Đề tài Trục lợi trong bảo hiểm xe cơ giới tại Công ty bảo hiểm Hà Nội

Bảo hiểm là ngành dịch vụ có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Bảo hiểm không chỉ thực hiện việc huy động vốn cho nền kinh tế mà quan trọng hơn nó góp phần đảm bảo cho người tham gia về mặt tài chính, khôi phục đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh sau rủi ro. Tuy nhiên, bên cạnh những khách hàng tham gia bảo hiểm với mong muốn được bảo vệ trước rủi ro thì lại có không ít người đã lợi dụng sơ hở của các công ty bảo hiểm để thực hiện hành vi gian lận hòng kiếm lợi cho bản thân. Đó chính là hiện tượng trục lợi bảo hiểm.

Bảo Việt Hà Nội là một trong những Công ty của Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam, trong những năm vừa qua, cùng với sự chuyển mình của đất nước, hoạt động của Công ty đã thu được những thành quả đáng khích lệ và có những đóng góp to lớn cho nền kinh tế của Thủ đô nói chung và nghành Bảo hiểm nói riêng. Tuy nhiên, cũng như tất cả các công ty bảo hiểm khác, Bảo Việt Hà Nội đã và đang phải đối mặt với tình trạng khách hàng trục lợi bảo hiểm ngày càng gia tăng, điều này không chỉ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Công ty mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng.

Qua thời gian thực tập ở Công ty, tôi được biết nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới là nghiệp vụ bị trục lợi nhiều nhất và công tác phòng chống đang gặp rất nhiều khó khăn, chính vì vậy tôi đã chọn đề tài: “ Trục lợi trong bảo hiểm xe cơ giới tại Công ty bảo hiểm Hà Nội ” Chương I: Bảo hiểm xe cơ giới và vấn đề trục lợi bảo hiểm.

ă Chương II: Tình hình trục lợi bảo hiểm xe cơ giới tại Công ty bảo hiểm Hà Nội.

ă Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm tăng cường công tác phòng chống trục lợi bảo hiểm xe cơ giới tại Công ty bảo hiểm Hà Nội.

 

doc98 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1073 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang nội dung tài liệu Đề tài Trục lợi trong bảo hiểm xe cơ giới tại Công ty bảo hiểm Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu Bảo hiểm là ngành dịch vụ có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Bảo hiểm không chỉ thực hiện việc huy động vốn cho nền kinh tế mà quan trọng hơn nó góp phần đảm bảo cho người tham gia về mặt tài chính, khôi phục đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh sau rủi ro. Tuy nhiên, bên cạnh những khách hàng tham gia bảo hiểm với mong muốn được bảo vệ trước rủi ro thì lại có không ít người đã lợi dụng sơ hở của các công ty bảo hiểm để thực hiện hành vi gian lận hòng kiếm lợi cho bản thân. Đó chính là hiện tượng trục lợi bảo hiểm. Bảo Việt Hà Nội là một trong những Công ty của Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam, trong những năm vừa qua, cùng với sự chuyển mình của đất nước, hoạt động của Công ty đã thu được những thành quả đáng khích lệ và có những đóng góp to lớn cho nền kinh tế của Thủ đô nói chung và nghành Bảo hiểm nói riêng. Tuy nhiên, cũng như tất cả các công ty bảo hiểm khác, Bảo Việt Hà Nội đã và đang phải đối mặt với tình trạng khách hàng trục lợi bảo hiểm ngày càng gia tăng, điều này không chỉ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của Công ty mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng. Qua thời gian thực tập ở Công ty, tôi được biết nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới là nghiệp vụ bị trục lợi nhiều nhất và công tác phòng chống đang gặp rất nhiều khó khăn, chính vì vậy tôi đã chọn đề tài: “ Trục lợi trong bảo hiểm xe cơ giới tại Công ty bảo hiểm Hà Nội ” Chương I: Bảo hiểm xe cơ giới và vấn đề trục lợi bảo hiểm. Chương II: Tình hình trục lợi bảo hiểm xe cơ giới tại Công ty bảo hiểm Hà Nội. Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm tăng cường công tác phòng chống trục lợi bảo hiểm xe cơ giới tại Công ty bảo hiểm Hà Nội. Chương I bảo hiểm xe cơ giới và vấn đề trục lợi bảo hiểm I. Sự cần thiết khách quan và tác dụng của bảo hiểm xe cơ giới 1. Đặc điểm của xe cơ giới khi tham gia giao thông đường bộ Giao thông vận tải là ngành kinh tế - kỹ thuật có vị trí quan trọng ảnh hưỏng đến hầu hết các nền kinh tế xã hội, an ninh và quốc phòng. Giao thông vận tải cũng chính là một bộ phận cơ bản trong cơ sở hạ tầng, chính vì vậy nó sẽ phát triển cùng với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hóa của nước ta sẽ không thể thành công nếu thiếu sự phát triển của giao thông vận tải. Trong xu hướng phát triển kinh tế mang tính toàn cầu như hiện nay, giao thông vận tải được ví như sợi dây nối liền nền kinh tế giữa các quốc gia, giữa các vùng kinh tế, tạo điều kiện lưu thông hàng hoá cũng như nhu cầu đi lại của nhân dân. Hơn nữa giao thông vận tải phát triển còn thúc đẩy việc mở rộng giao lưu văn hoá trong và ngoài nước, tạo điều kiện trao đổi thông tin, nâng cao dân trí cho người dân. Vì vậy, có thể nói giao thông vận tải là huyết mạch của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước. Nhận thức rõ được vai trò và vị trí của giao thông vận tải đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong những năm qua Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt đối với ngành giao thông vận tải. Do đó, ngành này đã có sự phát triển cả về chất và lượng, đáp ứng ngày càng cao các yêu cầu đặt ra và là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Với địa hình phức tạp như nước ta đòi hỏi ngành giao thông vận tải phải phát triển toàn diện, bao gồm: vận tải đường bộ, đường thuỷ, đường sắt và vận tải đường hàng không, trong đó vận tải đường bộ là phổ biến hơn cả. Xe cơ giới, theo quy định hiện hành, là tất cả các loại xe tham gia giao thông đường bộ bằng chính động cơ của mình và được phép lưu hành trên lãnh thổ mỗi quốc gia bao gồm: ôtô, mô tô và xe gắn máy. Như vậy, xe cơ giới được xác định bằng ba tiêu thức : Được gắn động cơ. Di chuyển trên đất liền không cần đường dẫn. Tối thiểu có một chỗ ngồi cho người điều khiển. ở Việt Nam xe cơ giới được sử dụng nhiều để vận chuyển hàng hoá và đi lại vì nó có một số đặc điểm mà các loại phương tiện khác không có được đó là : Thứ nhất, chi phí vận chuyển của loại hình vận tải này rất vừa phải, đồng thời tiền vốn bỏ ra để mua sắm phương tiện cũng thấp hơn các hình thức khác. Điều này là yếu tố cơ bản để xe cơ giới phát triển nhanh chóng như trong thời gian gần đây. Thứ hai, xe cơ giới có tính cơ động cao, tính việt dã tốt và tham gia triệt để quá trình vận chuyển nên xác suất rủi ro rất lớn. Thứ ba, xe cơ giới hoạt động trong phạm vi rộng kể cả địa hình khó khăn, có thể vận chuyển người và hàng hoá tới những nơi mà các loại hình vận tải khác không thực hiện được. Chính vì vậy, các cá nhân và doanh nghiệp sử dụng rất nhiều, số lượng đầu xe tăng lên nhanh chóng. Đó là nguyên nhân số vụ tai nạn giao thông đang có chiều hướng gia tăng, đặc biệt ở những nước kinh tế đang phát triển và chậm phát triển. Thứ tư, xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ phụ thuộc nhiều vào cơ sở hạ tầng giao thông, vào địa hình, thời tiết, vào ý thức chấp hành luật lệ giao thông của mỗi người dân. Đặc điểm này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc triển khai bảo hiểm. 2. Sự cần thiết phải bảo hiểm xe cơ giới 2.1. Vài nét về tình hình giao thông đường bộ ở Việt Nam Trong thời kỳ bao cấp, nền kinh tế nước ta chưa phát triển, giao thông chỉ có khoảng 143.985 km đường bộ với 26% được rải nhựa. Sau năm 1986, đất nước bắt đầu mở cửa nền kinh tế, thừa nhận sự kinh doanh cá thể với nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Trước những nhu cầu ngày càng tăng về sự trao đổi hàng hoá, Nhà nước đã xây dựng nhiều con đường mới chất lượng tốt, đồng thời cũng tu sửa lại những con đường đã quá xuống cấp. Đến năm 2002 nước ta có khoảng 256.367 km đường bộ trong đó 40% đã rải nhựa, 12.500 cầu cống các loại đáp ứng khá đầy đủ nhu cầu của xã hội. Nhìn vào những con số trên ta có thể thấy sự phát triển của giao thông đường bộ nước ta là khá nhanh (trung bình mỗi năm có khoảng 300-400 km đường được xây mới). Đặc biệt để kỷ niệm 1000 năm Thăng Long Hà Nội vào năm 2010, Nhà nước đã có những dự án đầu tư vào giao thông rất nhiều. Có thể kể ra những ví dụ điển hình như cầu vượt ở Ngã tư sở, Ngã tư vọng, Kim Liên,… Mặc dù, Đảng và Nhà nước đã có những sự đầu tư vào giao thông đường bộ như vậy, nhưng vấn đề tai nạn giao thông là vấn đề nhức nhối không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các nước phát triển trên thế giới. Hiện nay tai nạn giao thông ở Việt Nam đang gia tăng rất đáng lo ngại, đây là mối quan tâm hàng đầu của dư luận xã hội, của Đảng và Chính Phủ. Ta có thể nhìn thấy điều đó qua bảng sau: Bảng 1: Tình hình tai nạn giao thông đường bộ ở Việt Nam từ năm 1993 đến năm 2002 Năm Số vụ tai nạn Số người chết Số người bị thương 1993 11.582 4.140 11.854 1994 13.760 5.197 14.174 1995 15.376 5.430 16.920 1996 19.075 5.581 21.556 1997 19.159 5.680 21.905 1998 20.753 6.394 22.989 1999 21.420 7.061 24.171 2000 23.327 10.924 25.693 2001 25.967 11.378 27.124 2002 29.168 12.584 30.681 (Nguồn: Viện Chiến lược và phát triển giao thông vận tải) Nhìn vào bảng số liệu ta có thể thấy tình trạng tai nạn giao thông đang gia tăng đến chóng mặt. Nếu như vào năm 1994 chỉ có 13.760 tai nạn thì đến năm 2001 con số này đã tăng lên gấp đôi. Trong khi đó số người chết, bị thương còn tăng với tốc độ nhanh hơn, điều đó chứng tỏ mức độ nghiêm trọng của các vụ tai nạn ngày một tăng. Tình trạng tai nạn giao thông tăng lên một cách đáng lo ngại như vậy bởi một số nguyên nhân: Nguyên nhân khách quan : Bản thân xe cơ giới là loại phương tiện có tính cơ động cao, linh hoạt nên nó thường tham gia triệt để vào quá trình vận chuyển. Điều này đã làm xác suất rủi ro của nó lớn hơn rất nhiều các loại phương tiện khác. Địa hình nước ta tương đối phức tạp với 3/4 diện tích là đồi núi và 108 đèo dốc hiểm trở. Đây là điều gây khó khăn cho việc xây dựng hệ thống giao thông đường bộ hoàn chỉnh. Nguyên nhân chủ quan : - Thứ nhất : Số lượng xe cơ giới tăng nhanh. Cùng với sự tăng trưởng và phát triển của đất nước, nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hoá cũng ngày càng một tăng. Đồng thời giá thành xe cơ giới ngày càng hạ, đặc biệt là thời gian khoảng vào năm 1999 – 2001, số lượng xe Trung Quốc, chất lượng kém nhưng giá rất rẻ đã làm số lượng xe cơ giới tham gia giao thông tăng đột biến. Điều này có thể nhìn thấy qua bảng sau: Bảng 2: Số lượng xe cơ giới tham gia giao thông đường bộ ở Việt Nam (1993 - 2002) đơn vị: xe Năm Ô tô Mô tô Tổng số 1993 292.899 2.427.163 2.720.062 1994 307.078 3.052.847 3.359.925 1995 350.621 3.360.011 3.710.632 1996 379.054 3.451.297 3.832.351 1997 425.026 4.480.100 4.905.126 1998 443.221 4.500.300 4.943.521 1999 465.712 5.560.539 6.026.251 2000 682.643 6.560.420 7.243.063 2001 791.734 8.710.522 9.502.256 2002 855.983 9.128.648 9.984.631 (Nguồn: Viện chiến lược và phát triển giao thông vận tải) Năm 1993 tổng số xe máy và ôtô của nước ta là 2.720.062 thì tới năm 2002, tức là sau 10 năm con số đó đã tăng lên khoảng 3,5 lần, 9.984.631 xe. Tốc độ phát triển của xe cơ giới tăng quá nhanh trong khi đó số km đường của nước ta lại tăng quá chậm. Đó là một điều không cân bằng và là một trong những nguyên nhân gây tai nạn. Với chính sách hạn chế nhập khẩu linh kiện và hạn chế người đăng ký xe máy mới và tiến tới tạm dừng đăng ký xe vô tình kích cầu làm số lượng xe tăng. - Thứ hai : Cơ sở hạ tầng phục vụ giao thông đường bộ còn rất yếu kém. Cho đến năm 2002, cả nước có khoảng 256.367 km đường bộ trong đó chỉ có 40% được rải nhựa, 12.500 cầu cống các loại trong đó 50 – 60% cần được sửa chữa và nâng cấp. Nhưng việc sửa chữa mang tính chắp vá thiếu tính liên tục, đồng bộ làm cho chất lượng của con đường xuống cấp rất nhanh. Ngoài ra biển báo giao thông, thiết bị an toàn giao thông còn thiếu, nhiều biển báo còn đặt ở chỗ khuất khiến người tham gia giao thông khó quan sát, dễ dẫn đến tai nạn. - Thứ ba : ý thức của người tham gia giao thông chưa tốt. Đây là nguyên nhân cơ bản và chủ yếu dẫn đến số vụ tai nạn giao thông ngày càng gia tăng. Theo thống kê cho thấy nguyên nhân gây ra các vụ tai nạn trong các năm qua có tới 70 - 80% là do người tham gia giao thông không chấp hành đúng các qui định về an toàn giao thông (vi phạm tốc độ chiếm 30%, tránh vượt sai qui định 20%, say rượu bia 7%). Theo báo cáo của Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải Lê Ngọc Hoàn tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X thì tổng số phương tiện cơ giới là 8.519.354 xe nhưng chỉ có 4.114.491 người có giấy phép lái xe, chiếm 47,9%. Điều đó cho thấy số người tham gia giao thông không có giấy phép lái xe hoặc chưa học luật mà vẫn sử dụng xe đang chiếm tỷ lệ rất cao. - Thứ tư : Luật pháp nước ta chưa chặt chẽ. Trong những năm qua, luật pháp nước ta về giao thông còn quá lỏng lẻo, chưa chặt chẽ. Điều này đã khiến người dân sử dụng xe cơ giới coi thường pháp luật. Công an chỉ thực sự thực thi nghiêm túc luật pháp trong những tháng an toàn giao thông, điều này là không đủ để người dân sống và làm việc theo luật pháp. 2.2. Sự cần thiết của bảo hiểm xe cơ giới Trước tình hình tai nạn giao thông ngày càng gia tăng với mức độ ngày càng nghiêm trọng, Chính Phủ đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm giảm tình trạng vi phạm luật lệ an toàn giao thông như: tăng cường việc truy cứu trách nhiệm cá nhân, chống hữu khuynh trong điều tra xử lý vi phạm, xác định các đoạn đường thường xảy ra tai nạn để lập biển cảnh báo, qui định về đội mũ bảo hiểm, tăng cường tuyên truyền về an toàn giao thông. Chính Phủ đã lấy năm 2003 là năm an toàn giao thông với việc tăng cường cảnh sát giao thông trên các nút giao thông, xử lý nghiêm các vi phạm về luật lệ an toàn giao thông. Điều này thực sự đang đưa dần người dân sống và làm việc theo pháp luật. Tuy nhiên, với sự cố gắng của bản thân con người cũng như sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật, chúng ta vẫn chưa thể loại bỏ được các tai nạn giao thông xảy ra. Thậm chí tai nạn xảy ra ngày một tăng và đôi khi mang tính thảm hoạ. Khi tai nạn xảy ra, không chỉ có bản thân nạn nhân và gia đình họ bị thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và thu nhập mà xã hội cũng bị ảnh hưởng bởi lẽ những người tham gia giao thông phần lớn là người chủ, trụ cột của gia đình,là những người đảm bảo cuộc sống cho gia đình họ và góp phần tạo nên sự phát triển cho xã hội. Mặc dù pháp luật đã quy định rõ: khi xảy ra tai nạn giao thông, chủ phương tiện phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng và tài sản nếu họ có lỗi dù vô tình hay cố ý, tuy nhiên trên thực tế, việc giải quyết hậu quả của các tai nạn giao thông thường phức tạp và mất nhiều thời gian bởi lẽ : Nhiều trường hợp lái xe cũng bị chết do tai nạn nên việc giải quyết bồi thường cho người thiệt hại trở nên khó khăn và đôi khi không thực hiện được. Khi xảy ra tai nạn một số lái xe do thiếu ý thức đã chạy chốn trách nhiệm bỏ mặc nạn nhân tự gánh chịu hậu quả của tai nạn. Khả năng tài chính của chủ xe không cho phép họ có thể bồi thường đầy đủ cho nạn nhân. Với tất cả lý do trên, khi tai nạn xảy ra quyền lợi của người bị thiệt hại khó có thể được đảm bảo đồng thời nó cũng gây nhiều khó khăn cho chủ xe, làm cho kinh doanh của họ bị đình trệ, tài chính bị khủng hoảng. Để khắc phục tình trạng này chỉ có một biện pháp là phải tập trung một quỹ tiền tệ đủ lớn từ các chủ xe nhằm giải quyết kịp thời hậu quả khi có tai nạn nhằm đảm bảo quyền lợi, giảm bớt khó khăn cho tất cả các bên bị thiệt hại. Đó cũng chính là lý do cho sự ra đời của bảo hiểm xe cơ giới. 3. Tác dụng của bảo hiểm xe cơ giới Hiện nay ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới, khi triển khai bảo hiểm xe cơ giới, các Công ty bảo hiểm thường triển khai kết hợp nhiều nghiệp vụ. Song có hai nghiệp vụ chủ yếu là bảo hiểm vật chất thân xe và bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Việc triển khai bảo hiểm xe cơ giới có những tác dụng sau : ổn định tài chính cho chủ xe. Khi xảy ra tai nạn thuộc trách nhiệm của chủ xe, chủ xe không phải bỏ ra một khoản tiền lớn, đột xuất có thể ảnh hưởng đến gia đình sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác. Nhà bảo hiểm sẽ thanh toán những chi phí mà người tham gia bảo hiểm( chủ xe) gặp phải. Ngoài ra, bảo hiểm cũng góp phần xoa dịu bớt căng thẳng giữa chủ xe và gia đình nạn nhân. Ngăn ngừa đề phòng hạn chế tổn thất. Thông qua công tác bồi thường thiệt hại cho các chủ xe, công ty bảo hiểm thống kê được rủi ro, các nguyên nhân gây ra tai nạn từ đó đề ra các biện pháp hữu hiệu giảm thiểu tai nạn. Quỹ bảo hiểm được sử dụng chủ yếu cho việc bồi thường những thiệt hại do tai nạn gây ra, đồng thời nó cũng được sử dụng một phần để chi cho việc xây dựng, áp dụng các biện pháp an toàn giao thông, phối hợp với cảnh sát giao thông, bộ giao thông triển khai các biện pháp nhằm hạn chế các tổn thất ( như làm đường lánh nạn, biển báo...). Góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Nhà nước Bảo hiểm xe cơ giới là một trong những nghiệp vụ chủ chốt của các công ty bảo hiểm phi nhân thọ. Thông qua thuế , nghiệp vụ này đóng một phần không nhỏ trong nguồn thu của nhà nước. Quỹ bảo hiểm trong lúc nhàn rỗi còn được sử dụng đầu tư cho các ngành sản xuất vật chất khác, phát huy hiệu quả đồng vốn phục vụ cho quá trình tái sản xuất mở rộng. Góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp. Doanh nghiệp bảo hiểm có những đặc thù khác với các doanh nghiệp hoạt động trong các ngành khác, trong đó phải kể đến số lượng nhân viên rất đông, phần lớn là đại lý bảo hiểm. Tính đến tháng 6 - 2002, Bảo Việt đã có tới 14.245 đại lý bảo hiểm, nhưng chỉ đứng thứ 2 so với công ty bảo hiểm Prudential với 24.169 đại lý. Với tỷ lệ thất nghiệp là 6,5%, như ở nước ta thì những con số nói trên thật đáng khuyến khích. Tăng sự gắn bó giữa các thành viên trong xã hội. Điều này có thể thấy thông qua nguyên tắc “Số đông bù số ít” trong Bảo hiểm. Nguyên tắc này khiến mọi người tham gia san sẻ rủi ro cho nhau. Họ sẽ thấy được vị trí và tầm quan trọng của họ trong xã hội. Họ là một nhân tố trong xã hội và họ sẽ liên kết với các thành viên khác để làm xã hội phát triển. II. Nội dung cơ bản của một số nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới ở hầu hết các nước trên thế giới, bảo hiểm xe cơ giới được triển khai với 5 nghiệp vụ dưới 2 hình thức : Bắt buộc và tự nguyện. Các loại hình bảo hiểm xe cơ giới bắt buộc : Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của các chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hành khách trên xe. Các loại hình bảo hiểm xe cơ giới tự nguyện : Bảo hiểm vật chất xe. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hàng hoá vận chuyển trên xe. Bảo hiểm tai nạn người ngồi trên xe và lái phụ xe. Sau đây là nội dung cơ bản của một số nghiệp vụ : 1. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba 1.1.Đối tượng bảo hiểm Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là phần trách nhiệm được xác định bằng tiền theo quy định của pháp luật và sự phán quyết của toà án quyết định chủ xe phải gánh chịu do sự lưu hành xe của mình gây tai nạn cho người thứ ba. Người thứ ba là những người bị thiệt hại về thân thể và tài sản do xe cơ giới gây ra loại trừ người trên xe, lái phụ xe và hành khách trên chính chiếc xe đó. Đối tượng được bảo hiểm ở đây là trách nhiệm và nghĩa vụ bồi thường ngoài hợp đồng của chủ xe cơ giới cho người thứ ba do việc lưu hành xe của mình gây tai nạn. Đối tượng bảo hiểm không được xác định trước chỉ khi nào việc lưu hành xe gây tai nạn mới phát sinh TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. 1.2. Phạm vi bảo hiểm Phạm vi bảo hiểm : Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ của bên thứ ba. Thiệt hại về tài sản, hàng hoá ... của bên thứ ba. Thiệt hại tài sản làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh hoặc thu nhập của bên thứ ba. Các chi phí cần thiết để hạn chế và ngăn ngừa thiệt hại; các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan bảo hiểm ( kể cả biện pháp không mang lại hiệu quả). Những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của những người tham gia cứu người, ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân. Các điều khoản loại trừ : Các điều khoản loại trừ chung : Nhà bảo hiểm không nhận bảo hiểm và không chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại, tổn thất xảy ra do: Hành động cố ý của chủ xe, lái xe. Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo quy định. Chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng điều lệ trật tự an toàn giao thông đường bộ như: Xe không có giấy phép lưu hành. Lái xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ. Lái xe bị ảnh hưởng của rượu, bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự khác trong khi điều khiển xe. Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép. Xe chở quá trọng tải hoặc quá số khách quy định. Xe đi vào đường cấm. Xe đi đêm không đèn hoặc chỉ có đèn bên phải. Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa. Những thiệt hại như : Giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản xuất, kinh doanh. Thiệt hại do chiến tranh. Tai nạn xảy ra ngoài lãnh thổ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các điều khoản loại trừ riêng : Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép ( không có giấy phép vận chuyển hoặc vận chuyển trái với các qui định trong giấy phép vận chuyển ). Thiệt hại đối với tài sản bị mất cắp hoặc bị cướp trong tai nạn. 1.3. Số tiền bảo hiểm Số tiền bảo hiểm là hạn mức trách nhiệm bảo hiểm.Việc xác định chính xác phí bảo hiểm là yêu cầu tối cần thiết bởi lẽ số tiền bảo hiểm tỷ lệ thuận với phí bảo hiểm. Mà phí bảo hiểm lại ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm. Đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thì số tiền bảo hiểm được xác định dựa trên 4 yếu tố: Điều kiện kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ. Tình hình kinh tế xã hội của từng địa phương. Kinh nghiệm của từng công ty bảo hiểm. Khả năng tài chính của chủ xe. 1.4. Phí bảo hiểm Trên cơ sở số tiền bảo hiểm người ta có thể xác định phí bảo hiểm. Đối với mỗi nghiệp vụ khác nhau, phí bảo hiểm có thể xác định theo những cách khác nhau. Tuy nhiên, chúng có cùng điểm chung là cơ cấu phí bảo hiểm trên mỗi đầu phương tiện bao giờ cũng gồm hai phần là Phí cơ bản ( hay còn gọi là phí thuần ) và Phụ phí. Phí cơ bản là phí dùng để bồi thường còn phụ phí gồm các chi phí như đề phòng hạn chế tổn thất, chi quản lý... Ta có công thức : P = f + d Trong đó: P: Phí bảo hiểm trên mỗi đầu phương tiện. f: Phí thuần. d: Phụ phí. Trong nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với người thứ ba, phí thuần được tính theo công thức: ( i=1,2...n ). Trong đó: Si : Số vụ tai nạn xảy ra trong năm thứ i có phát sinh trách nhiệm dân sự. Ti : Thiệt hại bình quân 1 vụ trong năm thứ i có phát sinh trách nhiệm dân sự. Ci : Số xe tham gia bảo hiểm trong năm thứ i có phát sinh trách nhiệm dân sự. Đây là cách tính bảo hiểm cho các phương tiện thông dụng trên cơ sở quy luật số đông. Đối với các phương tiện không thông dụng, mức độ rủi ro lớn hơn như xe kéo rơmoóc, xe chở hàng nặng... thì tính thêm tỷ lệ phụ phí theo mức phí cơ bản. ở Việt Nam hiện nay thường cộng thêm 30% mức phí cơ bản. 2. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe đối với hành khách trên xe 2.1.Đối tượng bảo hiểm Đây là loại hình bảo hiểm áp dụng cho những chủ xe được cơ quan chức năng của nhà nước cấp giấy phép kinh doanh vận tải hành khách. Đối tượng được bảo hiểm là tính mạng và sức khoẻ của hành khách trên xe theo hợp đồng vận chuyển hành khách. 2.2. Phạm vi bảo hiểm Phạm vi bảo hiểm : Thiệt hại về tính mạng, tình trạng sức khoẻ và tài sản của hành khách trên xe. Chi phí cần thiết cấp cứu, chăm sóc nạn nhân. Các điều khoản loại trừ : Các điều khoản loại trừ của bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với hành khách giống như các điều khoản loại trừ chung của bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. 2.3. Số tiền bảo hiểm Đối với bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hành khách, số tiền bảo hiểm được xác định dựa trên các yếu tố: Điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ Khả năng tài chính của chủ xe Kinh nghiệm của từng công ty bảo hiểm 2.4. Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm phải tính riêng cho mỗi hành khách. Công thức khái quát : P = f + d Trong đó : f : phí thuần. d : phụ phí. Phí thuần phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : Số tiền bảo hiểm, xác xuất rủi ro,… 3. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới 3.1. Đối tượng bảo hiểm Đối tượng bảo hiểm là bản thân những chiếc xe còn giá trị và được phép lưu hành trên lãnh thổ quốc gia. Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe là để được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra với xe mình do những rủi ro được bảo hiểm gây nên. Thông thường các chủ xe có thể tham gia bảo hiểm vật chất xe theo một trong hai hình thức là: Bảo hiểm toàn bộ xe hay Bảo hiểm thân vỏ xe. 3.2. Phạm vi bảo hiểm Phạm vi bảo hiểm : Tai nạn do đâm va, lật đổ. Cháy, bão, lũ lụt,sét đánh, động đất, mưa đá. Mất cắp toàn bộ xe ( đối với xe mô tô chỉ bảo hiểm khi có thoả thuận riêng). Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên. Ngoài ra công ty bảo hiểm còn thanh toán những chi phí hợp lý và cần thiết nhằm: Ngăn ngừa, hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các nguyên nhân trên. Chi phí bảo vệ xe và kéo xe thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất. Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm bảo hiểm. Các điều khoản loại trừ : Ngoài các điều khoản loại trừ chung giống như bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm vật chất thân xe còn có các điều khoản loại trừ riêng: Hào mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hư hỏng thêm do sửa chữa. Hao mòn tự nhiên thường được tính dưới hình thức khấu hao và thường được tính theo tháng. Hư hỏng về điện, hoặc bộ phận máy móc, thiết bị ( kể cả máy thu thanh, điều hoà nhiệt độ ), săm lốp bị hư hỏng mà không do tai nạn gây ra. Mất cắp bộ phận của xe. 3.3. Số tiền bảo hiểm Đối với bảo hiểm vật chất thân xe, số tiền bảo hiểm được xác định dựa trên giá trị bảo hiểm. Các công ty bảo hiểm thường dựa vào các yếu tố sau để xác định giá trị xe : Loại xe. Năm sản xuất. Mức độ cũ, mới của xe. Thể tích làm việc của xi lanh. Một phương pháp xác định giá trị bảo hiểm mà các công ty bảo hiểm hay áp dụng đó là căn cứ vào giá trị ban đầu của xe và mức khấu hao, cụ thể: Giá trị bảo hiểm = Giá trị ban đầu - Khấu hao 3.4. Phí bảo hiểm Đối với nghiệp vụ bảo hiểm vật chất thân xe, phí bảo hiểm được tính theo công thức: P = S * R Trong đó: P-phí bảo hiểm mỗi xe. S- Số tiền bảo hiểm. R-tỷ lệ phí bảo hiểm. Tỷ lệ phí bảo hiểm R được xác định căn cứ vào : Xác suất rủi ro đối với những vụ tai nạn giao thông phát sinh nói chung tính cho từng loại xe. Điều kiện thời tiết, khí hậu, địa hình của từng vùng, từng miền mà phạm vi chiếc xe đó hoạt động chủ yếu. Tình trạng thực tế của chiếc xe. Luật thuế của nhà nước. Chi phí quản lý và lãi dự kiến của công ty. 4. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với hàng hoá trên xe 4.1. Đối tượng bảo hiểm Loại hình bảo hiểm này chỉ áp dụng cho những xe có giấy phép kinh doanh vận tải hàng hoá . Đối tượng được bảo hiểm là trách nhiệm và nghĩa vụ bồi thường của chủ xe cơ giới cho chủ hàng khi xe đang lưu hành gây tai nạn làm thiệt hại về hàng hoá chuyên chở

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc100857.doc
Tài liệu liên quan