, nản chí; dù có 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa vẫn kiên trì đánh đuổi quân xâm lược Mỹ. Làm việc gì thì quyết tâm, kiên nhẫn, đời này chưa xong thì đời tiếp làm cho xong. Đây là sự thi gan của một đức tính dẻo dai. Hai, Cần còn là tăng năng suất lao động, là làm việc có hiệu quả, có kết quả tốt. Không phải cứ làm hùng hục là siêng năng, tích cực, là Cần. Làm hùng hục cả tuần, cả tháng mà không có kết quả, không có hiệu quả, không có năng suất lao động cao thì không bằng làm chỉ có một ngày mà có kết quả tốt. Cái năng suất lao động quan trọng lắm đối với thành quả lao động của từng cá nhân và cả xã hội. Thật ra, xét theo quan điểm xây dựng chủ nghĩa xã hội của V.I. Lênin thì chủ nghĩa xã hội chỉ chiến thắng được chủ nghĩa tư bản ở chỗ có năng suất lao động xã hội cao hơn. KIỆM Kiệm trước hết là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí. Thời của Hồ Chí Minh sống và hoạt động, đất nước Việt Nam còn quá nghèo, hầu như khắp hàng chục năm đất nước phải cầm súng đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ và giải phóng, thống nhất Tổ quốc. Đó là những năm tháng gạo châu củi quế, mọi người phải thắt lưng buộc bụng dồn sức tất cả vì sự nghiệp chống giặc ngoại xâm. Khi đó, tiết kiệm là một chủ trương và biện pháp hữu hiệu trong mọi hành xử của con người và tổ chức. Những cái gì liên quan đến cái ăn, nhất là lúa gạo, liên quan đến tiền là phải dè chừng. Vì thế, Hồ Chí Minh về bản chất đã đành, nhưng do cả thời cuộc nữa, đi công tác thăm nơi này nơi nọ không muốn ăn cơm ở đó mà tự mình mang cơm nắm đi ăn, vì ông ngại nơi đó làm cơm linh đình, mổ gà, giết lợn “khách ba chủ nhà bảy” vừa bị mang tiếng, vừa hoang phí trong lúc đang nghèo. Ông kêu gọi mọi người không nấu rượu và làm các loại bánh trái liên quan đến gạo. Ông kêu gọi mọi người tiết kiệm từng đồ vật, từng mảnh giấy ở công sở và ông là người gương mẫu thực hành. Ông thường chơi chữ rằng, đừng biến tiết kiệm thành tiết canh. Tiết kiệm, theo Hồ Chí Minh, còn là tiết kiệm cả thời gian, là ở tăng năng suất lao động chứ không phải bớt xén thời giờ làm việc. Hồ Chí Minh tiết kiệm trong ăn, ở, mặc, chi tiêu hằng ngày. Ông vẫn thường xuyên có sổ tiết kiệm từ dành dụm lương, tiền nhuận bút để mua quà tặng mọi người, nhất là quà cho các cháu thiếu niên, nhi đồng. Ông là tác giả của “Thịt Việt Minh”, loại thịt được chế biến là một phần thịt, một phần muối và ớt để đi công tác đường xa, dùng dần những ngày thiếu thốn, không phiền nhiễu dân, không tiêu phí đồng tiền của Chính phủ, lại hoà đồng cùng anh em đi cùng. Tiết kiệm của Hồ Chí Minh có cái gì đấy như là hà tiện chăng? Không phải. Ông không ưa sự hà tiện, bủn xỉn. Trong công việc đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ — một công việc đầu tư cho con người, công việc đòi hỏi có sự tốn kém rất lớn — ông liệu trước và sợ nhiều người không dám chi cho công việc này đúng mức, ông dặn rằng, “chớ coi đồng tiền to như cái nống” (cái nống là phương ngữ của miền trung, nghĩa là cái nong). Tiết kiệm hiểu theo nghĩa của Hồ Chí Minh thật biện chứng. Ngay trong thời kỳ kháng Pháp, ông đã nêu ra quan điểm về quản lý tài chính, quản lý ngân sách. Hồ Chí Minh cho rằng: việc gì đáng chi phải chi. Việc gì chưa đáng chi khoan hẵng chi. Việc gì không đáng chi dứt khoát không chi. Đó là ba đoản luận có tính nguyên tắc mà những nhà kinh tế, những nhà quản lý tài chính, quản lý ngân sách, kể cả cá nhân, kể cả các bà nội trợ tay hòm chìa khoá trong từng gia đình có khi học cả đời chưa thuộc bài. Sẽ biết con người ta khôn hay không khôn khi người đó cầm tiền và chi xài như thế nào. Tiết kiệm, theo Hồ Chí Minh, là còn ở nghĩa như trên đây, chứ không phải cứ ki bo kẹt xỉ. Cần và kiệm phải gắn chặt với nhau và nó liên quan chặt chẽ với việc chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Trong đối ngoại, Hồ Chí Minh cho rằng, nếu chúng ta “thi” với nhiều nước về cái giàu sang qua những việc đãi khách, qua xe cộ, qua trang phục của những cán bộ tiếp khách thì chúng ta thua. Chúng ta không nên thi về những cái đó, mà nên thi về tiết kiệm; về khoản thi này nếu chúng ta làm tốt thì chúng ta vẫn thắng. Cần với kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người. Cần mà không kiệm, “thì làm chừng nào sào chừng ấy”. Cũng như một cái thùng không có đáy, nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không. Kiệm mà không cần, thì không tăng thêm, không phát triển. Mà vật gì đã không tiến tức phải thoái. Cũng như cái thùng chỉ đựng một ít nước, không tiếp tục dổ thêm vào, lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần, cho đến khi khô kiệt. LIÊM Liêm tức là "luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân"; "không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân". Phải "trong sạch, không tham lam". "Không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá". Liêm là không tham lam, là liêm khiết, trong sạch. Hồ Chí Minh dẫn cả Nho giáo để nói về điều này. Ông bảo rằng, người mà không liêm thì không bằng con vật, do đó, liêm chính là thước đo tính người. Ông lại nói: một dân tộc biết cần, kiệm, liêm sỉ là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ”. Trong các cuộc đấu tranh thì tự mình đấu tranh với chính mình là điều khó khăn nhất, tức là con người phải biết chế ngự bản thân mình, thoát khỏi sự ham hố hàng ngày. Những cái tham thường có của con người được Hồ Chí Minh chỉ ra: tham tiền của, tham ăn ngon mặc đẹp, nhưng ông còn chỉ ra: tham địa vị, tham danh tiếng, tham quyền lực để cậy thế làm bậy. Hồ Chí Minh nghiêm khắc nêu: “Pháp luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”. Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí, quan liêu là “giặc nội xâm”, thứ giặc ở trong lòng, nó nguy hiểm hơn giặc ngoại xâm. Đây không đơn thuần là cách gọi tên mà liên quan đến phương pháp xử lý. Nếu chỉ gọi là “nạn”, hoặc “quốc nạn” thì chúng ta chỉ dùng phương pháp chống nạn và chống quốc nạn. Còn đã gọi là giặc thì đương nhiên phải dùng phương pháp chống giặc, giết giặc, tiêu diệt giặc. Do vậy, ở đây không có lối xử lý kiểu hành chính, xử lý nộ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_tieu_luan1__292.doc
Tài liệu liên quan